MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA BỊ CÁO
LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI .......................................................................... 9
1.1. Các vấn đề lý luận về quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi ................. 9
1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xét xử vụ án hình sự mà bị cáo
là người dưới 18 tuổi ....................................................................................... 18
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
VÀ THỰC TIỄN BẢO ĐẢM TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...................... 20
2.1. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị cáo là
người dưới 18 tuổi ........................................................................................... 20
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi tại thành
phố Hà Nội ...................................................................................................... 39
2.3. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong
việc bảo đảm quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi .................................... 53
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA BỊ CÁO LÀ
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................. 60
3.1. Giải pháp pháp luật bảo đảm quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi .... 60
3.2. Các giải pháp khác bảo đảm quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi
tại thành phố Hà Nội ....................................................................................... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 79
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCA
:
Bộ Công an
BCT
:
Bộ Chính trị
BLHS
:
Bộ luật hình sự
BLTTHS
:
Bộ luật tố tụng hình sự
HĐTP
:
Hoạt động tư pháp
NCTN
:
Người chưa thành niên
QCN
:
Quyền con người
TAND
:
Tòa án nhân dân
TTHS
:
Tố tụng hình sự
VKSND
:
Viện kiểm sát nhân dân
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Quyền con người (QCN) là một trong những quyền thiêng liêng, cơ bản
và cũng luôn luôn là khát vọng của toàn thể nhân loại. Quyền con người được
sinh ra và đồng thời cũng phải bảo đảm thực hiện như một lẽ tự nhiên. Cho
nên, nó không chỉ là vấn đề trọng yếu trong luật pháp quốc tế mà còn là chế
định pháp lý cơ bản trong pháp luật của các quốc gia.
Bảo vệ QCN là mục tiêu của các thiết chế Nhà nước dân chủ và tiến
bộ. Ngày nay, đất nước ta đang trên đà phát triển về mọi mặt. Song song, với
việc phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước cũng chăm lo xây dựng một Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, xây dựng một hệ thống pháp luật
bảo đảm cho việc phát triển các quyền tự do dân chủ của công dân là những
quan điểm cơ bản được thể hiện trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước
ta.Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam, tình hình kinh tế - xã hội của cả nước nói chung, đã
có những bước phát chuyển biến tích cực; an ninh chính trị được giữ vững,
trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Trong thực tiễn, người dưới 18 tuổi phạm tội là hiện tượng tồn tại
trong tất cả các xã hội. Tình trạng người dưới 18 tuổi phạm tội ở Việt Nam
nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng diễn biến rất phức tạp, tăng cả về số
vụ án và số bị cáo là người dưới 18 tuổi. Do chưa phát triển đầy đủ về thể
chất, tinh thần, tâm sinh lý chưa hoàn thiện, chưa có khả năng nhận thức,
kiểm soát được suy nghĩ, hành vi của mình, họ dễ bị chi phối, kích động bởi
tác động bên ngoài và thực hiện các hành vi thiếu suy nghĩ chín chắn, dễ bị
lôi kéo những hoạt động phạm tội.
Tình hình tội phạm nói chung và tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện vẫn chưa có chiều hướng giảm và có diễn biến phức tạp với tính chất
mức độ nguy hiểm cho xã hội ngày càng cao, thủ đoạn ngày càng tinh vi và
1
liều lĩnh. Đây là vấn đề không chỉ Đảng, chính quyền, các cơ quan bảo vệ
pháp luật, các cơ quan tư pháp quan tâm mà các ngành, các cấp và toàn thể
nhân dân cả nước đang hết sức quan tâm. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về vấn đề giải quyết tội phạm đối với người dưới 18 tuổi không chỉ mang
tính răn đe, nghiêm trị mà còn hướng đến giáo dục, ngăn chặn và cảm hóa, vì
đây là nhóm tội phạm còn trẻ, thiếu hiểu biết, chủ yếu do tác động của quá
trình phát triển của xã hội. Do vậy, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến các
quyền của người phạm tội dưới 18 tuổi nhằm đảm bảo quá trình xét xử các vụ
án do người dưới 18 tuổi thực hiện đều đảm bảo được các quyền con người
nói chung và quyền đặc thù riêng của nhóm tội phạm này. Quán triệt tinh thần
đó, Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi
bổ, sung năm 2017) đều dành một chương để quy định những chế định riêng
về người dưới 18 phạm tội.
Nhiều năm qua, theo quy định của pháp luật, các cơ quan tiến hành tố
tụng tại thành phố Hà Nội đã tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống vi
phạm pháp luật và tội phạm, bảo vệ chế độ Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong đó có quyền của người dưới 18
tuổi. Song, trong xét xử quyền con người của bị cáo là người dưới 18 tuổi có
lúc, có nơi chưa được tôn trọng, còn bị vi phạm, chưa có biện pháp bảo đảm
hữu hiệu. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm đồng thời bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi phạm tội đặt ra nhiệm vụ cấp
bách, hoàn thiện pháp luật, tạo cơ sở pháp lý, bảo đảm quyền người dưới 18
tuổi nhất là quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn xét xử các
vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội là vấn đề đặc biệt quan tâm, nhằm nhận
thức đầy đủ và đúng đắn về đặc điểm, tầm quan trọng của áp dụng pháp luật
trong việc bảo đảm quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn xét
xử, phân tích những kết quả đã đạt được, những hạn chế, bất cập còn tồn tại,
tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, bất cập, từ đó kiến nghị một số giải
2
pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội
hiện nay là vô cùng cần thiết.Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Quyền của bị cáo là
người dưới 18 tuổi từ thực tiễn xét xử tại thành phố Hà Nội”làm luận văn
Thạc sĩ Luậthọc chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự tại Học viện
Khoa học và Xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của các nhà
khoa học về quyền con người, quyền công dân và quyền của bị can, bị cáo
trong hoạt động tố tụng hình sự. Có thể kể đến trong một số những công trình
nghiên cứu sau:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ “Luật tố tụng hình sự Việt Nam
với việc bảo vệ quyền con người”, trường Đại học Quốc Gia, năm 2011.
- Luận án phó tiến sĩ Luật học:“Nguyên tắc công bằng trong luật hình
sự Việt Nam”của tác giả Võ Khánh Vinh, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp
luật, năm 1993 [32].
- Luận án phó tiến sĩ Luật học:“Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo
pháp luật thực hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam
hiện nay”, của tác giả Nguyễn Văn Mạnh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, năm 1995 [12].
- Luận án tiến sĩ Luật học: “Bảo đảm quyền con người của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng Hình Sự Việt Nam”, của tác giả Lại
Văn Trình, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2011 [26].
- Luận án tiến sĩ Luật học: “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác
giả Trần Hưng Bình, Viện Hàn lâm, Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện
khoa học xã hội, năm 2013[2].
- Luận án tiến sĩ Luật học: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả
3
Nguyễn Hữu Thế Trạch, trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh, năm
2014. [24].
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Thủ tục xét xử những vụ án mà bị cáo là
người chưa thành niên: một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, của tác giả
Nguyễn Thu Huyền, Khoa luật, trường Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2007. [8].
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Bảo đảm pháp lý về quyền con người ở
Việt Nam hiện nay”, của tác giả Trần Thị Phương Thảo, Khoa Luật, trường
Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2008. [22].
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Quyền con người và vấn đề bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở Việt Nam”, của tác giả Đỗ Thị Hường,
Khoa Luật, trường Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2011. [7].
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Bảo đảm quyền con người trong hoạt
động xét xử vụ án hình sự”, của tác giả Ngô Thị Thanh, Khoa luật, trường
Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2013.[21].
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự
Việt Nam”, của tác giả Trần Thị Thanh Thúy, trường Đại học Luật Hà Nội,
năm 2013. [23].
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Bảo đảm quyền con người trong hoạt
động xét xử vụ án hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu”, của tác giả
Đỗ Thị Huệ, Viện Nhà nước và pháp luật, trường Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2013. [5].
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa
thành niên theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Đỗ Xuân
Hồng, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014. [6].
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Bảo đảm quyền của người chưa thành
niên phạm tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn
thành phố Hải Phòng”, của tác giả Phạm Hữu Trường, Viện Hàn lâm, Khoa
học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học và xã hội, năm 2014. [28]
4
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của người
chưa thành niên phạm tôi, từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, của tác giả
Trần Thị Tuyết Nhung, Viện Hàn lâm, Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện
khoa học xã hội, năm 2016. [13]
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội chưa thành niên, theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tỉnh Quảng Trị”, của tác giả Nguyễn Thị Thủy Tiên, Viện Hàn lâm, Khoa
học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, năm 2016. [25]
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Xét xử sơ thẩm đối với người chưa
thành niên phạm tội, từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, của tác giả
Trương Hồng Tú, Viện Hàn lâm, Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa
học xã hội, năm 2016. [30]
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
mà bị cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”, của tác giả Phạm Hồng Khải, Viện Hàn
lâm, Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, năm 2017. [10]
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
mà bị cáo là người dưới 18 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, từ
thực tiễn thành phố Đà Nẵng”, của tác giả Bùi Thị Dung, Viện Hàn lâm,
Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, năm 2017. [3]
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
mà bị cáo là người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự Việt nam, từ thực
tiễn quận 7, thành phố Hồ Chí Minh”, của tác giả Lê Thị Phơ, Viện Hàn
lâm, Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, năm 2017. [14]
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Tĩnh), của tác
giả Nguyễn Thị Tú An, Khoa luật, trường Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2017. [1]
5
- Luận văn thạc sĩ Luật học: “Bảo đảm quyền con người của người bị
buộc tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tòa án Quân sự
Quân khu 5”, của tác giả Nguyễn Văn Huy, Viện Hàn lâm, Khoa học xã hội
Việt Nam, Học viện khoa học và xã hội, năm 2017. [9]
Các công trình khoa học bài viết này hoặc là tổng quát, hoặc đi sâu
nghiên cứu, phân tích, luận giải một số nội dung về quyền con người, các biện
pháp bảo đảm quyền con người, vấn đề bảo vệ quyền con người hoặc đề cập
đến cả quá trình giải quyết vụ án mà bị cáo là người dưới 18 tuổi từ giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử cho đến thi hành án...
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, có hệ thống
quy định của pháp luật nước ta hiện nay về bảo đảm quyền của bị cáo là
người dưới 18 tuổi từ thực tiễn xét xử tại thành phố Hà Nội. Lần đầu tiên tác
giả nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần nâng cao chất lượng áp dụng pháp
luật trong công tác xét xử vụ án đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội
trong giai đoạn xét xử từ thực tiễn thànhphố Hà Nội. Từ đó khẳng định sự cần
thiết bảo đảm quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn xét xử các vụ án hình sự có Bị cáo là
người dưới 18 tuổi phạm tội, luận văn làm sáng tỏ quyền của Bị cáo là người dưới
18 tuổi và quá trình áp dụng các quy định này từ thực tiễn xét xử tại Tòa án. Qua
đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao nhất chất lượng xét xử các vụ án hình sự
mà bị cáo là người dưới 18 tuổi , đảm bảo được các quyền của con người, quyền
của bị cáo là người dưới 18 tuổi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của thủ tục xét xử
vụ án hình sự mà bị cáo là người dưới 18 tuổi. Trong đó tập trung nghiên cứu
các vấn đề:
6
- Những vấn đề lý luận và những quy định của pháp luật về đảm bảo
quyền đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi;
- Thực tiễn việc bảo đảm quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi từ thực
tiễn xét xử các vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội;
- Đề xuất quan điểm và các giải pháp bảo đảm quyền của bị cáo là
người dưới 18 tuổi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm
quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự tại thành phố Hà Nội theo quy định của pháp luật Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về việc bảo đảm quyền bị cáo là người
dưới 18 tuổi trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hà
Nội từ năm 2013 đến năm 2017.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài này là lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp quyền; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước ta về quyền con người, quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi
trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp chuyên ngành.
Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa
học từng vấn đề tương ứng, như: Hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử cụ
thể, thống kê, so sánh, phân tích...
7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn phân tích một cách có hệ thống nội dung áp dụng pháp luật một hình thức quan trọng của việc thực hiện pháp luật thuộc chuyên ngành lý
luận chung vào một lĩnh vực cụ thể: Quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi
trong doạt động xét xử vụ án hình sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của thành phố Hà Nội hiện nay.
- Luận văn cũng nghiên cứu các yếu tố khác có tác động đến việc bảo đảm
quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử vụ án hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là công trình nghiên cứu về vấn đề áp dụng pháp luật trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại thành phố Hà Nội.
Đồng thời, đề ra được các quan điểm, giải pháp cơ bản, thiết thực cho việc
nâng cao chất lượng hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về bảo đảm quyền của
bị cáo là người dưới 18 tuổi trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại
thành phố Hà Nội, đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, danh
mục các từ viết tắt, luận văn gồm 03 chương.
Chương 1: Khái quát chung về quyền củabị cáo là người dưới 18
tuổitrong xét xử vụ án hình sự.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi
trong xét xử tại thành phố Hà Nội giai đoạn 2013-2017.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của bị
cáo là người dưới 18 tuổi xét xử tại thành phố Hà Nội.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA BỊ CÁO
LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
1.1. Các vấn đề lý luận về quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi
1.1.1.Khái niệm quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự
Bị cáo trước hết là con người, là công dân có đầy đủ mọi quyền và
nghĩa vụ được pháp luật (Hiến pháp) công nhận và bảo vệ. Do vậy trước khi
bàn đến khái niệm quyền của bị cáo, cần tìm hiểu khái niệm quyền và quyền
con người, quyền công dân, trong đó: Quyền là điều mà pháp luật hoặc xã hội
công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi.
Khái niệm Quyền con người
Quan niệm về quyền con người đã được các nhà tư tưởng bàn đến từ
thời cổ đại và không ngừng được phát triển, bổ sung cùng với quá trình phát
triển của lịch sử nhân loại. Khi bàn đến quyền con người Jaeque Mourgeon
trong cuốn “Các quyền con người” đã cho rằng:
Quyền con người trước hết được hiểu là những đặc quyền tự nhiên mà
con người có. Đó là khả năng hành động có ý thức, trách nhiệm nhất là tự bảo
vệ. Nhưng bản thân đặc quyền (quyền tự nhiên) chưa phải là quyền con người.
Mà để đạt đến cái gọi là “quyền” thì phải có yếu tố thứ hai là pháp luật. Chỉ khi
được pháp luật ghi nhận thì các đặc quyền của cá nhân mới trở thành đối tượng
điều chỉnh của pháp luật mới trở thành quyền con người. Trên cơ sở quan niệm
đúng đắn và khoa học về con người, chủ nghĩa Mác đã xác định: “con người là
“con người xã hội” “bản chất của con người trong tính hiện thực của nó là sự
“tổng hoà các quan hệ xã hội”, cho nên quyền con người thể hiện sâu sắc giá trị
các quan hệ xã hội và hiến nhiên mang bản chất đó.
Trên cơ sở các quan niệm về quyền con người năm 1776, lần đầu tiên
9
quyền con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ: “Tất cả
mọi người sinh ra đều có quyền được bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và mưu
cầu hạnh phúc”.
Năm 1791, trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp, quyền.
con người từng bước được các quốc gia thừa nhận và quy định trong pháp luật
của nước mình. Ở nước ta, vấn đề quyền con người đã được nghiên cứu và
phản ánh một cách phong phú và đa dạng thể hiện trong các văn kiện của
Đảng, Nhà nước và các văn bản pháp luật.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng: “Quyền con
người là các quyền tất yếu mà con người phải được hưởng và các quốc gia
phải tôn trọng” [10, tr.338]. Vì vậy, theo quan niệm chung hiện nay, “Quyền
con người là những giá trị, năng lực, nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người
với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại được thể chế hoá bằng pháp
luật quốc gia và các thoả thuận pháp lý quốc tế” [10, tr.26].
Khái niệm Quyền công dân
Quyền công dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan
hệ giữa công dân với Nhà nước, được xá định bởi chế định quốc tịch. Quyền
công dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi
nhận và chỉ những người mang quốc tịch của một nước thì mới được hưởng
các quyền công dân mà pháp luật nước đó ghi nhận. Theo Điều 28 Hiến pháp
Việt Nam năm 2013 quy định thì :
"1. Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia
thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở,địa
phương và cả nước.
2. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã
hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của
công dân". [18]
10
Khái niệm Bị cáo
Thuật ngữ “bị cáo” đầu tiên xuất hiện trong pháp luật tố tụng thời Lê
Sơ: lời khai của người làm chứng, bị can, bị cáo và biện pháp thu thập chứng
cứ là lấy lời khai người làm chứng, hỏi cung bị can, đối chất..., nhưng vẫn
chưa có một khái niệm, định nghĩa nào về thuật ngữ bị cáo. Trải qua quá trình
phát triển lâu dài, cho đến sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ
được kí kết, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế
quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Pháp luật TTHS miền Bắc được hình thành.
Đây là lần đầu có một định nghĩa pháp lý về thuật ngữ “bị cáo”.
Trong Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự kèm theo
Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao, đã đưa ra
định nghĩa pháp lý của khái niệm bị cáo: theo đó "Bị cáo là người bị truy cứu
trách nhiệm hình sự trước Tòa án nhân dân. Trong giai đoạn xét xử, Tòa án
nhân dân chỉ được đưa một người ra xét xử với tư cách là bị cáo, nếu Viện
Kiểm sát nhân dân đã truy tố người đó trước Tòa án nhân dân; nếu Viện
Kiểm sát không truy tố thì Tòa án nhân dân không được xét xử một người với
tư cách là bị cáo, trừ những người mà Tòa án nhân dân xét xử về những việc
hình sự nhỏ". [27].
Sau khi đất nước Việt Nam thống nhất cho đến nay đã có nhiều
BLTTHS, nghị quyết, thông tư được ban hành, sửa đổi, bổ sung. Hiện nay,
nhà nước ta đang sử dụng BLTTHS năm 2015.
Khái niệm Quyền của bị cáo:
Điều 61 BLTTHS Việt Nam năm 2015 về quyền của bị cáo:
"1. Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét
xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.
2. Bị cáo có quyền:
11
a) Nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi,
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ vụ án;
bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy định
của Bộ luật này;
b) Tham gia phiên tòa;
c) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều
này;
d) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên
dịch, người dịch thuật; đề nghị triệu tập người làm chứng, bị hại, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người định giá tài
sản, người tham gia tố tụng khác và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
tham gia phiên tòa;
đ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
g) Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
h) Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
i) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên
tòa nếu được chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;
k) Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
l) Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên
bản phiên tòa;
m) Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
n) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng;
o) Các quyền khác theo quy định của pháp luật." [19].
12
Vậy bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án đưa ra xét xử,
BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một chủ thể mới của bị cáo đó là pháp nhân,
vệc bổ sung này là dựa trên nhu cầu của thực tiễn trong đó những tổ chức là
pháp nhân thường có những hành vi phạm tội về các vấn đề như môi trường,
thuế, chứng khoán, bảo hiểm…mà BLTTHS năm 2003 không có chế tài xử lý
đối với pháp nhân mà chỉ áp dụng hình thức xử lý hành chính nên dẫn tới việc
bỏ lọt tội phạm. Việc quy định thêm chủ thể là pháp nhân đã khắc phục được
những hạn chế này.
Từ những phân tích, đánh gia nêu trên về khái niệm Quyền, Quyền con
người, Quyền công dân và khái niệm về Bị cáo. Có thể kết luận quyền của bị cáo
như sau: "Quyền của bị cáo là những điều mà pháp luật (BLTTHS) quy định cho
người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, được hưởng, được làm, dượcđòi
hỏi khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình".
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi
1.1.2.1. Khái niệm quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi
Khái niệm bị cáo là người dưới 18 tuổi
Trước hết, cần tìm hiểu khái niệm về người chưa thành niên. Dựa trên
đặc điểm tâm sinh lý người chưa thành niên, pháp luật quốc tế và pháp luật
mỗi quốc gia đã đưa ra giới hạn về độ tuổi làm cơ sở xác định một đối tượng
là người chưa thành niên.
Điều 1 - Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em (United Nations
Convention on the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
thông qua ngày 20/11/1989 quy định: “Trong phạm vi công ước này, Trẻ em
có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em
đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [4].
Quy tắc 2.2 - Quy tắc tối thiểu của Liên Hợp Quốc về việc áp dụng
chính sách pháp luật đối với người chưa thành niên còn gọi là Quy tắc Bắc
Kinh (United Nations Standard Minium Rules for the Administration of
13
Juvenile Justice/Beijing Rules) được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua
ngày 29/11/1985 đưa ra định nghĩa: “Người chưa thành niên là trẻ em hoặc
người ít tuổi tùy theo từng hệ thống pháp luật” [4].
Như vậy theo pháp luật quốc tế, “Người chưa thành niên” đồng nhất
với “Trẻ em” và được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp
luật quốc gia quy định khác. Theo quan niệm quốc tế thì dựa vào độ tuổi để
xác định trẻ em, người chưa thành niên, thành niên… Theo pháp luật Việt
Nam, khái niệm người chưa thành niên được hiểu như sau:
Theo từ điển tiếng Việt thì: “Người chưa thành niên là người chưa phát
triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ
quyền và nghĩa vụ công dân” [31]. Khái niệm này, có thể hiểu là người chưa
thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện thể lực, trí tuệ, tinh thần
có nghĩa là ở lứa tuổi này họ chưa phải là người lớn nhưng cũng không còn là
trẻ con. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố rất đặc biệt, đó là sự phát triển
cơ thể mất cân bằng nên người chưa thành niên rất dễ bị kích động, dễ nổi
nóng cho nên họ có những phản ứng nóng nảy, vô cớ, những hành vi bất
thường.
Theo Điều 1 Thông tư liên tịch số: 01/2011/TTLT-VKSNDTCTANDTCBCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011 của VKSNDTC, TANDTC,
Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, hướng dẫn
thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là
người chưa thành niên, thì: “Người chưa thành niên là người chưa phát triển
đầy đủ về thể chất và tâm thần, là những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt
là khi họ tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án... ” [33].
Điều 68 BLHS năm 1999 quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy
định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung
Bộ luật không trái với những quy định của Chương này” [16].
14
Chuyển tiếp và kế thừa BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 đã có
một số sửa đổi, bổ sung về quy định thủ tục tố tụng đối với người chưa thành
niên, thay thế cụm từ người chưa thành niên thành người dưới 18 tuổi, Điều
90 BLHS năm 2015 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định
khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương
này” [17]. Như vậy, BLHS năm 2015 cũng không có quy định gì khác hơn so
với BLHS năm 1999 về độ tuổi chịu TNHS của người chưa thành niên.
Điều 18 BLDS năm 2005 quy định: “Người chưa đủ mười tám tuổi là
người chưa thành niên” [15]. Điều 161 Bộ luật lao động năm 2012 quy định:
“Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác đều
quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi. Các quy định trên
đều cho thấy sự thống nhất khi quy định về độ tuổi của người chưa thành niên
là dưới 18 tuổi.
Tuy nhiên, khác với quan niệm quốc tế, pháp luật Việt Nam có sự phân
định hai khái niệm “Người chưa thành niên” và “Trẻ em”. Điều 1 Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: “Trẻ em là công dân
Việt nam dưới 16 tuổi”. Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là
người dưới 16 tuổi” [20]. Như vậy, trẻ em là NCTN nhưng NCTN không hẳn
là trẻ em vì một bộ phận người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
không phải là trẻ em.
Tóm lại, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người chưa đủ 18
tuổi, chưa phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ quyền
và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
Điều 12 của BLHS năm 1999 quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên,
nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm
15
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy, chỉ những
NCTN từ đủ 14 tuổi trở lên mới phải chịu TNHS về hành vi phạm tội, còn
NCTN dưới 14 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, người từ
đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, còn người từ đủ 14 tuổi
trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Điều 12 của BLHS năm 2015 quy định bổ sung loại tội cụ thể mà
người từ đủ 14 tuổi trở lên, chưa đủ 16 tuổi phải chịu. Vì trong độ tuổi này họ
chưa làm chủ được bản thân nên khi thực hiện hành vi phạm tội họ không
phải chịu TNHS, không tính lỗi khi thực hiện hành vi. Quy định này là một
trong những bổ sung giúp người dưới 18 tuổi nhận thức tốt hơn về những điều
mà pháp luật ngăn cấm, nâng cao hiệu quả giáo dục phòng ngừa.
Như vậy, từ những phân tích đánh giá nêu trên, theo học viên khái niệm
về bị cáo là người dưới 18 tuổi nên hiểu: “Là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi vi phạm pháp luật hình sự bị Viện kiểm sát ra quyết định truy tố và bị
Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử về một tội phạm hình sự theo quy
định của pháp luật”.
Từ phân tích ở mục 1.1.1 và 1.1.2.1 của luận văn có thể thấy khái niệm
quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi là: “Những bảo đảm pháp lý có tác
dụng bảo vệ bị cáo là người dưới 18 tuổi khi tham gia tố tụng trong giai đoạn
xét xử của Tòa án nhân dân”.
1.1.2.2. Đặc điểm quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi
Một là, quyền cơ bản của người dưới 18 tuổi được luật pháp quốc tế
quy định thông qua các nguyên tắc sau: Trong bất kỳ hoàn cảnh, điều kiện
nào, sự an toàn của người dưới 18 tuổi phải được đặt lên hàng đầu; không bị
phân biệt đối xử - tất cả các em đều được đối xử công bằng, không thiên vị,
bất kể giới tính, độ tuổi, dân tộc, tôn giáo…; Người dưới 18 tuổi phải được
đối xử một cách lịch sự, tôn trọng phẩm giá và chuyên nghiệp; trước khi xét
16
xử, người dưới 18 tuổi luôn luôn được suy đoán vô tội; người dưới 18 tuổi được
đối xử theo những quy định đã nêu trong hệ thống pháp luật của quốc gia.
Hai là, quyền cơ bản của bị cáo là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn
xét xử: Tất cả những tiếp xúc giữa cán bộ thực thi pháp luật và người dưới 18
tuổi phải mang tính thân thiện, phải diễn ra trong một môi trường phù hợp, hỗ
trợ và đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của lứa tuổi; trong quá trình giao tiếp với
người dưới 18 tuổi, phải sử dụng ngôn ngữ phù hợp và dễ hiểu với các em; cấm
các biện pháp xét xử tùy tiện (không tuân thủ đúng trình tự, thủ tục đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội), trong mọi trường hợp, quyền riêng tư của các em phải
được bảo vệ; những thông tin cá nhân và mang tính nhạy cảm liên quan đến
người dưới 18 tuổi phải được xử lý cẩn thận và được bảo đảm bí mật; người
dưới 18 tuổi có quyền được bảo vệ khỏi vũ lực và các hình thức lạm dụng của
các cơ quan công quyền; việc giam giữ người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải cân
nhắc kỹ lưỡng nếu mục đích chỉ là để phục vụ công tác xét xử.
Ba là, quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi khi bị xét xử và tuyên
án: Giam giữ chỉ là biện pháp cuối cùng và nếu có chỉ áp dụng trong một
khoảng thời gian ngắn nhất; người dưới 18 tuổi có quyền giữ im lặng và
quyền được chuyển đến những dịch vụ hỗ trợ phù hợp; phải sử dụng xử lý
theo hướng không giam giữ để tránh các thủ tục xét xử chính thức và chuyển
sang các chương trình hoà nhập cộng đồng phù hợp. Ở Việt Nam, quyền của
bị cáo nói chung và bị cáo là người dưới 18 tuổi nói riêng được pháp luật bảo
đảm và bảo vệ quy định tại khoản 2 Điều 50 BLTTHS năm 2003 nay là khoản 2
Điều 61 BLTTHS năm 2015. Ngoài ra, bị cáo là người dưới 18 tuổi còn có các
quyền khác được ghi nhận tại Chương XXXII - BLTTHS năm 2003 nay là
Chương XXVIII - BLTTHS năm 2015 - Chương quy định về thủ tục tố tụng đối
với người dưới 18 tuổi. Như vậy, có thể thấy khái niệm quyền của bị cáo là
người dưới 18 tuổi là: “Những bảo đảm pháp lý có tác dụng bảo vệ bị cáo là
17
người dưới 18 tuổi khi tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử của Tòa án nhân
dân”.
1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động xét xử vụ án hình sự mà
bị cáo là người dưới 18 tuổi
1.2.1. Khái niệm của hoạt động xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là
người dưới 18 tuổi
Pháp luật nói chung và Pháp luật hình sự nói riêng luôn luôn coi trẻ em
là đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ không chỉ trong cuộc sống hàng ngày
mà ngay cả khi các em là chủ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức
phải truy cứu TNHS. Luật hình sự bảo vệ bị cáo là người dưới 18 tuổi bị coi
là tội phạm và cũng quy định một chế tài riêng để xử lý, thì thủ tục tố tụng
cũng phải phù hợp với lứa tuổi bị cáo là người dưới 18 tuổi nhằm thể hiện
tính nhân đạo trong chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Thủ tục xét xử vụ án mà bị cáo là bị cáo là người dưới 18 tuổi theo Pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam là: tổng hợp các quy định chung về thủ tục xét xử
vụ án hình sự và các quy định về thủ tục đặc thù mang tính chất nhân đạo đối
với bị cáo là bị cáo là người dưới 18 tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm
xét xử vụ án một cách khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, đồng thời bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bi can, bị cáo trong hoạt động xét xử.
1.2.2. Đặc điểmcủa hoạt động xét xử vụ án hình sự mà bị cáo là
người dưới 18 tuổi
Chính sách hình sự trong tố tụng hình sự đối với bị cáo là người dưới
18 tuổi nhằm bảo đảm một cách tốt nhất quyền bào chữa cho đối tượng này,
hạn chế một cách tối đa việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế, hạn chế
một cách thấp nhất những tác động không thể tránh khỏi về tâm lý đối với bị
cáo là người dưới 18 tuổi do hoạt động tố tụng hình sự gây ra, đồng thời tạo
điều kiện thuận lợi cho việc làm rõ những nguyên nhân, điều kiện phạm tội
18
- Xem thêm -