Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở cơ sở (nghiên cứu trường hợp xã li...

Tài liệu Vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở cơ sở (nghiên cứu trường hợp xã liên minh, huyện vụ bản, tỉnh nam định)

.PDF
131
1031
127

Mô tả:

1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA XÃ HỘI HỌC ****** @ ******  PHẠM THỊ THUÝ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ (Nghiên cứu trường hợp xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC Hà Nội, 2004 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA XÃ HỘI HỌC ****** @ ******  PHẠM THỊ THUÝ VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ (Nghiên cứu trường hợp xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). LUẬN VĂN THẠC SỸ XÃ HỘI HỌC MÃ SỐ 5.01.09 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ THỊ QUÝ Hà Nội, 2004 5 CHỮ VIẾT TẮT BCT : Bộ Chính trị BCH HPN : Ban chấp hành hội phụ nữ CNH- HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá. GS : Giáo sư HĐND : Hội đồng nhân dân HTCT : Hệ thống chính trị HTX : Hợp tác xã Nxb : Nhà xuất bản LHPN : Liên hiệp phụ nữ TS : Tiến sỹ Tr : Trang UBND : Uỷ ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa [32.25] : Trích trang 25 của tài liệu tham khảo số 32 trong danh mục tài liệu tham khảo 6 MỤC LỤC Trang Lời cảm ơn Chữ viết tắt 3 4 Mục lục 5 Phần 1: Phần mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 7 7 10 3. Đóng góp của đề tài 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 12 12 5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết 12 13 7. Phương pháp nghiên cứu 8. Kết cấu luận văn 14 15 Phần 2: Phần nội dung 18 Chương 1: Cơ sở lý luận và phương pháp luận 1.1. Những khái niệm cơ bản 1.2. Cơ sở lý luận 1.3. Phương pháp luận 18 18 25 30 Chương 2: Vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở Việt 31 Nam hiện nay 2.1. Nhận thức chung về vai trò, vị trí của phụ nữ. 2.1.1.Phụ nữ nguồn nhân lực quan trọng 2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà 31 31 35 nước về vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị. 2.2. Sự thay đổi hệ giá trị chuẩn mực về vai trò của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý (từ sau cách mạng tháng Tám, 1945). 2.3. Sự tham gia của phụ nữ trong tương quan với nam giới trong 42 46 hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay. Chương3: Vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở cơ sở 59 7 qua nghiên cứu trường hợp xã Liên Minh, Vụ Bản, Nam Định. 3.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu 3.2. Sự tham gia và vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở 59 62 xã Liên Minh. 3.2.1. Sự tham gia của nữ cán bộ xã Liên Minh 62 3.2.2.Vai trò của nữ cán bộ trong hệ thống chính trị của xã 3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị cơ sở. 3.3.1. Đường lối, chính sách bình đẳng giới 69 74 74 3.3.2. Gia đình, cơ quan, cộng đồng, 3.3.3. Một số vấn đề thuộc về cá nhân người phụ nữ. 3.4. Những hệ quả kinh tế - xã hội của sự gia tăng vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở cơ sở. 79 95 102 3.4.1. Hệ quả đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và hoạt động của hệ thống chính trị của cả nước nói chung và ở cơ sở nói 102 riêng. 3.4.2. Hệ quả đối với gia đình 104 3.4.3. Hệ quả đối với phụ nữ 104 Phần 3: Kết luận và một số khuyến nghị 1. Kết luận 2. Một số khuyến nghị 109 109 110 Phụ lục - Phụ lục 1: Danh sách phụ nữ lãnh đạo được phỏng vấn (Kết quả khảo sát của tổ chức ESCAP (tổ chức của Liên hợp quốc về kinh tế-xã hội của Châu Á) do PGS.TS. Lê Thị Quý cùng tham gia nghiên cứu năm 2000). - Phụ lục 2: Đề cương phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung. 113 113 - Phụ lục 3: Danh sách các trường hợp phỏng vấn sâu 119 - Phụ lục 4: Phụ nữ Nhật: Động lực phục hồi kinh tế bị bỏ quên. 121 - Phụ lục 5: Phụ nữ lãnh đạo tốt hơn đàn ông? (theo Vnexpress) 122 114 8 Danh mục tài liệu tham khảo 123 9 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hệ thống chính trị ở cơ sở có một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị của một quốc gia. Cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ sở là nơi tổ chức, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách và là nơi kiểm định tính đúng đắn của mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Hệ thống chính trị ở cơ sở là cầu nối trực tiếp đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, là nơi cung cấp cơ sở thực tiễn sát hợp nhất để đưa cuộc sống vào nghị quyết. Đồng thời, hệ thống chính trị ở cơ sở cũng là nơi phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, huy động mọi khả năng để phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. [104. 6, 125] Xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả cao đang là một yêu cầu bức thiết ở nước ta hiện nay. Vấn đề đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở là một trong những chủ đề quan trọng được đặt ra trong Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX vừa qua. Một trong những yếu tố quyết định chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở là trình độ chính trị, chuyên môn, lãnh đạo và quản lý của đội ngũ cán bộ thuộc hệ thống chính trị ở cơ sở. Để nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ này thì yếu tố giới, sự bình đẳng giới, sự tham gia của phụ nữ trong hệ thống chính trị có vai trò rất quan trọng. Một trong những quyền cơ bản của phụ nữ là quyền tham gia lao động xã hội và quản lí xã hội. Quyền lợi này xuất phát từ nhu cầu chiến lược giới của phụ nữ. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã trói buộc người phụ nữ ở vị thế thấp kém trong gia đình nên nhu cầu tham gia lao động và quản lí xã hội trở nên bức xúc đối với họ. Đáp ứng nhu cầu này cũng là đáp ứng đòi hỏi của toàn xã hội với công cuộc giải phóng con người trong đó có vấn đề giải phóng năng lực của phụ nữ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát 10 triển đất nước. Với số lượng chiếm một nửa nhân loại, phụ nữ đã và đang có những đóng góp to lớn cho sự sinh tồn và phát triển của nhân loại. Chính vì thế mà phụ nữ cần phải tham gia vào lãnh đạo và quản lý. "Tại diễn đàn toàn cầu dành cho các nhà lãnh đạo chính trị là phụ nữ, các đại biểu khẳng định rằng nếu thế giới muốn xã hội không có xung đột vũ trang, không có bạo lực, không có người nghèo, không có tham nhũng cần có sự tham gia của phụ nữ vào lãnh đạo và quản lý" [32.25]. Việc phụ nữ tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý là biểu hiện sinh động cho khả năng và cơ hội làm chủ xã hội của giới nữ. Đó còn là thước đo mức độ công nhận và đánh giá của xã hội đối với vị trí, vai trò cũng như trình độ và năng lực quản lý của người phụ nữ. Hơn 15 năm đổi mới (từ năm 1986), Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó vấn đề nâng cao địa vị của phụ nữ đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Vai trò của phụ nữ trong hoạt động kinh tế xã hội nói chung và trong hệ thống chính trị ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy vẫn còn những bất cập giữa ý thức và hành động thực tiễn, điều đó ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị ở cơ sở nói riêng. Số lượng phụ nữ làm lãnh đạo ở Việt Nam chiếm một tỷ lệ khá khiêm tốn trong lực lượng lao động. Hiện nay có sự chưa cân đối giữa nam và nữ trong bộ máy quản lý nhà nước, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Số lượng phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý còn quá ít. Vị thế, vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị chưa được đánh giá đúng. Những đóng góp và năng lực của phụ nữ chưa được xác định và huy động...Phụ nữ tham gia trong ban chấp hành Đảng uỷ các cấp mới chỉ đạt tỷ lệ 10-11%. Tỷ lệ nữ ở vị trí chủ chốt (bí thư, phó bí thư, uỷ viên thường vụ) chỉ đạt từ 3-8%. Tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo trong chính quyền ở các cấp Trung ương đạt tỷ lệ từ 7-11% đối với cấp bộ trưởng, thứ trưởng, 12-13 % đối với cấp vụ trưởng, vụ phó. Còn ở cấp địa phương, tỷ lệ nữ trong UBND các cấp chỉ đạt 5-7% và nữ chủ tịch, phó chủ tịch chỉ đạt 2-4%. Tỷ lệ nữ đại biểu HĐND khoá 1999-2004 còn thấp: đạt 22,5% cấp tỉnh, 11 20,7% cấp quận/ huyện và 16,62% cấp xã/ phường [28. 2, 3]. Và tỷ lệ nữ đại biểu HĐND khoá 2004 - 2009 đạt 23,83% cấp tỉnh, 23,22% cấp quận/ huyện và 20,1% cấp xã/ phường (báo Quân đội nhân dân, số 15506, thứ 3 ngày 296-2004). Tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan của Đảng và Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể thấp, báo trước nguy cơ thiếu hụt tiếng nói đại diện của gần 50% nguồn nhân lực khi soạn thảo chính sách, làm cho các chính sách khó đi vào lòng đại bộ phận nhân dân và sẽ làm giảm tính khả thi của chính sách. Đó là một thực tế và thực tế đó cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc để tìm ra giải pháp khắc phục hữu hiệu. Đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề giới trong quản lý nhà nước, vai trò của phụ nữ trong quản lý, lãnh đạo... nhưng chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị ở cơ sở nói riêng. Nghiên cứu vấn đề giới và bình đẳng giới hiện nay chủ yếu tập trung đề cập đến phụ nữ, vai trò của phụ nữ... mà chưa đặt trong tương quan với nam giới và chưa tính đến yếu tố hiệu quả của tương quan này. Nghiên cứu về vấn đề này còn bỏ ngỏ, luận cứ khoa học còn ít. Tôi chọn ngẫu nhiên xã Liên Minh thuộc huyện Vụ Bản, Nam Định để nghiên cứu về vấn đề này. Liên Minh không có nhiều khác biệt so với các xã khác ở Việt Nam. Hệ thống chính trị cơ sở ở đây rất mất cân đối về giới. Tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý rất thấp. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng này, vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở xã Liên Minh được đánh giá như thế nào? Phụ nữ xã Liên Minh bị những yếu tố nào cản trở việc tham gia vào hệ thống chính trị? Và vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị của xã Liên Minh có ảnh hưởng như thế nào tới chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị và đời sống kinh tế - xã hội - văn hoá của xã Liên Minh? Để trả lời các câu hỏi trên, tôi nhận thấy tìm hiểu về vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở cơ sở là một nhiệm vụ rất cần thiết. Do đó, tôi chọn 12 đề tài : “Vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở cơ sở (nghiên cứu trường hợp tại xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định)” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Nghiên cứu về giới là một lĩnh vực khá mới ở Việt Nam. Vài năm trở lại đây, các nghiên cứu về giới được tiến hành dưới nhiều góc độ khoa học khác nhau đã góp phần nâng cao nhận thức của xã hội về vấn đề giới và bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quản lý. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tôi chưa có điều kiện tìm hiểu hết những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề giới, vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị. Tôi chỉ xin nêu ra một số công trình nghiên cứu sau: Công trình “Phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lí” - do Trung tâm nghiên cứu khoa học lao động nữ thực hiện, xuất bản tại Nxb Chính trị quốc gia năm 1997. Tác phẩm là sự tổng hợp các tham luận tại cuộc hội thảo “Nâng cao năng lực quản lí của phụ nữ trong cơ chế thị trường”. Tác phẩm đã phân tích tác động của cơ chế thị trường tới việc tham gia lãnh đạo của phụ nữ, từ đó gợi ý những giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của phụ nữ. Nhưng các tác giả chưa đề cập hết những tác động tới phụ nữ lãnh đạo xuất phát từ các thiết chế xã hội khác. Một nhà nghiên cứu khác cũng quan tâm tới vấn đề phụ nữ tham gia lãnh đạo, nhưng ở một khía cạnh khác, đó là PGS. TS. Lê Thị Quý với công trình "Một số khó khăn của phụ nữ làm lãnh đạo", đăng trên tạp chí Khoa học về phụ nữ số 6/2001. Bài viết trình bày những khó khăn của phụ nữ làm lãnh đạo do chính phụ nữ nêu ra, thông tin lấy từ nghiên cứu định tính về "Vai trò của phụ nữ trong chính quyền ở thành thị ở Việt Nam hiện nay" được tiến hành với sự tài trợ của Uỷ ban Kinh tế - xã hội của Châu Á - Thái Bính Dương -ESCAP thực hiện cuối năm 2000. Bài viết nêu ra những cản trở đối với việc phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý là vì lý do phân biệt nam nữ, phụ nữ không được coi trọng, không được tin tưởng, bị phân biệt đối xử, và vì gánh nặng gia đình.... 13 Một luận án tiến sỹ cũng đã đề cập đến vấn đề này, đó là luận án "Vai trò của nữ cán bộ quản lý nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá" của Võ Thị Mai. Công trình đã được xuất bản thành sách, Nxb Chính trị quốc gia, 2003. Tác giả biên soạn cuốn sách này dựa trên kết quả nghiên cứu luận án tiến sỹ xã hội học về giới và nữ cán bộ quản lý trong hệ thống chính quyền nhà nước. Tác giả đã phần nào làm rõ thực trạng và xu hướng biến đổi vai trò nữ cán bộ quản lý nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ tham gia quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ đề cập đến đối tượng là nữ cán bộ quản lý nhà nước trong các cơ quan chính quyền, chứ chưa phân tích nữ cán bộ trong hệ thống chính trị. Công trình “Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trước thềm thế kỷ 21” của tác giả Lê Thị Nhâm Tuyết, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, 2000, cũng dành một phần trong đó nêu lên thực trạng phụ nữ tham chính. Tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo có chiều hướng giảm sút do cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Nguyên nhân khách quan là việc chăm lo, bồi dưỡng cho lực lượng lao động nữ chưa tốt, sự đánh giá của cấp trên đối với phụ nữ còn chưa đúng với khả năng thực tế của họ ... Bên cạnh đó, nguyên nhân chủ quan là do phụ nữ không thể hy sinh việc chăm sóc gia đình cho sự nghiệp phát triển xã hội được. Một công trình xã hội học của Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng “Phụ nữ, giới và phát triển”, Nhà xuất bản phụ nữ, 2000 cũng đã sử dụng hướng tiếp cận xã hội học về giới để đề cập tới sự bình đẳng giới trong chính trị. Cụ thể, tác phẩm chứng minh phụ nữ là nhóm yếu thế so với nam giới trong việc tham gia công tác lãnh đạo ở Việt Nam. Tác phẩm nêu ra những thông tin định tính và định lượng nhằm khẳng định các luận điểm về sự bất bình đẳng giới đối với phụ nữ trong lãnh đạo các cấp. Các tác giả nước ngoài đề cập rất nhiều đến vấn đề này, chẳng hạn như công trình "Gender, readings and Resourcer for community Based natural 14 resources Management Researchers", Vol.1, Sam London, IDRC, 12, 1998. Công trình này đã đề cập đến vị trí kinh tế - xã hội của phụ nữ trong tương quan với nam giới, chứ không dừng lại ở việc mô tả, giải thích hay động viên phụ nữ khi bàn về vấn đề đưa phụ nữ vào hệ thống chính trị, đồng thời đi sâu phân tích mối quan hệ về quyền lực, cơ hội tiếp cận các nguồn lực, tiếng nói của phụ nữ và nam giới nhằm tìm ra cách thức, biện pháp giải phóng phụ nữ trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và quản lý nhà nước.[63. 49] 3. Đóng góp của đề tài - Về mặt lý luận: Đóng góp vào Lý thuyết xã hội học về giới, và xã hội học quản lý khi nghiên cứu vị thế, vai trò của phụ nữ trong quản lý. - Về mặt thực tiễn: Góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của phụ nữ và vấn đề giới trong hệ thống chính trị ở cơ sở, từ việc đề xuất các giải pháp, góp phần nâng cao bình đẳng giới và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở. 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định và những nhân tố ảnh hưởng đến vai trò đó, từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao vị thế, vai trò của phụ nữ nhằm nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở địa phương, góp phần xây dựng bình đẳng giới. - Nhiệm vụ nghiên cứu: + Tìm hiểu vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị của xã Liên Minh. + Tìm hiểu những nhân tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở cơ sở. + Tìm hiểu ảnh hưởng của vai trò phụ nữ tới hệ thống chính trị của xã Liên Minh. + Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao vị thế, vai trò của phụ nữ, tạo nên bình đẳng giới và nhằm nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở xã Liên Minh và các địa phương khác. 15 5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở cơ sở. - Khách thể nghiên cứu: Cán bộ nữ, cán bộ nam trong hệ thống chính trị ở xã Liên Minh (cán bộ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, chồng của cán bộ nữ và nhân dân địa phương. - Phạm vi nghiên cứu: + Không gian: xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. + Thời gian: từ tháng 4/2004 đến tháng 6/ 2004. 6. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp định tính làm phương pháp nghiên cứu. Vì thực tế, tỷ lệ nữ lãnh đạo ở hệ thống chính trị xã Liên Minh còn thấp, nên phương pháp định tính là phương pháp phù hợp để tìm hiểu thông tin sâu, đưa ra một số phát hiện về nhóm khách thể và những nguyên nhân chính ảnh hưởng tới vai trò lãnh đạo, quản lý của phụ nữ. - Phỏng vấn sâu: 55 trường hợp, cụ thể cơ cấu mẫu như sau: 20 cán bộ nữ (1 nữ bí thư chi bộ thôn, 2 nữ trưởng thôn, 8 nữ bí thư Đoàn Thanh niên, 12 nữ cán bộ Hội phụ nữ) 20 cán bộ nam, 5 chồng cán bộ nữ, 10 người dân địa phương (5 nữ và 5 nam). (Xem chi tiết tại phụ lục 3: Danh sách các trường hợp phỏng vấn sâu) Luận văn có sử dụng kết quả phỏng vấn sâu trong đề tài "Vai trò lãnh đạo của phụ nữ trong chính quyền thành thị" của tổ chức ESCAP (tổ chức của Liên hợp quốc về kinh tế-xã hội của Châu Á) do tiến sỹ Lê Thị Quý phụ trách phần Việt Nam, năm 2000, để so sánh. Nhóm chuyên gia đã phỏng vấn sâu 15 đối tượng lãnh đạo các cấp từ Trung ương tới Tỉnh, Thành phố, Quận. Cụ thể như sau : 02 lãnh đạo trong Quốc hội; 05 Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố; 01 Phó bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh; 01 Bí thư Quận uỷ; 01 Chủ tịch Hội phụ nữ tỉnh; 01 Trưởng ban dân vận tỉnh; 01 Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh; 01 Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra Quận 16 uỷ; 01 Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận; 01 Phó chủ nhiệm Uỷ ban chăm sóc trẻ em. - Thảo luận nhóm tập trung: Đối tượng là các lãnh đạo xã, 1 cuộc, gồm 10 người (1 nữ và 9 nam, vì trong số lãnh đạo xã chỉ có 1 phụ nữ): bí thư Đảng uỷ xã, phó bí thư Đảng uỷ xã, phó Chủ tịch HĐND, phó Chủ tịch UBND, trưởng công an xã, Chủ tịch Hội phụ nữ xã, bí thư đoàn thanh niên, chủ tịch hội Cựu chiến binh, chủ tịch Mặt trận tổ quốc, Chủ tịch Hội Nông dân. - Phân tích tài liệu: Tài liệu là các công trình, đề tài nghiên cứu, sách, tạp chí... có liên quan đến đề tài của luận văn, và tài liệu địa phương cung cấp. 7. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết. 7.1. Giả thuyết nghiên cứu. - Vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị là rất lớn. Nhưng ở xã Liên Minh, vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị đã và đang bị đánh giá thấp. - Ở xã Liên Minh, phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị quá ít, và chủ yếu là tham gia hoạt động đoàn thể (như Hội Phụ nữ, đoàn thanh niên, công tác dân số...), điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng và hiệu quả của hệ thống chính trị của xã. - Trong điều kiện xã hội hiện nay, phụ nữ có nhiều cơ hội và cả những thách thức mới trong việc tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý. Việc tham gia vào hệ thống chính trị không chỉ phụ thuộc vào sự nỗ lực vươn lên của bản thân phụ nữ mà còn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi sự tác động từ gia đình và cộng đồng. 7.2 Khung lý thuyết Cá nhân Môi trường kinh tếvăn hoá- xã hội Gia đình Cộng đồng Hệ thống Vai trò của phụ nữ trong hệ Hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở và bình đẳng giới 17 - Biến số Biến độc lập: + Nhóm biến về đặc điểm bản thân của khách thể khảo sát:Tuổi, giới, trình độ học vấn, trình độ chính trị, quản lý, thời gian làm việc, chức vụ... + Nhóm biến về đặc điểm gia đình: Quy mô gia đình, nghề nghiệp, thu nhập, trình độ học vấn của chồng (vợ), số con... + Nhóm biến về môi trường kinh tế- văn hoá- xã hội của địa phương: Diện tích, dân số, giáo dục, y tế, kinh tế, chủ trương, chính sách về phụ nữ, quan niệm của lãnh đạo địa phương và nhân dân về vị trí, vai trò của phụ nữ... + Đường lối, luật pháp, chính sách về phụ nữ của Đảng và Nhà nước. Biến phụ thuộc +Vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị cơ sở của xã Liên Minh - Vai trò lãnh đạo - Vai trò tham mưu - Vai trò chấp hành Biến can thiệp: + Điều kiện kinh tế xã hội văn hoá của đất nước, sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường + Bối cảnh thời đại: hội nhập, toàn cầu hoá, đưa vấn đề giới vào phát triển... 8. Kết cấu của luận văn Phần 1: Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 3. Đóng góp của đề tài 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 18 5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết 7. Phương pháp nghiên cứu 8. Kết cấu luận văn Phần 2: Phần nội dung Chương 1: Cơ sở lý luận và phương pháp luận 1.1. Những khái niệm cơ bản 1.2. Cơ sở lý luận 1.3. Phương pháp luận Chương 2: Vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay 2.1. Nhận thức chung về vai trò, vị trí của phụ nữ. 2.1.1.Phụ nữ nguồn nhân lực quan trọng 2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước về vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị. 2.2. Sự thay đổi hệ giá trị chuẩn mực về vai trò của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý (từ sau cách mạng tháng 8/1945). 2.2.1. Định kiến giới - ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo 2.2.2. Những quan niệm mới về vai trò của phụ nữ 2.3. Sự tham gia của phụ nữ trong tương quan với nam giới trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở cơ sở qua nghiên cứu trường hợp xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. 3.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu 3.2. Sự tham gia và vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị ở xã Liên Minh. 3.2.1. Sự tham gia của nữ cán bộ xã Liên Minh a. Tỷ lệ phụ nữ tham gia trong hệ thống chính trị của xã b. Đặc điểm của nữ cán bộ xã Liên Minh c. Hoàn cảnh gia đình của nữ cán bộ xã Liên Minh 19 3.2.2.Vai trò của nữ cán bộ trong hệ thống chính trị của xã a. Vai trò lãnh đạo b. Vai trò tham mưu c. Vai trò chấp hành. 3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị cơ sở. 3.3.1. Đường lối, chính sách bình đẳng giới 3.3.2. Gia đình, cơ quan, cộng đồng 3.3.3. Một số vấn đề thuộc về cá nhân người phụ nữ. 3.4. Những hệ quả kinh tế - xã hội của sự gia tăng vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị cơ sở. 3.4.1. Hệ quả đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và hoạt động của hệ thống chính trị của cả nước nói chung và ở cơ sở nói riêng 3.4.2. Hệ quả đối với gia đình 3.4.3. Hệ quả đối với phụ nữ Phần 3: Kết luận và một số khuyến nghị 1. Kết luận 2. Một số khuyến nghị Danh mục tài liệu tham khảo Phụ lục 20 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP LUẬN 1.1. Những khái niệm cơ bản 1.1.1. Khái niệm vị thế xã hội Vị thế xã hội là một dạng biểu hiện địa vị con người được hình thành trong cơ cấu xã hội, phụ thuộc vào sự thẩm định, đánh giá của xã hội. Vị thế xã hội được hiểu là chỗ đứng của một cá nhân trong xã hội và mối quan hệ của cá nhân đó với người khác. Vị thế xã hội của một cá nhân luôn gắn liền với những trách nhiệm và quyền hạn nhất định của cá nhân đó. Vị thế xã hội không chỉ được xác định một cách khách quan mà còn theo ý nghĩa chủ quan. Theo Hyman: “Địa vị được xác định trên cơ sở nhận thức của cá nhân đối với vị trí của bản thân so với người khác, nhất là so với đồng nghiệp, bạn bè, người láng giềng của cá nhân đó” [15.164] .Đặc trưng quan trọng của vị thế bao hàm sự xét đoán, ước lượng, phê phán bởi người khác và cả sự tự ý thức của bản thân. Vị thế xã hội còn là giá trị, mức độ đánh giá uy tín của một cộng đồng người hay toàn xã hội đối với một cá nhân cụ thể. Thực tế trong xã hội, có người có điều kiện để thăng tiến nên vị thế xã hội của họ cao hơn so với những người gặp những hoàn cảnh bất lợi. Vị thế tạo cho con người ta những khả năng khác nhau. Thông thường, đối với mỗi cá nhân có rất nhiều vị thế xã hội khác nhau nhưng vị thế nghề nghiệp là quan trọng nhất. Nó là vị thế chủ đạo, có vai trò quyết định đối với việc xác định những đặc điểm của cá nhân. 1.1.2. Khái niệm vai trò Theo Robertson: Vai trò là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định. Theo J.H.Fighter: Vai trò là sự phối hợp và tương tác qua lại của các khuôn mẫu được tập trung thành một nhiệm vụ xã hội. 21 Nói cách khác vai trò là những hành động, hành vi ứng xử những khuôn mẫu tác phong mà xã hội chờ đợi hay đòi hỏi ở một người hay một nhóm xã hội nào đó phải thực hiện trên cơ sở vị thế xã hội của họ. Như vậy, vai trò là tập hợp những hành vi, khuôn mẫu tác phong mà xã hội đòi hỏi cá nhân phải thực hiện phù hợp với vị thế của họ. Định nghĩa trên đề cập tới khái niệm vị thế xã hội. Trong quan hệ giữa vai trò và vị thế thì vị thế qui định vai trò. Vị thế nào, vai trò ấy. Cũng như trong Nho giáo có chuẩn mực “chính danh”. Vị thế là một khái niệm trừu tượng mà biểu hiện cụ thể của vị thế là tập hợp vai trò. Vai trò chính là mặt động của vị thế xã hội vì vị thế thuộc phạm trù cấu trúc, còn vai trò thuộc phạm trù hành động. Vai trò xã hội được phân theo nhiều loại: Vai trò đơn giản, vai trò phức tạp, vai trò chỉ định, vai trò lựa chọn. Tuỳ mức độ cao hay thấp của giá trị xã hội mà có những vai trò cao, hoặc thấp khác nhau. Trong phức hợp vai trò của một người, luôn nổi lên vai trò then chốt, vai trò then chốt này không cố định, bất biến mà có thể thay đổi theo thời gian. Trong giới hạn luận văn, tác giả sử dụng khái niệm “vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị cơ sở ” là tập hợp các vai trò mà người phụ nữ đảm nhận phù hợp với vị thế lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở cơ sở, đó là vai trò lãnh đạo, vai trò tham mưu, vai trò chấp hành. Căng thẳng và xung đột vai trò Căng thẳng vai trò xảy ra khi cá nhân thấy rằng sự trông đợi của một vai trò không thích hợp và họ khó khăn trong việc thực hiện vai trò đó, nhất là những vai trò được nhiều người mong đợi, kỳ vọng quá nhiều vào vai trò mà cá nhân đóng. Xung đột vai trò xảy ra khi cá nhân cùng một lúc chiếm giữ hai hay nhiều địa vị và khi cá nhân tham gia nhiều nhóm xã hội khác nhau, họ phải đáp ứng những mong đợi của những nhóm xã hội khác nhau, nhiều khi những trông đợi đó xung đột với nhau về lợi ích. 22 Chẳng hạn, xung đột “vai trò kép” của nữ cán bộ, tức là giữa vai trò người cán bộ trong cơ quan với vai trò người vợ, người mẹ hay người con trong gia đình. Muốn thực hiện tốt cả hai vai trò, đòi hỏi họ phải điều hoà và giải quyết tốt xung đột, căng thẳng vai trò. Nếu không, chính họ là người phải chịu mọi hậu quả của những xung đột vai trò, điều mà xã hội không mong muốn. 1.1.3. Khái niệm hệ thống chính trị ở cơ sở Cơ sở Theo Nghị quyết Trung ương 5, khoá IX, cơ sở nói ở đây là xã, phường, thị trấn. Cấp cơ sở là cấp thấp nhất của hệ thống chính quyền bốn cấp của nước ta. Nhưng đó cũng là cấp rộng nhất, đông đảo nhất. Vị trí quan trọng của nó được quyết định bởi ba điều sau: - Cơ sở là địa bàn cư trú của dân. Hiện nay, 79 triệu dân của cả nước cư trú tại 10.538 đơn vị cơ sở, gồm 8497 xã, 565 thị trấn, 1026 phường. - Cơ sở là cấp chấp hành, là cầu nối trực tiếp của toàn bộ hệ thống chính trị với dân, là nơi mà mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, muốn đến dân đều phải qua nó. - Cơ sở là nơi quyền dân chủ trực tiếp của dân được thực hiện rộng rãi (các hình thức tự quản) và quyền dân chủ đại diện (thông qua HĐND và UBND) được phát huy, nơi thể hiện trực tiếp khối đại đoàn kết toàn dân (thông qua mặt trận và các đoàn thể nhân dân) và là nơi bảo đảm sự vững mạnh của chế độ cả về chính trị, kinh tế, văn hoá và quốc phòng an ninh. Hệ thống chính trị là khái niệm thường dùng để chỉ hệ thống các tổ chức chính trị xã hội trong xã hội ta; nói một cách khác là một cơ cấu của các lực lượng chính trị được tổ chức có tính hệ thống quyết định toàn bộ hoạt động của bộ máy chính trị nước ta. Hệ thống đó bao gồm ba thành tố, hay là ba bộ phận: Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể. Mỗi bộ phận trong hệ thống đó đều có chức năng riêng và cùng vận hành trong cơ chế tổng thể của chế độ ta - cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan