Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vài tín hiệu thẩm mỹ trong thơ tố hữu...

Tài liệu Vài tín hiệu thẩm mỹ trong thơ tố hữu

.PDF
142
2233
59

Mô tả:

Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu MỤC LỤC MỤC LỤC ........................................................................................................................ 1 QUY ƯỚC VIẾT TẮT ................................................................................................... 4 PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 5 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 5 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 7 2.1. Tác phẩm của Tố Hữu trước năm 1945 ................................................... 7 2.2.Tác phẩm của Tố Hữu từ năm 1945 đến nay ........................................... 7 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 10 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 10 5. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................... 10 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 11 7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................... 11 Chương 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT ........................................................... 12 1. 1 Khái niệm về tín hiệu thẩm mĩ .................................................................. 12 1.1.1 Tín hiệu ................................................................................................. 12 1.1.2 Tín hiệu ngôn ngữ ................................................................................ 16 1.3.3 Tín hiệu thẩm mĩ ................................................................................... 19 1.1.4 Mối quan hệ giữa Tín hiệu, Tín hiệu ngôn ngữ và Tín hiệu thẩm mỹ . 22 1. 2 Những đặc tính của tín hiệu thẩm mỹ. ....................................................... 24 1.2.1. Đặc tính cấp độ. .................................................................................. 24 1.2.2 Đặc tính tác động ................................................................................. 25 1.2.3 Đặc tính biểu hiện ................................................................................ 26 1.2.4 Đặc tính biểu cảm (bộc lộ) ................................................................... 28 1 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu 1.2.5 Tính biểu trưng ..................................................................................... 29 1.2.6 Tính truyền thống và cách tân .............................................................. 30 1.2.7 Tính hệ thống ........................................................................................ 31 1.2.8 Tính đẳng cấu ....................................................................................... 33 1.2.9 Tính trừu tượng và tính cụ thể ............................................................. 35 1. 3 Tín hiệu thẩm mỹ và ngôn ngữ văn chương .............................................. 38 1.3.1 Quan hệ giữa tín hiệu thẩm mỹ với ngôn ngữ văn chương .................. 38 1.3.2 Tín hiệu thẩm mỹ văn chương .............................................................. 40 1.4 Tiểu kết ....................................................................................................... 41 Chương 2: TÍN HIỆU THẨM MỸ BIỂU ĐẠT HÌNH TƯỢNG "BÁC HỒ" TRONG THƠ TỐ HỮU .................................................. Error! Bookmark not defined. 2.1. Kết quả thống kê về số lần xuất hiện của các THTM chỉ Bác Hồ ............ 47 Bảng 2.1 Kết quả thống kê về số lần xuất hiện của các THTM chỉ Bác Hồ ................. 47 2.2 Tín hiệu thẩm mỹ hằng thể “Bác” .............................................................. 48 2.3 Các biến thể của THHT "Bác".................................................................... 51 2.3.1 Biến thể từ vựng của THHT "Bác" ....................................................... 51 2.3.2. Biến thể kết hợp của các THTM chỉ Bác............................................. 66 2.3.3. Biến thể quan hệ của các THTM chỉ Bác Hồ ...................................... 78 2.4 Tiểu kết ....................................................................................................... 86 Chương 3: TÍN HIỆU THẨM MỸ BIỂU ĐẠT HÌNH TƯỢNG “ANH BỘ ĐỘI” TRONG THƠ TỐ HỮU .............................................................................................. 89 3.1. Kết quả thống kê về số lần xuất hiện của các THTM chỉ “Anh bộ đội” ... 92 3. 2 Tín hiệu thẩm mỹ hằng thể "Anh bộ đội" .................................................. 93 3. 3 Các biến thể của THHT “Anh bộ đội” ...................................................... 97 3.3.1 Biến thể từ vựng của THHT "Anh bộ đội" ............................................................ 97 2 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu 3.3.2 Biến thể kết hợp của các THTM chỉ “Anh bộ đội”................................... 114 3.3.3 Biến thể quan hệ của các THTM chỉ “Anh bộ đội” ............................................ 122 4. Tiểu kết ........................................................................................................... 130 KẾT LUẬN ................................................................................................................. 133 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 138 3 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu QUY ƯỚC VIẾT TẮT Chữ viết tắt Giải thích TH Tín hiệu THHT Tín hiệu hằng thể THTM Tín hiệu thẩm mĩ THVC Tín hiệu văn chương YNTM Ý nghĩa thẩm mĩ BT Biến thể BTTV Biến thể từ vựng BTKH Biến thể kết hợp BTQH Biến thể quan hệ Cbh Cái biểu hiện Cđbh Cái được biểu hiện 4 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tín hiệu thẩm mỹ là một khái niệm có liên quan đến lý thuyết tín hiệu học nói chung, lý thuyết ngôn ngữ học nói riêng, đặc biệt là những tín hiệu thẩm mỹ có trong các tác phẩm văn chương. Một tín hiệu thẩm mỹ khi đi vào thế giới thơ ca nghệ thuật đã được chuyển hoá thành một tín hiệu nghệ thuật, tín hiệu thẩm mỹ ngôn ngữ hay còn là tín hiệu văn chương. Khi nghiên cứu giá trị tín hiệu thẩm mỹ cần phải nghiên cứu những biến thể của nó qua mỗi lần xuất hiện và việc nghiên cứu hệ thống tín hiệu thẩm mỹ cũng chính là nghiên cứu cấu trúc hình tượng của tác phẩm nghệ thuật. Tìm hiểu các tín hiệu thẩm mỹ văn chương tức là phải tìm hiểu các yếu tố ngôn ngữ biểu hiện chúng. Chính vì vậy, để hiểu và đánh giá đúng, có cơ sở khoa học một tác phẩm văn học thì rất cần sự khảo sát, phân tích hệ thống các tín hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm văn học. Chính vì thế gần đây vấn đề tín hiệu thẩm mỹ đã được các học giả trong và ngoài nước quan tâm. Ở nước ta, vấn đề tín hiệu và tín hiệu thẩm mỹ đã được nghiên cứu trong các công trình của các tác giả như Hoàng Tuệ, Hoàng Trinh, Đào Thản, Phan Ngọc, Đái Xuân Ninh...Một số luận án tiến sĩ triển khai ngiên cứu theo hướng này cũng đã khẳng định được ý nghĩa lý luận và thực tiễn của hướng nghiên cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ học, đồng thời có những bổ sung mới về lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ. Có thể kể đến các luận án của các tác giả như Trương Thị Nhàn, Phạm Thị Kim Anh, Lê Thị Hồng... Tuy nhiên ở Việt Nam việc nghiên cứu tín hiệu thẩm mỹ văn chương cũng mới chỉ là bắt đầu. 5 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu Đứng về phương diện tác giả, tác phẩm, chúng ta đều biết Tố Hữu (19202002) là một trong những nhà thơ lớn của thơ ca Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm chính của ông là Từ ấy (1946), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận (1962- 1971), Máu và hoa (1977), Một tiếng đờn (1992), Ta với ta (1999). Tố Hữu là nhà thơ lãng mạn cách mạng, cả cuộc đời ông gắn bó với cách mạng. Nếu mỗi nghệ sĩ là một người thư ký của thời đại, theo quan niệm của Balzac, thì Tố Hữu chính là người thư ký của cách mạng. Thơ ông là biên niên sử cách mạng. Có thể lần theo dấu vết thơ ông mà hiểu được những bước thăng trầm của cách mạng, của kháng chiến. Hồn thơ Tố Hữu luôn hướng tới cái ta chung, lẽ sống lớn, niềm vui lớn của dân tộc và cách mạng. "Cái tôi", nếu có là "cái tôi của người chiến sĩ", "cái tôi" nhân danh Đảng và dân tộc. Vì thế "cái tôi" trong thơ Tố Hữu có ý nghĩa khái quát rộng lớn. Cảm hứng trong thơ Tố Hữu thường bắt đầu từ cảm hứng chính trị, từ những tình cảm lớn lao, cao cả như tình yêu lý tưởng, lãnh tụ, tình đồng bào, đồng chí. Ngay từ khi mới xuất hiện, thơ Tố Hữu đã được đón nhận nồng nhiệt. Rất nhiều bình diện thuộc di sản nghệ thuật của ông đã được nghiên cứu một cách nghiêm túc và đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, việc nghiên cứu thơ Tố Hữu từ góc nhìn lý thuyết tín hiệu học - lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ, cho đến nay hầu như chưa có công trình nào. Trong khuôn khổ một luận văn cao học, chúng tôi chỉ chọn một vấn đề trong số rất nhiều vấn đề của sự nghiệp thơ ca Tố Hữu, đó là tìm hiểu hình tượng nghệ thuật được thể hiện qua các tín hiệu thẩm mỹ "Bác Hồ" và "Anh bộ đội" trong thơ ông. Chúng tôi sẽ tìm hiểu vấn đề trên dưới bình diện ngôn ngữ học. Việc áp dụng thành tựu ngôn ngữ học nói chung, tín hiệu học nói riêng, vào đề tài này hy vọng sẽ đem lại những kết quả thú vị, góp phần làm rõ bức chân 6 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu dung tinh thần của nhà thơ Tố Hữu. Đồng thời, chúng ta cũng có thêm cơ sở để khẳng định phương pháp đi đến với đặc trưng ngôn ngữ văn học là phải đi từ hệ thống các đơn vị ngôn ngữ có liên quan chặt chẽ với việc nghiên cứu nội dung tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ trong văn học...Vấn đề tín hiệu thẩm mĩ được nghiên cứu thấu đáo chắc chắn sẽ là tiền đề giúp các nhà nghiên cứu tiếp tục soi chiếu vào các hiện tượng văn học khác. Thêm nữa, Tố Hữu là một tác gia có nhiều tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông. Vì vậy đề tài luận văn có ý nghĩa thực tiễn to lớn và rất hữu ích đối với việc dạy và học của giáo viên và học sinh trong nhà trường. 2. Lịch sử vấn đề Về tổng thể lịch sử nghiên cứu thơ Tố Hữu có thể chia làm 2 thời kỳ lớn theo dòng lịch sử của dân tộc: Trước và sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Thơ Tố Hữu liên hệ chặt chẽ với cuộc đấu tranh cách mạng và giải phóng dân tộc. Các chặng đường thơ ông song hành với các giai đoạn lịch sử. 2.1. Tác phẩm của Tố Hữu trước năm 1945 Tập thơ “Từ ấy” (1937-1946) là chặng đường sáng tác đầu tiên kéo dài mười năm của Tố Hữu, cũng là 10 năm hoạt động sôi nổi say mê, từ giác ngộ qua thử thách đến trưởng thành của người thanh niên yêu nước trong một giai đoạn lịch sử sôi động. Tập thơ gồm 3 phần tương ứng với ba chặng đường hoạt động của Tố Hữu trước năm 1945. Với tập thơ này đa số các ý kiến đều tập trung vào đề tài, hình thơ, tâm trạng thơ…với không ít những lời ca ngợi, biểu dương. 2.2.Tác phẩm của Tố Hữu từ năm 1945 đến nay Tiếp nối với Từ ấy là hàng loạt các tác phẩm như Máu lửa ca ngợi lý tưởng cộng sản, kêu gọi quần chúng đứng lên đấu tranh. Xiềng xích ghi lại cuộc đấu 7 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu tranh cam go của người chiến sĩ trẻ tuổi trong nhà tù thực dân. Phần này thể hiện sự vững vàng của Tố Hữu, đồng thời cũng bộc lộ một tâm hồn yêu đời tha thiết. Giải phóng thể hiện niềm vui chiến thắng, ca ngợi sự thành công của cách mạng. Việt Bắc (1947-1954)- giải nhất của Hội nhà văn Việt Nam 1954-1955, là chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm kháng chiến chống Pháp. Tập thơ ca ngợi cuộc sống, con người kháng chiến, quá trình trưởng thành và thắng lợi của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Gió lộng (1955-1961) là tiếng hát ca ngợi cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, bộc lộ nỗi niềm tha thiết với miền Nam, đồng thời thể hiện ý chí thống nhất đất nước, tình cảm quốc tế vô sản. Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977) là hai tập thơ ra đời trong thời kỳ cả nước chiến đấu kiên cường, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Cả hai tập thơ khẳng định phẩm chất Việt Nam, sức mạnh Việt Nam, đồng thời là khúc ca khải hoàn kết thúc cuộc chiến đấu, Bắc Nam một nhà, non sông một dải. Một tiếng đàn (1992), Ta với ta (1999) đánh dấu bước chuyển mới trong thơ Tố Hữu. Ông hướng ngòi bút vào cuộc sống đời thường. Nếu Từ ấy là tiếng hát của một chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi thì hai tập thơ trên thể hiện những chiêm nghiệm của một con người từng trải. Sau bao nhiêu biến động, Tố Hữu vẫn vững tin vào lý tưởng cách mạng. Giai đoạn này có rất nhiều bài tìm hiểu, bình luận, nghiên cứu về thơ Tố Hữu, tất cả đều đánh giá và khẳng định sự đóng góp lớn lao của thơ ông vào tiến trình hình thành và phát triển của thơ ca cách mạng. Tuy nhiên hầu hết các công trình nghiên cứu đều được soi chiếu dưới góc độ văn học sử, lý luận văn học, lý thuyết làm văn là chủ yếu. Vấn đề tín hiệu thẩm mỹ là vấn đề có liên quan trực tiếp đến đề tài mà luận văn nghiên cứu, từ lâu đã được các ngành nghệ thuật, đặc biệt là ngữ văn học và ngôn ngữ học đề cập đến. Có thể kể đến một số tác giả tiêu biểu như M.B 8 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu Khrapchenkô, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Lai, Trần Đình Sử, Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Hoàng Trinh…Đây là vấn đề mang tính chất liên ngành, được nhìn nhận từ nhiều góc độ. Việc vận dụng lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ vào nghiên cứu văn chương cũng đã được chú ý từ những năm 80 của thế kỷ trước với những luận án, luận văn của các tác giả như Đinh Văn Thiện với tác phẩm Khảo sát các nét nghĩa biểu trưng của các từ chỉ hiện tượng thiên nhiên (1983), Lê Thị Hồng, Tìm hiểu vấn đề tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Huy Cận (1983), Trương Thị Nhàn: Tìm hiểu gía trị biểu trưng của một số từ chỉ hiện tượng thiên nhiên trong tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (1984) Lê Thị Tuyết Hạnh, Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Xuân Quỳnh (1990). Nguyễn Thu Trang, Các tín hiệu thẩm mĩ "Bác Hồ" và "Tổ quốc" trong thơ Chế Lan Viên (2008)… Những công trình nghiên cứu trên cũng đã thu được ít nhiều kết quả khả quan đồng thời góp thêm tiếng nói thiện ý đối với các vấn đề tín hiệu thẩm mỹ trong văn chương. Luận án tiến sĩ của tác giả Trương Thị Nhàn: Sự biểu đạt bằng ngôn ngữ của tín hiệu thẩm mỹ không gian trong ca dao, luận án tiến sĩ của Phạm Thị Kim Anh: Tín hiệu thẩm mỹ thuộc trường nghĩa “cây” trong thơ Việt Nam cũng đã vận dụng các cơ sở lý thuyết về tín hiệu, hoạt động giao tiếp, về hệ thống, trường nghĩa, về ngôn ngữ liên hội để xem xét các tín hiệu thẩm mỹ văn chương. Và đặc biệt là sự ra đời của cuốn sách Tín hiệu thẩm mỹ trong ngôn ngữ văn học của Mai Thị Kiều Phượng, xuất bản năm 2008…đã có những đóng góp nhất định vừa mang tính chất bổ sung vừa là bằng chứng xác thực khẳng định ưu thế của hướng nghiên cứu này. Tuy nhiên, nếu như các công trình nghiên cứu các tác phẩm thơ Tố Hữu dưới góc độ văn học phải kể đến hàng trăm (bao gồm các cuốn sách, các bài báo, chuyên khảo, tiểu luận, phê bình, luận án, luận văn…) thì các công trình nghiên 9 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu cứu về hiện tượng thơ Tố Hữu dưới góc độ lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ hầu như vẫn còn vắng bóng. Do đó, với đề tài này, luận văn mong muốn góp thêm một tiếng nói cho hướng nghiên cứu mới về hiện tượng văn học rất đỗi phức tạp và lý thú nhưng hầu như vẫn còn bỏ ngỏ này. 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn tiến hành tìm hiểu các hình tượng nghệ thuật được thể hiện qua các tín hiệu thẩm mỹ “Bác Hồ” và “Anh bộ đội ” trong thơ Tố Hữu. Nói một cách khái quát, đó là việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ- hệ thống với thực tiễn hành chức trong một loại hình văn học cụ thể: thơ ca. Mục đích của luận văn nhằm tìm hiểu về lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ và cơ chế hình thành, giải mã tín hiệu thẩm mỹ gắn với cấu trúc tác phẩm, đặc trưng thể loại và phong cách tác giả. Từ đó luận văn áp dụng lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ và một số lý thuyết liên ngành khác vào khảo sát những tín hiệu cụ thể làm đại diện nhằm rút ra những vấn đề có tính nguyên lý chung trong việc xử lý các tín hiệu thẩm mỹ trong văn học để phân tích các hình tượng văn học được chúng phản ánh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các tín hiệu thẩm mỹ "Bác Hồ" và "Anh bộ đội" trong thơ Tố Hữu. Phạm vi tư liêụ được khảo sát là toàn bộ thơ Tố Hữu. Ngoài ra chúng tôi cũng trích dẫn một số câu thơ của những nhà thơ cách mạng khác cùng thời với ông để làm cứ liệu so sánh. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa lý thuyết về tín hiệu thẩm mỹ để làm cơ sở cho việc nghiên cứu. - Phân tích ý nghĩa thẩm mỹ của các THTM "Bác Hồ" và "Anh bộ đội" trong thơ Tố Hữu. 10 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu 6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và sự kết hợp các phương pháp sau: - Vận dụng những thành tựu về lý luận của ngôn ngữ học truyền thống và ngôn ngữ học hiện đại, nhất là ngữ dụng học... kết hợp với lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ, lý luận văn học, thi pháp học nhằm tiếp cận và luận giải vấn đề được nghiên cứu. - Vận dụng các phương pháp, thủ pháp nghiên cứu ngôn ngữ học đặc thù: Thống kê, phân loại, phân tích diễn ngôn, phân tích ý nghĩa của từ trong ngữ cảnh được sử dụng theo lý thuyết ngữ dụng học. Trên cơ sở đó luận văn đã phân tích các tín hiệu thẩm mỹ "Bác Hồ" và "Anh bộ đội" trong toàn bộ các tập thơ của Tố Hữu. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành ba chương: Chương 1: Những tiền đề lý thuyết Chương 2: Tín hiệu thẩm mỹ biểu đạt hình tượng “Bác Hồ” trong thơ Tố Hữu. Chương 3: Tín hiệu thẩm mỹ biểu đạt hình tượng “Anh bộ đội” trong thơ Tố Hữu 11 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu Chương 1 NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT 1. 1 Khái niệm về tín hiệu thẩm mĩ 1.1.1 Tín hiệu Trong cuốn Những cơ sở lý thuyết về tín hiệu xuất bản năm 1936, Ch.W.Morris đã hệ thống hóa và xây dựng một lý thuyết tổng quan về tín hiệu. Ông chia ra ba chiều của tín hiệu. Thứ nhất là chiều kết học, thứ hai là chiều nghĩa học, thứ ba là chiều dụng học. Chiều kết học nghiên cứu các tín hiệu trong mối quan hệ với các tín hiệu khác. Chiều nghĩa học nghiên cứu các tín hiệu trong mối quan hệ với các sự vật bên ngoài hệ thống tín hiệu. Chiều dụng học nghiên cứu các tín hiệu trong những mối quan hệ với người sử dụng nó. Ba thuật ngữ này thật sự có giá trị định hướng nghiên cứu cho tín hiệu học, bởi vì chúng phát hiện ra những phương diện cơ bản của tín hiệu và thông điệp. Có thể nói tín hiệu được sử dụng rất nhiều trong thực tế cuộc sống, điển hình như tiếng kẻng báo giờ học, biển vẽ trên đường giao thông, tín hiệu hàng hải, các ký hiệu trong toán học, hóa học, vật lý...Con người thường dùng một cái gì đó làm tín hiệu thay thế cho một cái gì khác hoặc thay thế cho một khái niệm trừu tượng. Từ đó xuất hiện rất nhiều quan niệm khác nhau về tín hiệu. P. Guiraud đã định nghĩa tín hiệu theo nghĩa rộng “Một tín hiệu là một kích thích mà tác động của nó đến cơ thể gợi ra hình ảnh ký ức của một kích thích khác” [dẫn theo [5, tr51]. Sở dĩ định nghĩa này được xem là rộng bởi vì nó bao gồm cả những tín hiệu theo nghĩa hẹp, cả những tín hiệu “nhận biết” và cả những tín hiệu “giao tiếp”, có tính bản năng của loài vật. 12 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu A. Schaff lại định nghĩa tín hiệu theo nghĩa hẹp “Một sự vật vật chất hay thuộc tính của nó, một hiện tượng thực tế sẽ trở thành tín hiệu nếu như trong quá trình giao tiếp, nó được các nhân vật giao tiếp sử dụng trong khuôn khổ của một ngôn ngữ để truyền đạt lại một tư tưởng nào đó về thực tế, tức về thế giới bên ngoài hay về những cảm thụ nội tâm...”(Dẫn theo [5, tr 51]). Định nghĩa của A.Schaff hẹp vì ông chỉ thừa nhận là tín hiệu khi nó mang chức năng giao tiếp được con người sử dụng nhằm trao đổi tư tưởng, tình cảm của mình trong đời sống. Theo ông, những tín hiệu không có chức năng giao tiếp thì không được xem là tín hiệu. Quan niệm về tín hiệu của F. De. Sausure lại khác với cách hiểu của Peirce. Theo F.de. Saussure, tín hiệu là hai mặt của cái biểu hiện (hình thức vật chất cảm tính) và cái được biểu hiện (nội dung ý nghĩa). Hai mặt này "gắn bó khăng khít với nhau, không có cái này là không thể có cái kia" [64, tr 121]. Qua phân tích các định nghĩa, chúng tôi thấy các ý kiến đều có sự thống nhất rằng một sự vật hay hiện tượng muốn trở thành tín hiệu thì nó phải nằm trong quan hệ với những sự vật khác. Chúng tôi chấp nhận định nghĩa về tín hiệu của tác giả Mai Thị Kiều Phượng trong cuốn sách “Tín hiệu thẩm mĩ trong ngôn ngữ văn học”: Tín hiệu là một yếu tố vật chất ( một sự vật, một thuộc tính vật chất hoặc một hiện tượng...) kích thích vào giác quan của con người, làm cho người ta tri giác được, suy diễn được và lý giải được, để thông qua đó biết về và biết tới một cái gì khác ở ngoài sự vật đó.[43, tr.39, 40]. Một tín hiệu cần phải thỏa mãn các điều kiện: Đầu tiên, tín hiệu phải có tính vật chất. Vật chất đó là một sự vật hoặc là một thuộc tính vật chất như âm thanh, màu sắc, ánh sáng, vật thể. Đồng thời thuộc tính vật chất ấy phải có chức năng kích thích đến giác quan của con người 13 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu và được con người cảm nhận bằng chính giác quan của mình. Ví dụ như: hai đặc vụ vì nhiệm vụ bí mật không hề quen biết nhau, họ muốn thực hiện nhiệm vụ trao đổi thông tin cho nhau, bằng cách người này liên lạc với người kia bởi một dấu hiệu vật chất được quy ước trước, có thể là một ám hiệu nào đó. Chính dấu hiệu này đã kích thích vào giác quan của họ, được họ cảm nhận, giúp họ suy diễn, lý giải thì họ mới có thể nhận ra nhau. Ở đây chúng ta cũng cần phân biệt, tín hiệu của loài người với tín hiệu cũng được cảm nhận bằng giác quan của loài vật, nhưng đó chỉ là phản xạ có điều kiện của loài vật mà thôi. Chẳng hạn, cứ đến giờ cho ăn ta đánh kẻng, khi tiếng kẻng vang lên con chó chạy đến để ăn hay khi vỗ tay đàn cá đến gần bờ...Những tiếng kẻng đó hay tiếng vỗ tay có thể trở thành tín hiệu của loài cá hoặc loài chó nhưng không phải là tín hiệu như tín hiệu của con người. Thứ hai, tín hiệu phải mang nghĩa. F.Guiraud quan niệm: Ý nghĩa của cái được gợi ra trong tín hiệu bao giờ cũng là một thực thể tâm lý thuộc tinh thần. Chẳng hạn hệ thống đèn giao thông đỏ, vàng, xanh, đóng vai trò là cái biểu hiện, nó có chức năng gợi ra hình ảnh tinh thần khác không phải là chính bản thân nó mà là gợi cho người tham gia giao thông một nội dung khác là “dừng lại” và “chuẩn bị đi”... Thứ ba, tín hiệu phải mang tính dụng học, tức tín hiệu phải được các chủ thể tiếp nhận và lý giải được, ví dụ như tiếng kẻng vang lên trong sân trường đối với học sinh là tín hiệu báo hiệu giờ học khác với tiếng kẻng vang lên trong sân đình hợp tác xã nông nghiệp báo hiệu giờ đi làm. Thứ tư, tín hiệu phải được con người nhận thức trong mối quan hệ hai mặt của nó, tức là người ta buộc phải liên tưởng được cái biểu hiện với “một cái gì đó” là "cái được biểu hiện". Tính liên tưởng hai mặt này là một điều kiện không 14 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu thể thiếu của tín hiệu. Nói cách khác, nếu không có điều kiện này thì một sự vật không thể được nhận thức để trở thành tín hiệu. Dưới đây, chúng tôi sẽ nêu ra một số cách phân loại tín hiệu của các nhà ngôn ngữ học: Ch.S.Pierce, Morris, A.Chaff, P.Guiraud và của Đỗ Hữu Châu. Ch.S. Peirce chia tín hiệu thành 10 loại lớn, mỗi loại lớn lại chia thành nhiều loại nhỏ (tất cả khoảng 60 loại), dựa vào những tiêu chí có khi chồng chéo nhau, nhưng chủ yếu vẫn là 3 loại chính: tín hiệu (symbole), hình hiệu (iconet) và dấu hiệu (indices). Morris dựa vào mối quan hệ giữa tín hiệu với sự biểu thị các loại sự vật của tín hiệu mà chia thành 2 loại tín hiệu: chỉ hiệu và định hiệu (tín hiệu nêu đặc trưng, đặc tính). Các chỉ hiệu như những động tác chỉ trỏ, tín hiệu giao thông hay các từ chỉ xuất trong ngôn ngữ có tác dụng chỉ ra hướng hoặc xác định vị trí không gian, thời gian của sự vật đối với nhân vật giao tiếp. Sau đó, ông lại chia các định hiệu ra thành hình hiệu và biểu trưng (symbole). A.Schaff xuất phát từ cơ sở chỉ xem tín hiệu gắn liền với chức năng giao tiếp nên ông đã tiến hành phân loại như sau, đầu tiên, ông chia tín hiệu thành 2 loại: tín hiệu tự nhiên và tín hiệu nhân tạo. Tín hiệu nhân tạo còn được coi là tín hiệu đích thực, trong tín hiệu đích thực còn được chia thành tín hiệu từ và tín hiệu thực có khả năng bộc lộ nhất định. Sau đó, tín hiệu thực có khả năng bộc lộ nhất định lại được chia thành ra lệnh hiệu và định hiệu. Các định hiệu lại được chia thành các định hiệu đích thực và các symbole. F.Guidaur từ 1950 đã đưa ra một bảng phân loại các tín hiệu. So với những kết quả phân loại trước, cách phân loại của F.Guiraud có nhiều ưu điểm hơn. Ông phân chia tín hiệu dựa trên mối quan hệ giữa thực tế nhận thức của con người. Trong đó, tác giả quan tâm tới những tín hiệu biểu hiện (tín hiệu không 15 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu giao tiếp). Những tín hiệu biểu hiện về bản chất là các hình hiệu và chức năng của chúng không phải là công cụ giao tiếp mà là công cụ để phản ánh, miêu tả thực tế khách quan. Ví dụ như bức ảnh, bản nhạc,v..v...Chúng là sản phẩm của các loại hình nghệ thuật và thuộc đối tượng nghiên cứu của nghệ thuật học. P.Guiraud tiếp tục phân chia tín hiệu thành tín hiệu tự nhiên (là đối tượng của khoa học tự nhiên) và tín hiệu nhân tạo. Trong tín hiệu nhân tạo ông lại chia thành tín hiệu không giao tiếp và tín hiệu giao tiếp. Ông còn dựa theo đặc tính thể chất của tín hiệu mà phân chia các tín hiệu thành tín hiệu thị giác, tín hiệu thính giác, tín hiệu xúc giác. Theo đặc tính chuyển mã hay chưa chuyển mã, ông chia tín hiệu thành tín hiệu thứ cấp (còn gọi là ký hiệu) và tín hiệu sơ cấp...Guiraud cũng chỉ ra sự xâm nhập lẫn nhau của các loại tín hiệu. Đỗ Hữu Châu xem tín hiệu là một thực thể đa diện cho nên căn cứ vào các phương diện khác nhau có thể định ra các tiêu chí phân loại khác nhau. Ông đưa ra những tiêu chí phân loại sau: 1/ Dựa vào đặc tính thể chất của cái biểu hiện 2/Dựa vào nguồn gốc của tín hiệu 3/Dựa vào mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện 4/ Căn cứ vào chức năng xã hội của tín hiệu. Dựa vào mặt thể chất của tín hiệu có thể phân chia ra được cái loại tín hiệu như: tín hiệu màu sắc, tín hiệu âm thanh v...v...Trong đó tín hiệu ngôn ngữ được coi là một loại tín hiệu đặc biệt. 1.1.2 Tín hiệu ngôn ngữ Tín hiệu ngôn ngữ (THNN) luôn nằm trong ba mối quan hệ chính: quan hệ giữa các tín hiệu với tín hiệu, quan hệ giữa tín hiệu với thực tế, quan hệ giữa tín hiệu với nhân vật giao tiếp. Ba quan hệ này hình thành ba lĩnh vực nghiên 16 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu cứu: cú học, nghĩa học và dụng học. Ba bình diện này luôn đặt trong mối quan hệ khăng khít với nhau, không có cái này là không thể có cái kia. Một cái gì đó để trở thành tín hiệu ngôn ngữ nó phải thỏa mãn các điều kiện sau: Thứ nhất, THNN được xây dựng từ hai thể chất (thể chất vật chất và thể chất tinh thần). Thể chất vật chất là các âm thanh do bộ máy phát âm của con người phát ra và các âm thanh ấy được ký hiệu lại bằng hệ thống văn tự; thể chất tinh thần là những hiểu biết về các thuộc tính của sự vật, hiện tượng và những hiểu biết về mối quan hệ giữa sự vật, hiện tượng do tư duy mang lại. Các thuộc tính vật chất ấy của tín hiệu ngôn ngữ phải có chức năng kích thích đến giác quan của con người, sau đó được con người cảm nhận, giúp họ suy diễn, lý giải các nội dung mà tín hiệu mang lại. Thứ hai, THNN phải có hình thức âm thanh hoặc chữ viết, có chức năng gợi ra, đại diện, thay thế cho một cái gì đó khác với nó, không phải là chính bản thân hình thức âm thanh hoặc chữ viết đó. F.de Sausure xác định tín hiệu ngôn ngữ như sau: "Tín hiệu ngôn ngữ kết liền thành một, không phải một sự vật với một tên gọi mà là một khái niệm với một hình ảnh âm thanh", hai yếu tố này gắn bó khăng khít với nhau và đã có cái này là có cái kia (khái niệm được gọi là cái được biểu hiện (cđbh) và hình ảnh âm thanh gọi là cái biểu hiện (cbh) [64, tr 121]. Hai mặt này như hai mặt của một tờ giấy, không thể tách rời nhau. Theo F.Sausure, “mối tương quan giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là võ đoán” và ông “chỉ muốn nói rằng nó không có nguyên do, nghĩa là nó võ đoán đối với cái được biểu hiện, vì trong thực tế nó không có một mối liên quan tự nhiên nào với cái đó” (Dẫn theo [49, tr122 và 124]. Ch.S.Pierce cũng có quan niệm tương tự. Ông cho rằng đại đa số tín hiệu 17 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu ngôn ngữ thuộc loại ước hiệu, loại tín hiệu mà mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt là hoàn toàn võ đoán, không giải thích được nguyên do. Loại tín hiệu này sẽ mất tư cách là tín hiệu nếu không có cái lý giải. Như vậy, THNN là mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện, nội dung và hình thức, âm thanh và ý niệm. Khi nói tới tính hiện thực của hoạt động ngôn ngữ, Sausure chỉ rõ rằng: “Thường người ta không nói bằng tín hiệu riêng lẻ, mà bằng từng nhóm tín hiệu, từng khối có tổ chức, vốn cũng là tín hiệu” [64, tr 121]. Vấn đề “có tổ chức” ở lĩnh vực ngôn ngữ mà ông đề cập đến ở đây chính là vấn đề về tính hệ thốngmột đặc tính làm nên bản chất tín hiệu của ngôn ngữ. Và giá trị của mỗi yếu tố là do các yếu tố khác trong hệ thống quy định. Sau này, Ch.W. Morris cũng đồng tình với Sausure về quan điểm cho rằng tất cả các tín hiệu đều nằm trong quan hệ với các tín hiệu khác và quy định lẫn nhau. Do đó, các tín hiệu luôn nằm trong một hệ thống nhất định. Ngôn ngữ là một loại tín hiệu đặc biệt nên nó cũng lập thành một hệ thống với những cấp độ và quan hệ đặc thù của mình. Đỗ Hữu Châu coi ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu sơ cấp được xây dựng với những thể chất tinh thần và vật chất, đó là những âm thanh do bộ máy cấu âm của con người làm ra [6, tr 753]. Đỗ Hữu Châu đặc biệt lưu ý vấn đề chức năng và đặc tính đa chức năng của các tín hiệu ngôn ngữ so với các hệ thống tín hiệu nói chung và tín hiệu mang chức năng giao tiếp nói riêng. Nếu như các tín hiệu khác ở từng hệ thống chỉ thực hiện được một chức năng tín hiệu học thì ngôn ngữ không chỉ thuần túy mang chức năng giao tiếp mà đồng thời còn là công cụ để tư duy, để tổ chức xã hội, để duy trì sự sống của con người và còn mang chức năng thi pháp...Trong đó chức năng giao tiếp được coi là chức năng xã hội quan trọng nhất của ngôn ngữ. Đối với chức năng giao tiếp, cũng có sự phân biệt các 18 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu chức năng khác nhau có liên quan đến các nhân tố khác nhau của hoạt động giao tiếp: chức năng miêu tả, chức năng dụng học, chức năng phát ngôn, chức năng cú học. Chức năng giao tiếp và chức năng tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhau. Mỗi đơn vị ngôn ngữ vừa phục vụ cho hoạt động giao tiếp vừa phục vụ cho hoạt động tư duy. Có thể kể chức năng định danh là chức năng đặc trưng của tín hiệu ngôn ngữ. Chức năng định danh chỉ riêng ngôn ngữ mới có. Từ các phương diện chức năng khác nhau của ngôn ngữ có thể xác định ý nghĩa tín hiệu của chúng trên tất cả những đơn vị mang nghĩa như từ, cụm từ, câu, đoạn văn, văn bản. Một từ ngữ hay một câu nói nào đó có thể vừa mang những thông tin về sự vật, hiện tượng được nói đến, vừa bộc lộ những đặc điểm về địa phương, về nghề nghiệp, về trạng thái tâm lý của người nói v.v... Có thể nói, sự trình bày các vấn đề về tín hiệu và tín hiệu ngôn ngữ trên đây là những tiền đề quan trọng để chúng ta tiếp tục tìm hiểu đến vấn tín hiệu ngôn ngữ thẩm mĩ và các đặc tính của nó. 1.3.3 Tín hiệu thẩm mĩ Nghiên cứu tín hiệu ngôn ngữ thẩm mỹ là một vấn đề có tính liên ngành: ngôn ngữ học, văn học, tín hiệu học, lý luận văn học, xã hội học, dân tộc học, tâm lý học... Về mặt lý luận văn học, các nhà nghiên cứu chú ý đến đặc tính của ngôn ngữ văn học để từ đó nêu lên những vấn đề liên quan đến tín hiệu thẩm mỹ (THTM). M.B.Khrapchenco xem: nhân hóa, ẩn dụ, phúng dụ, tượng trưng, những hình tượng nghệ thuật đã được mài mòn và cố định hóa về mặt ý nghĩa là những ký hiệu thẩm mỹ. Trong lý thuyết thông tin, THTM được quan niệm đồng nghĩa với cái đẹp. 19 Trần Thị Thái Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Tố Hữu Trong lĩnh vực nghiên cứu phê bình văn học, THTM được coi là chất liệu cấu thành nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm văn học. Trong lĩnh vực ngữ nghĩa học, THTM được coi là khái niệm mang tính biểu trưng đồng thời chúng còn là phương tiện chuyển nghĩa tạo nghĩa mới. Trong lĩnh vực dụng học, THTM nghiên cứu quan hệ giữa tín hiệu ngôn ngữ thẩm mỹ với con người lý giải chúng, với các nhân vật giao tiếp trong tác phẩm ngôn ngữ văn học và ngoài tác phẩm ngôn ngữ văn học. Các nhà phong cách học có thể giới hạn khái niệm THTM trong phạm vi hẹp hơn là những tín hiệu nghệ thuật chìa khoá có giá trị tổ chức để biểu hiện tư tưởng tình cảm của bài văn hay những “thần cú”, những “nhãn tự”, những TH ngôn ngữ mang phẩm chất thẩm mỹ, những đối thoại có tính thẩm mỹ trong văn học v.v... Việc xác định thế nào là THTM vẫn là một câu hỏi lớn cho các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, có một điểm chung là họ đều thừa nhận THTM là yếu tố thuộc hệ thống phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Đó là những phương tiện nghệ thuật được tập trung theo một hệ thống tác động thẩm mỹ, được chúng ta tiếp nhận như là những tín hiệu đặc biệt, có khả năng kích thích mạnh đến thế giới tinh thần của chúng ta (Dẫn theo [20, tr17]). Và chúng có tính chất vật thể hay phi vật thể thì cũng phải có ý nghĩa thẩm mỹ và được sử dụng vào mục đích thẩm mỹ. Đỗ Hữu Châu đã đi vào những kiến giải cụ thể hơn về THTM. Theo ông, ngôn ngữ THTM là phương tiện sơ cấp của văn học. Ngôn ngữ thực sự của văn học là ngôn ngữ - THTM, cú pháp- THTM. Tín hiệu (TH) ngôn ngữ tự nhiên trong văn học chỉ là hình thức- cbh của THTM. Hoặc có thể nói theo Đinh Trọng Lạc là TH ngôn ngữ- văn học ấy đóng vai trò là hệ thống tín hiệu thứ nhất làm 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan