ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
NGÔ THỊ HÀ
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HOÁ
VẬT THỂ HÀ NỘI TRÊN BÁO IN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
NGÔ THỊ HÀ
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HOÁ
VẬT THỂ HÀ NỘI TRÊN BÁO IN
Chuyên ngành: Báo chí
Mã số: 60 32 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Quyên
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam kết, đây là luận văn do tôi tự nghiên cứu, chưa được công bố ở bất
cứ công trình khoa học nào. Mọi luận cứ trong luận văn là xác thực.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Ngô Thị Hà
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn T.S Đỗ Thị Quyên – Người hướng dẫn đã tận tình
giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này!
Xin chân thành cảm ơn sự hợp tác của các chuyên gia, nhà quản lý, lãnh
đạo các ngành và các đơn vị có liên quan; sự giúp đỡ của các nhà báo, biên tập
viên, phóng viên, bạn bè đồng nghiệp, công chúng báo chí đã dành thời gian
tham gia trả lời câu hỏi điều tra; các thầy cô ở Đại học Khoa học Xã hội & Nhân
văn đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Ngô Thị Hà
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI .............................................11
1.1. Tổng quan về báo in .....................................................................................11
1.1.1. Khái niệm và lịch sử báo in .....................................................................11
1.1.2. Đặc thù của báo in ...................................................................................13
1.1.3.Vị trí, vai trò của báo in trong hoạt động truyền thông ............................19
1.2. Cơ sở lý luận về di sản văn hóa ...................................................................23
1.2.1. Khái niệm Văn hoá ..................................................................................23
1.2.2. Khái niệm về “Di sản văn hoá” ...............................................................26
1.2.3. Phân loại di sản văn hoá ..........................................................................28
1.2.3.1. Di sản văn hoá vật thể .......................................................................28
1.2.3.2. Di sản văn hoá phi vật thể .................................................................29
1.3. Báo chí với việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể ....................31
1.4. Tổng quan về hệ thống di sản văn hoá vật thể Hà Nội .............................33
Tiểu kết chương 1......................................................................................................35
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BÁO IN VỚI VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ HÀ NỘI .....................................................36
2.1. Khái quát về 3 tờ báo: Nhân Dân, Hà Nội Mới, Văn Hoá ........................36
2.1.1. Báo Nhân Dân ..........................................................................................36
2.1.2. Báo Hà Nội Mới ......................................................................................37
2.1.3. Báo Văn Hoá ............................................................................................38
2.2. Tiêu chí chọn tin, bài ....................................................................................38
2.2.1. Tiêu chí về nội dung ................................................................................38
2.2.2. Tiêu chí về hình thức ...............................................................................39
2.3. Khảo sát nội dung, hình thức phản ánh việc bảo tồn và phát huy di sản
văn hoá vật thể Hà Nội trên báo: Nhân Dân, Hà Nội Mới, Văn Hoá .............40
2.3.1. Tổng hợp số liệu khảo sát từ năm 2012-2013 .........................................40
2.3.1.1. Về nội dung phản ánh .......................................................................40
2.3.1.2. Về Thể loại báo chí sử dụng .............................................................44
2.3.2. Nhận diện việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội trên
báo Nhân Dân, Hà Nội Mới, Văn Hóa ..............................................................46
2.3.2.1. Báo Nhân dân, Hà Nội Mới, Văn Hoá tuyên truyền đường lối, chủ
trương của Đảng và Nhà nước về việc bảo vệ và sử dụng có hiệu quả di sản
văn hoá vật thể ...............................................................................................46
2.3.2.2. Báo Nhân Dân, Văn Hoá, Hà Nội Mới giới thiệu và tôn vinh các giá
trị di sản văn hoá vật thể ở Hà Nội. ...............................................................49
2.3.2.3. Báo Nhân dân, Văn Hóa, Hà Nội Mới nêu thực trạng về sự vi phạm
và xuống cấp của di sản văn hóa vật thể ở Hà Nội. .......................................52
2.3.2.4. Báo Nhân Dân, Hà Nội Mới, Văn Hóa nêu giải pháp cho tình trạng
xuống cấp nghiêm trọng của di sản văn hóa vật thể ở Hà Nội. .....................60
2.3.3. Đánh giá hiệu quả báo chí qua phản hồi của công chúng........................64
2.4. Đánh giá chung về nội dung, hình thức phản ánh việc bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa vật thể Hà Nội trên báo: Nhân dân, Hà Nội mới, Văn hoá ..............69
2.4.1. Về ưu điểm...............................................................................................69
2.4.2. Nhược điểm, hạn chế: ..............................................................................80
Tiểu kết chương 2......................................................................................................81
CHƢƠNG 3 NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG BÁO IN VỀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN
HÓA VẬT THỂ HÀ NỘI .......................................................................................82
3.1. Một số vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện bảo tồn và phát huy di sản
văn hoá vật thể Hà Nội trên báo in ....................................................................82
3.1.1. Về nội dung chuyển tải: ...........................................................................82
3.1.2. Về hình thức thể hiện: ..............................................................................83
3.2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lƣợng báo in về vấn đề bảo tồn
và phát huy di sản văn hoá vật thể Hà Nội .......................................................86
3.2.1. Đối với các nhà quản lý, hoạch định báo chí ...........................................86
3.2.2. Đối với các cơ quan báo chí ....................................................................90
3.2.2.1. Đối với Ban biên tập .........................................................................95
3.2.2.2. Đối với Nhà báo ................................................................................95
Tiểu kết chương 3....................................................................................................101
KẾT LUẬN ............................................................................................................102
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................104
PHẦN PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1: Một số thông tin cá nhân các đối tượng khảo sát ..................................... 64
Biểu đồ 2.1: Số lượng tác phẩm báo chí phản ánh nội dung bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa vật thể Hà Nội .................................................................... 40
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu tác phẩm phản ánh nội dung bảo tồn và phát huy DSVHVT
Hà Nội ........................................................................................................ 41
Biểu đồ 2.3. Cơ cấu chi tiết tác phẩm phản ánh bảo tồn và phát huy DSVHVT
Hà Nội ........................................................................................................ 41
Biểu đồ 2.4 Thể loại báo chí chuyển tải nội dung bảo tồn và phát huy DSVHVT
Hà Nội ........................................................................................................ 46
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Văn hoá nói chung, di sản văn hoá nói riêng, luôn có vị trí, vai trò quan trọng
trong đời sống con người cũng như trong bản sắc của mỗi dân tộc. Văn hoá không
chỉ làm nên sự khác biệt, tính đặc thù của mỗi dân tộc mà qua đó làm cho đời sống
nói chung thêm phong phú, đa dạng, giúp cho con người vun đắp lòng tự hào đối
với bản sắc của dân tộc mình. Những di sản văn hóa tồn tại đến hôm nay luôn đóng
vai trò quan trọng trong lịch sử hình thành, phát triển của một quốc gia, dân tộc,
vùng miền. Đó không chỉ là tài sản của riêng một vùng đất hay con người địa
phương, mà còn là tài sản của quốc gia; phản ánh một cách tập trung nhất, tiêu biểu
nhất truyền thống văn hóa dân tộc. Cùng với thời gian, các giá trị kết tinh trong di
sản văn hóa như một dòng chảy âm thầm, lặng lẽ nhưng có khả năng to lớn, là cội
nguồn, nền tảng tạo nên hệ giá trị của văn hóa dân tộc hôm nay và mai sau.
Hiện nay, xu thế tất yếu của nhiều quốc gia trên thế giới là bằng mọi cách
khơi dậy sức sống mãnh liệt của dân tộc để hội nhập quốc tế và phát triển hợp lý,
phù hợp với xã hội hiện đại. Để làm được điều đó, nhiều nước đã tìm về di sản văn
hoá (DSVH), bởi DSVH chính là một trong những cội nguồn sức sống tiềm tàng to
lớn của dân tộc được tạo ra trong quá khứ, cần phải được bảo vệ, duy trì và phát huy
trong xã hội hiện đại. Văn hoá là tiềm lực tinh thần to lớn của mỗi dân tộc, thể hiện ở
những giá trị hàm chứa trong vốn DSVH dân tộc được tích luỹ theo thời gian lịch sử.
DSVH dân tộc giống như một nguồn lực kép: nguồn lực vật thể (hữu hình) và nguồn
lực phi vật thể (vô hình), trở thành điểm tựa quan trọng, tạo thế đi vững chắc cho hiện
tại và tương lai của mỗi quốc gia, dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
UNESCO cho rằng: “Trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của sự phồn thịnh
và phát triển lâu dài của một quốc gia không đơn thuần chỉ là vấn đề nhân công,
nguồn vốn, công nghệ và tài nguyên thiên nhiên, mà còn là tiềm năng sáng tạo của
nguồn lực con người. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong văn hoá và truyền thống
của dân tộc, nghĩa là trong kho tàng trí thức, trong tâm hồn, đạo lý, lối sống, trình
độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng”. Vì lẽ đó, việc bảo tồn và phát
1
huy những giá trị của nền văn hoá truyền thống là một vấn đề thiết thân và cấp
bách, đặt ra đối với hầu hết các quốc gia.
Đối với Việt Nam, bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của dân tộc là một
nhiệm vụ của Nhà nước, của xã hội và của mỗi người dân Quốc hội nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 9, ngày 26/10/2001 đã thông qua
“Luật di sản văn hoá”. Điều 10 của Luật di sản văn hoá đã chỉ rõ: “Cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị
vũ trang nhân dân và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ và phát huy di sản văn hoá”.
Trong chiến lược phát triển của đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh”, vai trò của văn hoá được Đảng và Nhà nước ta
xem trọng. Nghị quyết Hội nghị lần 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII
viết: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh vấn đề
bảo tồn phát huy DSVH dân tộc trong sự nghiệp phát triển văn hoá, nền tảng tinh
thần của xã hội: “Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách
mạng, kháng chiến, các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị
văn hoá nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo
tồn và phát huy văn hoá, văn nghệ dân gian. Kết hợp hài hoà việc bảo vệ, phát huy
các di sản văn hoá với các hoạt động phát triển kinh tế du lịch”.
Thủ đô Hà Nội là nơi hội tụ tinh hoa ngàn năm của văn hóa Việt Nam.
Nghiên cứu di sản văn hóa Hà Nội cũng là nghiên cứu tinh hoa trong di sản văn hóa
Việt Nam. Việc bảo tồn và phát huy các giá trị tinh hoa của các di sản văn hoá Việt
Nam, trong đó có di sản văn hoá vật thể Hà Nội là một bộ phận hợp thành quan
trọng, vì thế có ý nghĩa lớn về nhiều mặt. Điều 10 của pháp lệnh Thủ đô Hà Nội đã
nêu: “Nhà nước có chính sách bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá, danh
lam thắng cảnh, khu phố cổ tiêu biểu ở Thủ đô…”.
Hà Nội được xem là một trong những thành phố cổ kính của thế giới. Di sản
văn hóa vật thể nói riêng và di sản văn hóa nói chung là một thành tố có vai trò
2
quan trọng trong việc tạo dựng, tôn vinh giá trị của mảnh đất kinh kỳ. Sau khi điều
chỉnh địa giới hành chính, Hà Nội là địa phương có nhiều di sản văn hóa vật thể
(trong đó chủ yếu là di tích lịch sử văn hóa) với số lượng lớn nhất cả nước. Hệ
thống di sản văn hóa vật thể của Thủ đô góp phần làm cho bức tranh di sản văn hóa
Thăng Long - Hà Nội thêm phong phú, là tiềm năng phát triển du lịch, nhưng đồng
thời đặt ra trách nhiệm nặng nề trong việc quản lý, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá
trị di sản. Hà Nội đã, đang và sẽ làm gì để khối di sản quý giá này phát huy giá trị
ngày càng tốt hơn, để sức ép của nền kinh tế thị trường không làm mai một, xâm hại
chúng thì đây càng là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Bên cạnh đó, xuất phát từ quan điểm đường lối của Đảng, việc thực hiện đề tài
nghiên cứu “Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật thể Hà Nội” là một hoạt động có
ý nghĩa thực tiễn sâu sắc và ý nghĩa thời sự cấp bách đối với các thành phố Hà Nội
nói riêng, đối với các tỉnh, thành phố trong cả nước nói chung.
Tại Điều 11 của Luật Di sản văn hoá cũng đã chỉ rõ: “Các cơ quan văn hoá,
thông tin đại chúng có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến rộng rãi ở trong nước và
nước ngoài các giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc Việt Nam, góp phần nâng
cao ý thức bảo vệ và phát huy di sản văn hoá trong nhân dân”. Đối với người làm
báo nhất là những người làm văn hoá, việc nghiên cứu các giá trị văn hoá truyền
thống là một yêu cầu thiết thực. Trong khi đó với sự phát triển mạnh mẽ của các
loại hình báo chí hiện nay, đặc biệt là loại hình báo chí gắn với các phương tiện
truyền thông mới như báo mạng điện tử, báo in đã làm gì, có cách thức riêng như
thế nào để cạnh tranh với các loại hình báo chí để tồn tại và phát triển.
Trong các loại hình báo chí truyền thống, tác giả lựa chọn báo in bởi lẽ:
- Báo in là một kênh quan trọng bậc nhất không thể thiếu trong hệ thống các
phương tiện thông tin đại chúng hiện nay.
- Loại hình báo in có tiếng nói chính thống, mạnh mẽ không chỉ riêng trong
lĩnh vực bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa mà tất cả lĩnh vực xã hội khác.
3
- Báo in có lịch sử phát triển lâu đời nhất trong các loại hình báo chí ở Việt
Nam cũng như trên thế giới, vì vậy có nền tảng, thế mạnh trong việc thông tin,
tuyên truyền.
- Tư liệu khảo sát của loại hình báo in là đầy đủ, có cơ sở thực tế rõ ràng
nhất, hệ thống nhất do được lưu trữ cẩn thận.
- Báo in có tính đại chúng, phù hợp với đông đảo nhân dân, thỏa mãn và
thích hợp với văn hóa đọc, lưu giữ tư liệu của công chúng Việt Nam.
- Trước mỗi vấn đề, báo in đều có cách thức thể hiện riêng, tạo dấu ấn không
giống như bất cứ loại hình nào khác, như truyền hình, phát thanh hay báo điện tử.
Từ đó tạo hiệu quả thông tin tuyên truyền.
- Đặc biệt ở mặt trận phản diện, với các thế mạnh của mình, báo in luôn có
tiếng nói mạnh mẽ nhất, dài hơi nhất.
Những lý do trên đây đã thúc đẩy tôi chọn lựa đề tài:
“Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật thể Hà Nội trên báo in” nhằm tìm
ra những thành tựu và hạn chế của hoạt động này trên báo in, kiến nghị và đề xuất
những phương hướng và giải pháp có tính khả thi, nhằm bảo tồn và phát huy tốt hơn
di sản văn hóa vật thể Hà Nội trên báo in trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
* Những thành tựu nghiên cứu lý luận về văn hoá và di sản văn hoá
Ở nước ta, nghiên cứu về DSVH trước tiên phải kể đến công trình Việt Nam
Văn hoá sử cương của học giả Đào Duy Anh từ năm 1938 với quan điểm : “Ta
muốn trở thành một nước cường thịnh về vật chất, vừa về tinh thần thì phải giữ văn
hoá cũ (di sản) làm thể (gốc, nền tảng); mà lấy văn hoá mới làm dụng nghĩa là phải
khéo điều hoà tinh tuý của văn hoá phương Đông với những điều sở trường về khoa
học của văn hoá phương Tây”.
Năm 1997, GS,TS. Hoàng Vinh hoàn thành cuốn sách Một số vấn đề về bảo
tồn và phát triển di sản văn hoá dân tộc. Trên cơ sở những quan niệm DSVH của
quốc tế và Việt Nam, tác giả đã đưa ra một hệ thống lý luận về DSVH, đồng thời
4
bước đầu vận dụng nghiên cứu DSVH nước ta. Năm 2002, Luật di sản văn hoá và
văn bản hướng dẫn thi hành được coi là văn bản pháp quy về DSVH.
Công trình Một con đường tiếp cận di sản văn hoá do Bộ Văn hoá - Thông
tin ấn hành, Hà Nội năm 2006 đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu về lý luận DSVH
cũng như thực tiễn, có thể làm tư liệu nghiên cứu tốt cho đề tài. Trong đó tiêu biểu
nhất là các bài: Khảo cổ học với công tác bảo vệ và phát huy di sản văn hoá (Vũ
Quốc Hiền), Bảo tồn di tích, nhân tố quan trọng của phát triển bền vững (Lê Thành
Vinh); Di tích lịch sử và văn hoá đồng bằng sông Hồng (Đặng văn Bài); Bảo tồn,
tôn tạo và xây dựng khu di tích lịch sử - văn hoá Đường Lâm (Phan Huy Lê).
Sách Giữ gìn, phát huy di sản văn hoá các dân tộc Tây Bắc do NXB Văn
hoá Dân tộc - Tạp chí Văn hoá nghệ thuật phát hành có thể giúp người đọc có thể
nhận diện một số vấn đề lý luận về DSVH.
Trên Tạp chí Cộng sản số 20, năm 2003, PGS, TS. Nguyễn Văn Huy đã có
nhiều cố gắng nghiên cứu Một số vấn đề bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá
các dân tộc hiện nay. Tác giả bài báo đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn
của công tác bảo tồn phát huy DSVH trên phạm vi cả nước.
Cùng hướng nghiên cứu này, Ngô Phương Thảo viết bài Bảo vệ di sản, cuộc
chiến từ những góc nhìn đăng ở Tạp chí Văn hoá nghệ thuật số 289 tháng 07/2008.
Bài viết đã đề cập trực tiếp đến vấn đề bảo vệ DSVH hiện nay. Theo tác giả thì
“Mỗi ngày, di sản văn hoá càng đối mặt với nhiều nguy cơ, xuất phát từ những hệ
lụy của cuộc sống hiện đại. Cũng mỗi ngày, ý thức về trách nhiệm phải gìn giữ các
giá trị văn hoá đã tồn tại với thời gian càng lan toả sâu rộng trong toàn xã hội, trong
mỗi cộng đồng để dẫn tới những chương trình dự án ngày càng có hiệu quả hơn
trong việc gìn giữ các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể”.
* Những công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa vật thể của Hà Nội
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về di sản văn hóa vật thể Hà Nội. Đề tài
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu. Có thể kể ra các công trình như: “Hồ Hoàn Kiếm và Đền Ngọc
5
Sơn” (tác giả Nguyễn Vinh Phúc, NXB Trẻ.2003), “Di tích lịch sử văn hóa Hà Nội”
(tác giả: Nguyễn Doãn Tuân, Nguyễn Vinh Phúc, Trần Lâm Biền, NXB Chính trị
quốc gia., H.2000), “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể của Thăng
Long – Hà Nội (Viện nghiên cứu Văn hóa, Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam)”…v.v.
Bên cạnh đó, có một số đề tài luận văn có liên quan trực tiếp đến đề tài
nghiên cứu này. Đó là những tư liệu quý có ý nghĩa tham khảo.
- Luận văn thạc sỹ “Báo chí với việc giới thiệu và góp phần bảo tồn di sản
văn hoá ở Hà Nội” (khảo sát trên báo Nhân dân, Hà Nội mới, Văn hoá từ năm 1999
- 2002) của tác giả Đào Thị Minh Nguyệt (năm 2004), Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn. Luận văn đã tập trung khảo sát, đánh giá việc phản ánh vấn đề
giới thiệu và bảo tồn di sản văn hoá Thủ đô trên báo chí.
- Luận văn thạc sỹ “Báo chí với vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hoá Hà
Nội” của tác giả Hoàng Hương Trà (năm 2007), Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn. Trên cơ sở khẳng định những giá trị quý báu cũng như hiện trạng của di
sản văn hoá Hà Nội, vai trò của báo chí trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá
Hà Nội để đề xuất những kiến nghị giải pháp.
Cả hai công trình trên đều đã nêu, phân tích, đánh giá việc phản ánh vấn đề
bảo tồn và phát huy di sản văn hoá Hà Nội (cả di sản văn hóa vật thể và phi vật thể)
trên báo chí nhưng chưa đưa ra được những vấn đề về lý luận báo chí do vậy cả hai
công trình mới dừng lại ở việc đưa ra giải pháp để bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa dưới góc độ văn hóa học chứ chưa đưa ra được giải pháp để nhằm nâng cao
hiệu quả của hoạt động này trên báo chí nhất là báo in. Bên cạnh đó thời điểm
nghiên cứu của cả hai công trình trên đều khá xa so với thời điểm tác giả thực hiện
đề tài này và lại được thực hiện trước khi Hà Nội được mở rộng địa giới hành chính.
Trên thực tế, còn khá ít công trình nghiên cứu, đánh giá, tổng kết kinh
nghiệm bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội nói riêng dưới góc độ
truyền thông. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này góp một tiếng nói chung
6
nhằm phân tích và tổng kết việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội
trên báo in.
3. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu:
- Xây dựng nhận thức về việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật thể của
thủ đô Hà Nội được truyền thông trên loại hình báo in.
- Nghiên cứu thực trạng bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật thể Hà Nội
trên loại hình báo in.
- Xây dựng những giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng báo in về vấn đề
bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật thể Hà Nội.
3.2. Nội dung nghiên cứu:
- Khảo sát tình hình bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật thể Hà Nội qua
các tin, bài trên báo in.
- Phân tích, đánh giá về nội dung và cách thức truyền thông của báo: Nhân
Dân, Hà Nội Mới, Văn Hoá trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật thể
Hà Nội.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội trên các tác phẩm
báo chí thuộc loại hình báo in.
- Các di sản văn hoá vật thể thuộc Hà Nội mới (Di sản văn hoá vật thể được
Unesco công nhận và Di sản văn hoá vật thể cấp Quốc gia)
Đối tượng khảo sát là tất cả các tin, bài phản ánh việc bảo tồn và phát huy di
sản văn hoá vật thể Hà Nội trên 3 tờ báo chính thống, tiêu biểu, đó là:
- Báo Nhân Dân: Cơ quan của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Báo Hà Nội Mới: Cơ quan của Thành ủy Hà Nội
- Báo Văn hóa: Cơ quan của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
7
- Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước, công tác tuyên truyền cổ động cho lĩnh vực này là nhiệm vụ thường xuyên
của các phương tiện thông tin đại chúng; với thời gian và các điều kiện khách quan
không cho phép, xuất phát từ góc độ báo chí học, Luận văn chỉ đi sâu khảo sát, đánh
giá việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội trên 3 tờ báo in tiêu biểu:
Nhân Dân, Hà Nội Mới và báo Văn Hóa.
- Thời gian khảo sát các tờ báo trong thời gian 2 năm: 2012, 2013. Lựa chọn 3
tờ báo này với mong muốn vừa khảo sát được lịch sử phát triển của 3 tờ báo này vừa
bao quát được thực trạng, công tác quản lý bảo vệ, gìn giữ, khai thác di sản văn hoá
vật thể Hà Nội từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết để nâng cao chất
lượng báo in trong việc phản ánh hoạt động này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
5.1. Phương pháp luận (Cơ sở lý thuyết của việc nghiên cứu):
- Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mac – LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về phát triển Văn hoá và Báo chí.
- Dựa vào hệ thống lý luận về báo in nước ta hiện nay.
Đây là cơ sở phương pháp luận để tiếp cận vấn đề này, để đánh giá những
thành tựu và hạn chế của báo in trong việc góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di
sản vật thể Hà Nội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Phương pháp phân tích văn bản.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh: Phương pháp này
được sử dụng nhằm xem xét thông tin có sẵn trong sách báo … để thu thập các
thông tin định tính phục vụ đề tài.
- Công tác sưu tầm tài liệu: quan sát trực tiếp, sưu tầm, thống kê, phân loại
tin, bài thành từng nhóm theo đặc điểm của nội dung và hình thức.
- Phương pháp điều tra xã hội học (Bảng hỏi).
Quá trình nghiên cứu được thực hiện trong hai năm: 2012 và 2013.
8
Thông qua đó để tìm hiểu vai trò của báo in đối với việc bảo tồn và phát huy
di sản văn hoá vật thể Hà Nội; Báo Nhân Dân, Hà Nội Mới, và báo Văn Hóa đã có
cách thức truyền thông như thế nào trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá vật
thể Hà Nội trên tờ báo của mình từ việc tổ chức về nội dung và hình thức phản ánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận:
Đưa ra những khái niệm học thuật có tính hệ thống về mối quan hệ giữa báo
in, truyền thông và bảo tồn, phát huy di sản văn hoá trong đó có di sản văn hóa vật
thể; đặc biệt là xác lập hệ thống cơ sở lý luận và hiệu quả báo in trong hoạt động
truyền thông về bảo tồn, phát huy di sản văn hoá vật thể. Từ sự hệ thống này, có thể
góp tiếng nói giúp cho những người quan tâm trong lĩnh vực cùng tìm hiểu học
thuật, tạo diễn đàn trao đổi trong hướng nghiên cứu bảo tồn và phát huy di sản văn
hoá vật thể Hà Nội.
Bên cạnh đó cũng góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận truyền thông về bảo tồn
và phát huy di sản văn hoá vật thể trên báo in (cụ thể đó là những hình thức truyền
thông về bảo tồn, phát huy di sản văn hoá vật thể trên báo in).
- Về mặt thực tiễn:
+ Là tài liệu tham khảo bổ ích cho đội ngũ quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện việc bảo tồn di sản văn hóa vật thể nói chung, đặc biệt là di sản văn hóa vật thể
Hà Nội.
- Luận văn có thể sử dụng cho đội ngũ những người làm báo và quản lý báo
chí (trong đó có báo in) làm tài liệu tham khảo, vận dụng trong thực tiễn quản lý,
tác nghiệp báo chí về vấn đề bảo tồn di sản văn hóa vật thể Hà Nội.
- Thông qua luận văn, trên cơ sở mối quan hệ giữa báo chí in và vấn đề bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội, các nhà quản lý về di sản văn hóa Hà
Nội và các nhà quản lý, hoạch định báo chí cũng thấy được vai trò của báo chí
(trong đó có báo in) trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể của Thủ
đô để có sự phối hợp với nhau theo hướng chủ động hơn để thực hiện tốt hơn hoạt
động này.
9
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn gồm có
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về loại hình báo in và di sản văn hóa.
Chương 2: Thực trạng vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà
Nội trên báo: Nhân Dân, Hà Nội Mới, Văn Hóa
Chương 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao chất lượng báo in về
vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa vật thể Hà Nội.
10
CHƢƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về báo in
1.1.1. Khái niệm và lịch sử báo in
Báo in là một trong những loại hình của báo chí, là phương tiện truyền thông
không thể thiếu của đời sống xã hội. Đến nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về
báo in. Theo Tiến sĩ Hà Huy Phượng, “Báo in là thuật ngữ chỉ một loại hình báo chí
định kỳ thông tin thời sự các sự kiện, các vấn đề trong đời sống xã hội thông qua việc
sử dụng ngôn ngữ chữ viết và kỹ thuật in ấn để chuyển tải thông tin”. [23, tr 25].
Báo in còn được hiểu là những ấn phẩm xuất bản định kỳ, đăng tải các sự
kiện vấn đề thời sự, phát hành rộng rãi nhằm phục vụ công chúng nhóm đối tượng
nào đó với mục đích nhất định. Hay hiểu một cách đơn giản nhất, “Báo in là một
loại hình báo chí, chuyển tải nội dung các vấn đề, sự kiện bằng văn bản, chữ viết, ký
tự, hình ảnh thông qua trang giấy cung cấp thông tin cho độc giả”. [23, tr 31].
“Báo in: là tên gọi loại hình báo chí được thực hiện bằng phương tiện in
(báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn)” [30, tr 09]. Theo Luật Báo chí thì
báo in bao gồm: báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn.
Sự ra đời của báo in vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ VII đánh dấu một bước
ngoặt lớn cho việc thông tin các sự kiện, vấn đề đang xảy ra trong xã hội. Nó được
đánh dấu bằng sự ra đời của công nghệ in đặc biệt là chiếc máy in của Gutenburg
cho phép chuyển tải các thông tin và kiến thức lên trên giấy. Trước đó, đã xuất hiện
các tờ bảng tin của người La Mã xuất hiện khoảng năm 59 trước Công Nguyên, hay
những tờ truyền tin viết tay đầu thế kỷ thứ VIII ở Trung Quốc.
Sự ra đời của báo in hiện đại vào cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII là hệ quả
tất yếu của các điều kiện lịch sử cụ thể lúc đó xã hội Châu Âu đang bước vào thời lỳ
bản lề giữa xã hội phong kiến và xã hội tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của khoa
học kỹ thuật, những cuộc cách mạng tư sản, những cải cách kinh tế, những biến
động chính trị xã hội Châu Âu. Trên nền xã hội ấy, nhu cầu thông tin giao tiếp bùng
nổ trở thành một đòi hỏi bức bách con người cần được biết thông tin đang xảy ra
11
xung quanh để có cách xử lý kịp thời. Mặt khác, các thế lực chính trị, xã hội cần
công cụ để tuyên truyền, tổ chúc lực lượng,… Các giáo sĩ, chủ nghĩa thực dân mang
“Văn hóa báo chí” đi gieo giống khắp mọi nơi trên thế giới nhằm phục vụ cho thế
lực đế quốc.
Vào nửa đầu thế kỷ XVII, những tờ báo in mới bắt đầu được xuất bản có tính
định kỳ, chủ yếu đưa tin về Châu Âu. Tờ báo Relation ra đời ở Đức năm 1605 được
coi là tờ báo đầu tiên trên thế giới. Năm 1844, việc phát minh ra máy điện báo đã
thay đổi ngành báo in. Đến cuối thế kỷ XVIII, báo đã có nội dung thông tin phong
phú, số lượng người đọc nhiều hơn cũng đề cập đến nhiều vấn đề mang tính thời sự,
cách mạng và chiếm được một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội của con
người. Thế kỷ XIX, là thời kỳ ngự trị của báo in, báo in đã có mặt khắp nơi trên thế
giới. Các thành phố công nghiệp lớn ra đời, trình độ văn hóa và đời sống của con
người được cải thiện kích thích nhu cầu thông tin giao tiếp trong xã hội, cùng với sự
phát triển của khoa học kỹ thuật thúc đẩy sự phát triển của báo in.
Thế kỷ XX, được coi là thời kỳ bùng nổ của báo chí với sự đa dạng của các
thể loại, loại hình báo chí được chia theo các lĩnh vực và lứa tuổi. Ở các nước công
nghiệp phát triển cứ 1000 người dân thì tiêu thụ 400-500 nhật báo. Tuy nhiên, đầu thế
kỷ XXI nhiều chuyên gia cho rằng đây là thời kỳ khó khăn của báo in trên thế giới.
Bởi chất lượng của tờ báo chưa đảm bảo, sự ra đời và phát triển của các loại hình báo
chí khác như phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử. Hơn nữa một xu thế báo phát
không đang diễn ra làm cho báo in gặp nhiều vấn đề trong việc phát hành.
Ở Việt Nam, sự ra đời của tờ Gia Định Báo có thể coi là thời điểm khởi đầu
của lịch sử báo chí hiện đại. Trước đó, năm 1861 đã xuất hiện tờ công báo của quân
đội viễn chinh Pháp ở Nam Kỳ in bằng tiếng Pháp. Đầu thế kỷ XX, báo chí đã có
mặt trên khắp ba miền đất nước. Tại Hà Nội, ấn phẩm đầu tiên mang tính chất của
một tờ báo cả về nội dung lẫn hình thức là tờ Đại Việt Tân báo ra số 1 ngày
07/5/1905. Mặc dù báo chí ra đời muộn nhưng do vai trò chính trị quan trọng của
nó, Hà Nội nhanh chóng trở thành trung tâm hàng đầu của cả nước về nguồn tin, tác
giả, tiêu thụ báo, đồng thời cũng là nơi tập trung nhiều cơ quan báo chí.
12
- Xem thêm -