Thời gian và không gian huyền thoại trong
Trăm năm cô đơn của Gabriel García Márquez
Nguyễn Thị Hảo
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận văn Thạc sĩ ngành: Văn học nước ngoài; Mã số: 60 22 30
Người hướng dẫn: PGS. TS Đào Duy Hiệp
Năm bảo vệ: 2010
Abstract: Trình bày tổng quan về huyền thoại và chủ nghĩa hiện thực huyền hảo. Tìm
hiểu về thời gian huyền thoại trong tác phẩm Trăn năm cô đơn: Trật tự, thời lưu, tần
suất và điềm báo. Nghiên cứu các kiểu không gian huyền thoại đặc trưng trong tác
phẩm qua: Macondo huyền thoại; tấm da thuộc-không gian tưởng tượng và không gian
căn phòng. Đề xuất hướng nghiên cứu lâu dài cho các tác phẩm và sáng tác của
Márquez nói riêng và văn học hiện thực huyền hảo nói chung.
Keywords: Văn học nước ngoài; Văn học Tây Ban Nha; Tiểu thuyết
Content
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Luận văn của chúng tôi lựa chọn đề tài Thời gian và không gian huyền thoại trong Trăm
năm cô đơn của Gabriel García Márquez xuất phát từ những lí do sau đây:
Thứ nhất: Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh thế kỉ XX là một trào lưu văn học tiêu
biểu, đã khẳng định được vị trí ưu việt của mình trên văn đàn thế giới. Tuy nhiên, ở Việt
Nam, những nghiên cứu về mảng văn học này chưa thành hệ thống. Vì thế, đi vào địa hạt văn
học này nằm trong mong muốn góp phần hoàn thiện cái nhìn về văn học thế giới ở Việt Nam
ở chúng tôi.
Thứ hai: Márquez là một cây bút xuất sắc của văn học hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh. Ông
thành công trên cả thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Trong đó, ưu thế sáng tác thuộc về tiểu
thuyết. Đồng thời, tiểu thuyết cũng là một trong những thể loại “đinh” của văn học. Vì thế,
chúng tôi tập trung vào tiểu thuyết của tác giả, cụ thể là tác phẩm Trăm năm cô đơn (One
Hundred Years of Solitude).
Thứ ba: Trăm năm cô đơn được bao phủ bởi một lớp không-thời gian huyền thoại. Đây là
một trong những yếu tố quyết định thành công của tác phẩm. Chính vì thế, nghiên cứu không
thời gian huyền thoại trong tác phẩm cũng chính là đi tìm sợi chỉ đỏ dệt nên tiểu thuyết này.
Đồng thời, qua đó chúng ta có thể thấy được đặc trưng kĩ thuật tiểu thuyết hiện thực huyền ảo
Mỹ Latinh nhằm tiếp thu kinh nghiệm của tác giả bậc thày này.
Cuối cùng, bản thân tác giả luận văn rất say mê, từng giảng dạy văn học Mỹ Latinh, nên
có những quan tâm đặc biệt đến Márquez.
2. Lịch sử vấn đề
* Trong nƣớc:
Từ khi Trăm năm cô đơn được Nguyễn Trung Đức dịch ra Tiếng Việt đến nay, trong giới
nghiên cứu xuất hiện nhiều bài viết về tác phẩm. Trong đó, một số công trình đề cập đến thời
gian và không gian trong tác phẩm là gợi ý cho luận văn của chúng tôi như: Bài Hiệu quả
nghệ thuật của không - thời gian trong tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của Márquez của
Nguyễn Trung Đức (bài viết này cũng đã được chọn là lời giới thiệu cho bản Tiếng Việt của
tác phẩm); bài viết nhan đề Cô đơn nghĩa là sự tiêu diệt của Lê Nguyên Cẩn; bài Từ Đông ki
sốt đến Trăm năm cô đơn của Đỗ Đức Dục; công trình Thi pháp huyền thoại của Eleaza
Moiseevich Meletinsky do dịch giả Song Mộc và Trần Nho Thìn chuyển ngữ sang Tiếng Việt;
cuốn Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Gabriel García Márquez của Lê Huy Bắc; Luận văn thạc
sĩ Nghệ thuật tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của Vũ Trung Kiên.
* Ngoài nƣớc:
Một số bài nghiên cứu rất có ích cho chúng tôi trong quá trình tìm đề tài như: Bài của Jon
Lee Anderson với nhan đề The power of Gabriel Garccía Márquez, bài giới thiệu One
Hundred Years of Solitude.
Những nghiên cứu trong và ngoài nước về Trăm năm cô đơn đều chưa bàn cụ thể về yếu
tố thời gian và không gian huyền thoại của tác phẩm. Chúng tôi khẳng định chưa có công
trình nghiên cứu nào trùng với đề tài luận văn của chúng tôi.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thời gian và không gian huyền thoại trong tác phẩm
Trăm năm cô đơn của Gabriel Gaxia Márquez.
Chúng tôi nghiên cứu trong phạm vi tác phẩm dựa trên bản Tiếng Anh được đăng tải trên
website http://ntvan6959.googlepases.com, cập nhật ngày 15/07/2006 và bản dịch Tiếng Việt
của dịch giả Nguyễn Trung Đức, tái bản lần thứ năm, năm 2004. Ngoài ra, luận văn còn tham
khảo các sáng tác khác của Márquez để có cái nhìn hoàn thiện về tác giả.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Do tính chất tổng hợp của luận văn, nên chúng tôi kết hợp sử dụng các phương pháp
nghiên cứu: phê bình huyền thoại; phê bình phân tâm học; phê bình cấu trúc; phê bình thi
pháp học; phương pháp nghiên cứu liên ngành kết hợp với các thao tác: đối chiếu, so sánh
(bản tiếng Anh và tiếng Việt), phân tích, tổng hợp, thống kê. Trong đó, phương pháp chính là
phê bình huyền thoại và thi pháp học.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Huyền thoại và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo
Chương 2: Thời gian huyền thoại
Chương 3: Không gian huyền thoại
2
6. Yêu cầu cần đạt
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi nhằm đạt được các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất: Có một cái nhìn tổng quan về chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
Thứ hai: Tìm hiểu các cấp độ thời gian làm nên thời gian huyền thoại trong tác phẩm
Trăm năm cô đơn và ý nghĩa, vai trò của nó.
Thứ ba: Nghiên cứu các kiểu không gian huyền thoại đặc trưng trong Trăm năm cô đơn và
ý nghĩa của nó.
Cuối cùng, trên cơ sở nghiên cứu thời gian và không gian huyền thoại trong Trăm năm cô
đơn, chúng tôi muốn đề xuất hướng nghiên cứu lâu dài cho các tác phẩm và sáng tác của
Márquez nói riêng và văn học hiện thực huyền ảo nói chung.
CHƢƠNG 1. HUYỀN THOẠI VÀ CHỦ NGHĨA
HIỆN THỰC HUYỀN ẢO
1.1. Huyền thoại (myth)
Huyền thoại (Tiếng Anh: myth; tiếng Nga: mif; tiếng Pháp: mythe) là một thuật ngữ được
nghiên cứu trong nhiều ngành khoa học khác nhau. Trong luận văn của mình, chúng tôi chỉ giới
hạn nói về những vấn đề liên quan đến mục đích nghiên cứu của đề tài.
Ở Việt Nam, “myth” được dịch là thần thoại và huyền thoại, trong đó thần thoại được hiểu
3
là những câu chuyện kể về thế giới cổ xưa, huyền thoại là thần thoại được viết theo kiểu mới,
đưa vào nhiều ý nghĩa và nội dung hiện đại theo chủ quan của nhà văn. Với mục đích nghiên
cứu của luận văn, chúng tôi chủ yếu sử dụng cách hiểu thứ hai, áp dụng huyền thoại trong văn
học hiện đại để nghiên cứu tác phẩm. Từ đó, có thể kể ra đây một số định nghĩa tiêu biểu về
huyền thoại:
Theo Từ điển Văn học, năm 2004, huyền thoại được hiểu là những câu chuyện có ý nghĩa
sâu thẳm, vĩnh cửu, toàn nhân loại, thường dưới dạng biểu tượng và có chức năng biểu đạt
thân phận con người.
Trong tập bút ký Huyền thoại ngày nay, Roland Barthes cho rằng huyền thoại gắn chặt với
ngôn ngữ và thông tin, trong đó đặc trưng của nó là một “hệ thống thông báo” hay một “thông
điệp”. Ý nghĩa của huyền thoại thường có nguyên cớ thông qua các loại suy.
Như thế, nội hàm của huyền thoại có thể xác định là:
- Những câu chuyện kể về những điều kì diệu, hoang đường, có nguồn gốc từ trong dân
gian sơ khai.
- Nhân vật của huyền thoại thường là những người phi thường, có khả năng đặc biệt hay
có những đặc điểm kì lạ.
- Là phương tiện để phản ánh hiện thực, có ý nghĩa sâu thẳm, vĩnh cửu, thường được thể
hiện dưới dạng biểu tượng.
1.2. Thời gian và không gian huyền thoại
Thời gian huyền thoại là cách thức làm cho một câu chuyện hiện thực bị tách ra khỏi bối
cảnh lịch sử, bối cảnh xã hội của nó. Thời gian huyền thoại thường trải màu sắc bàng bạc của
nó qua sự tái điệp thời gian (xét trong trật tự niên biểu) và những câu chuyện xảy lặp từ quá
khứ đến hiện tại (của một nhân vật hay một số nhân vật), những đoạn ngưng của hồi ức, trữ
tình ngoại đề khiến người đọc khó nắm bắt thời gian, sự mờ hóa thời gian.
Không gian huyền thoại mang là không gian pha lẫn thực và hư. Người đọc cảm giác
mình đặt chân đến một miền đất vừa hư vừa thực. Không gian huyền thoại thường có tính
biểu tượng. Không gian huyền thoại không nhất thiết phải là những không gian kỳ bí như
trong thần thoại: thiên đường, địa ngục hay miền đất xa lạ. Nó là hiện thực ngay trong cuộc
sống của chúng ta.
Thời gian và không gian huyền thoại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau
nhằm làm nổi bật ý nghĩa của tác phẩm.
1.3. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (Magic Realism)
Thuật ngữ “chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” (tiếng Anh: Magic Realism; tiếng Pháp:
réalisme magique; tiếng Tây Ban Nha: realismo mágico) được sử dụng trong lĩnh vực văn học
lần đầu tiên vào năm 1935 bởi Angel Flores trong Macgical Realism in Spanish American
4
Fiction (1955)
Kể từ đó, có nhiều định nghĩa khác nhau về chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Luis Leal cho
rằng chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là “thái độ đối với hiện thực” (an attitude toward reality). 1
Thái độ này có thể diễn tả bằng hình thức “đại chúng” (in porpular) hay “bác học” (cultured
form), thông qua phong cách tinh tế (elaborate style) hay “thô mộc” (rustic style). Trong đó,
nhà văn đối diện và khám phá ra hiện thực.
Mircea Eliade - nhà huyền thoại học Pháp khi nghiên cứu về tư duy huyền thoại đi đến kết
luận rằng huyền thoại không phải là dối trá hay ảo ảnh. Nó là kinh nghiệm tồn tại của con
người cổ xưa, nhờ đó mà họ tìm thấy lại mình và hiểu được mình. Hiện thực mà huyền thoại
nói lên là hiện thực thiêng liêng nắm bắt được sự tồn tại và nguồn gốc của những ý nghĩa ở
chiều sâu của chúng.
Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là trào lưu văn học quan trọng của văn học Mỹ Latinh, gặt
hái được những thành công rực rỡ nhất vào những năm 50, 60 của thế kỉ XX. Châu Mỹ Latinh
được mệnh danh là châu lục có “thực tại kỳ dị” (real maravilloso). Nó đã đề ra trước mắt các
nhà văn của lục địa này những nhiệm vụ phải tìm tòi một phương pháp nghệ thuật thích hợp
để thể hiện thực tại đó trong tất cả đặc trưng của nó. Muốn vậy, nhà văn phải nhìn theo nhiều
góc độ và sự chuyển tải phải phù hợp với tư duy đa thần của thổ dân Anh điêng.
Nguyên tắc sáng tác của nhà văn hiện thực huyền ảo là “biến hiện thực thành hoang
đường mà không đánh mất tính chân thực” [10, tr.10]. Để tạo hiệu quả, các tác giả sử dụng
những hình tượng biểu trưng, ngụ ý, ám thị, khoa trương, hoà lẫn thực và hư, đảo lộn trật tự
không, thời gian…
Các tác giả thường mượn những truyền thuyết dân gian cổ xưa để tạo ra các huyền thoại
mới về hiện thực xã hội Châu Mỹ Latinh. Vì thế, sáng tác của dòng văn học này thường dung
chứa cả yếu tố li kì, huyền ảo và hiện thực, đem đến cho người đạo cảm giác về các hiện
tượng nghịch lí.
Mục đích sáng tác của dòng văn học hiện thực huyền ảo nhằm vạch trần các thế lực đen
tối của các chế độ độc tài, phê phán tính trạng sống khép kín của con người. Văn học hiện
thực huyền ảo có tính chiến đấu cao, liên quan những giấc mơ của nhân vật.
Cần chú ý rằng tuy chủ nghĩa hiện thực huyền ảo phát triển có tiếp thu và kế thừa kinh nghiệm
của những nền văn học tiên tiến nhưng không hề bị trộn lẫn.
Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo không phải là trào lưu văn học chỉ có ở Mỹ Latinh, nhưng
có thể nói rằng đây là mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
Trong luận văn của mình, chúng tôi trình bày trọng tâm vào chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ
Latinh vì nó ảnh hưởng nhiều đến sáng tác của Márquez.
CHƢƠNG 2. THỜI GIAN HUYỀN THOẠI
1
Luis Leal, Magical Realism in Spanish American Literature. Magical Realism. Ed. Zamora and Faris, p. 119-123.
5
2.1. Trật tự (ordre)
Nghiên cứu trật tự là tìm và chỉ ra “thời gian kế tiếp nhau của các biến cố trong câu chuyện với
trật tự giả - thời gian việc sắp xếp chúng của nhà văn trong truyện kể” [11, tr.242]. Cấp độ này thể
hiện trong Trăm năm cô đơn trên các phương diện: niên biểu, sự sai trật tự niên biểu, đón trước và
quay ngược.
2.1.1. Niên biểu (chronique)
Tác phẩm có thời gian cốt truyện khoảng 100 năm. Thời gian này tương ứng với hai văn
bản: văn bản 1- người kể chuyện ở ngôi thứ ba (chính là văn bản thực của tác phẩm); văn bản
2 - tương ứng với văn bản tiếng Phạn do cụ Melquíades viết. Văn bản thứ nhất là thời gian
tâm lí, gắn với những hồi ức. Ở đây, chúng tôi quan tâm đặc biệt đến niên biểu nổi và chìm
của tác phẩm.
Thời gian văn bản dài 460 trang (bản tiếng Việt; 231 trang bản tiếng Anh) cho cốt truyện
dài 100 năm. Trung bình 460 trang/100năm = 4,6 trang/năm (gần 5 trang/năm). Tốc độ kể
chuyện như vậy là tương đối chậm. Tất nhiên, tác giả sẽ chỉ tập trung vào những khoảng thời
gian quan trọng, không dàn đều.
Truyện kể chậm sẽ tạo ra nhịp kể phù hợp cho miền quá khứ, hồi tưởng đằng đẵng, với
những hồi cố, trăn trở, nghĩ suy. Cả niên biểu chìm và nổi của Trăm năm cô đơn đều mang tính
chất phi thời gian.
2.1.2. Sai trật tự niên biểu (anachronie)
Sai trật tự niên biểu là không tuân theo niên biểu của tự nhiên (từ quá khứ đến hiện tại,
tương lai) của truyện kể. Mặc dù tác giả và dịch giả đều không đánh số chương, nhưng dựa
vào cách đánh dấu bằng chữ in hoa về nội dung, ta có thể thấy Trăm năm cô đơn được chia
làm 20 chương. Căn cứ vào thời gian cốt truyện (tức là số trang văn bản), ta có thể phân chia
tiểu thuyết ra làm 11 lớp lớn dựa trên sự đứt đoạn về sự kiện và thời gian như sau:
Lớp 1(A): Sự kiện đại tá Aureliano Buendía bị đưa ra pháp trường (trang 23; 3 dòng).
Lớp 2(B): Sự kiện những người Digan đến làng Macondo (đầu trang 23 -> giữa trang 31; 8
trang).
Lớp 3 (C): Những ngày đầu José Arcadio Buendía xây dựng làng Macondo (giữa trang 31
-> đầu trang 43; 12 trang).
Lớp 4 (D): Nguyên nhân Úrsula và José Arcadio Buendía bỏ làng ra đi (đầu trang 43 ->
giữa trang 48; 5 trang).
Lớp 5 (E): Thời niên thiếu, trưởng thành của các nhân vật đời thứ hai và đạt được thành
công trong chiến trận của đại tá Aureliano (giữa trang 48 -> trang 157; 109 trang).
Lớp 6 (F): Đại tá Aureliano bị đưa ra pháp trường (trang 158 -> giữa trang 177; 19 trang).
Lớp 7 (G): Cái chết của cụ tổ José Arcadio Buendía (trang 177 -> trang 180; 3 trang).
Lớp 8 (H): Mối tình loạn luân giữa cô Amaranta và cháu José Arcadio (trang 180 –> trang
225; 45 trang).
Lớp 9 (I): Quá trình phát triển tính cách của Aureliano Segundo ( trang 226 –> trang 413;
197 trang)
Lớp 10 (K): Aureliano Babilonia tự giam mình vào phòng thí nghiệm (trang 414 -> trang
6
436; 22 trang):
Lớp 11 (L): Dòng họ Buendía bị lưu đày vào cõi cô đơn (trang 437 -> trang 483).
Theo tiến trình phát triển của dòng họ Buendía, tức là theo thời gian lịch sử chúng ta có thể
NL
sắp xếp lại các lớp sự kiện theo đúng trật tự niên biểu như sau:
A6 – B3 – C2 – D1 – E4 – F5 – G7 – H8 – I9 – K10 – L11
Đ
ĐT T
NL = Ngoái lại
ĐT = Đón trước
* Nhận xét:
Lớp A, tác giả đưa sự kiện nổi bật nhất cuộc đời đại tá Aureliano Buendía lên đầu nhằm đón
trước số phận của đại tá và cả dòng họ Buendía. Lớp A đón trước cho lớp E. Lớp A và F tạo
thành một vòng tròn khép kín về thời gian của một kiếp người và của cả một dòng họ.
Lớp F là ngoái lại của lớp E. Trải qua những thăng trầm trong chiến trận, sự kiện bị đưa ra
pháp trường là một trong những dấu mốc quan trọng trong cuộc đời chinh chiến của nhân vật.
Sự kiện những người Digan đến làng Macondo được đón trước ở lớp C và kể tiếp ở lớp D,
đồng thời được nhắc đi nhắc lại ở những lớp khác theo lối xảy lặp (G, I, K).
Cùng một sự kiện có thể tại thời điểm này là đón trước, tại thời điểm sau là quay ngược.
2.1.3. Quay ngƣợc (analepsés)
Trong tác phẩm, quay ngược không chỉ được thể hiện rõ nét ở các lớp sự kiện lớn mà còn
thể hiện trong rất nhiều sự kiện nhỏ: Khi Amaranta nghe điệu nhạc mà Úrsula bật lên để dọn
dẹp nhà cửa đón năm mới, cô nhớ da diết Pietro Crespi; Úrsula nhớ lại về những đức tính lặp
đi lặp lại giữa các thế hệ và có cảm giác thời gian quay vòng tròn.
Thời gian hiện tại chỉ là nền để nhà văn tái hiện lại kí ức. Hiện tại trở thành một “cái cớ
sinh động để nhà văn khẳng định những gì đã qua.
2.1.4. Đón trƣớc (prolepses)
Đón trước là kể trước những sự kiện, biến cố về số phận nhân vật sẽ xảy ra hay “tình tiết
tiền định”.
Mở đầu tác phẩm tác giả dùng lối đón trước. Ông đưa ra sự kiện đại tá Aureliano bị hành hình.
Khi bắt đầu kể về những chặng đường quan trọng của Aureliano Segundo, tác giả cũng dùng lối
đón trước như một định mệnh.
2.2. Thời lƣu (durée)
Thời lưu là “độ lâu của các biến cố với tác giả - thời lưu (thực chất là độ dài văn bản)” [11,
tr.242]; nhịp (rythme), tốc độ (vitesse) của truyện kể, tóm tắt (summaire); quãng ngưng
(pause) (TT (thời gian truyện kể) = n; TC (thời gian cốt truyện) = 0); Tỉnh lược (ellipse) (T =
0; TC = n); lớp, cảnh (scene). Độ dài ngắn của mỗi biến cố so với thời gian thực sự của nó sẽ
quyết định ý nghĩa của thời lưu khác nhau. Trong tiểu thuyết này, thời lưu biểu hiện ở cấp độ
7
thời sai và tỉnh lược.
2.2.1. Thời sai
Thời sai là sự không bền vững về tốc độ (vitesse); được xác định thông qua mối quan hệ
giữa thời lưu của sự kiện (được tính bằng giây, phút, giờ, tháng, năm…) với độ dài của văn
bản (dòng, trang).
Trên cơ sở 11 lớp truyện kể trong Trăm năm cô đơn như trên chúng tôi lập niên biểu cho
toàn bộ 11 lớp sự kiện này. Trên cơ sở này, chúng tôi xác định thời gian cốt truyện tương
đương với số trang văn bản, tìm ra tốc độ và nhịp kể cũng như ý nghĩa của nó. Xin lưu ý rằng
bản thân thời gian trong Trăm năm cô đơn đã mang tính tương đối. Vì thế, bảng thống kê
cũng mang tính chất tương đối, nên đôi chỗ chúng tôi dùng từ “khoảng” để chỉ thời gian sự
kiện.
Sự
kiện
A
B
C
D
E
F
G
H
I
K
L
Trật
tự
theo
văn
bản
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
Trật
tự
theo
niên
biểu
6
3
2
1
4
5
7
8
9
10
11
Thời
gian văn
bản
Thời gian
sự kiện
Tốc độ trung bình
Nhận xét
về tốc độ
3 dòng
8 trang
12 trang
5 trang
109 trang
19 trang
3 trang
45 trang
197 trang
22 trang
46 trang
khoảng 1 tiếng
30 năm
14 năm
4 thế kỉ
khoảng 40 năm
6 ngày
1 ngày
khoảng 30 năm
50 năm
5 năm
5 năm
3 dòng / 1h
1 trang / 4 năm
1 tr /1 năm 2 tháng
1 trang / 1thế kỉ
1 trang / 3 tháng
1 tr / 3h
1 trang / 3h
1 trang / 1,5 năm
1 trang / 3 tháng
1 trang / 9 ngày
1 trang / 1 năm
Nhanh
Chậm
Nhanh
Rất chậm
Rất nhanh
Rất chậm
Nhanh
Chậm
Nhanh
Chậm
Nhanh
Nhìn vào bảng thống kê trên, ta thấy rõ ràng có độ lệch giữa thời gian của sự kiện và độ dài
văn bản. Nhịp kể nhanh, chậm khác nhau giữa các sự kiện cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng
của nó. Đồng thời, chúng ta có thể nhận ra dụng ý của tác giả thông qua nhịp điệu và tốc độ
kể.
Độ lệch thời gian lớn nhất được thể hiện giữa lớp D và G (trung bình lớp D: 1 trang/1 thế
kỉ; Lớp G: 1 trang/3 h). Ngược lại ở lớp G, sự kiện lại được chi tiết hóa tối đa. Cái chết của
trưởng lão José Arcadio được miêu tả tỉ mỉ. Những miêu tả ấy làm cho nó trở nên huyền bí.
2.2.2. Tỉnh lƣợc
Tỉnh lược là thủ pháp thời gian mà khi kể chuyện tác giả bỏ qua nội dung hoạt động của
8
nhân vật trong một quãng thời gian. Tỉnh lược rỗng về mặt nội dung.
Trong Trăm năm cô đơn, rất nhiều đoạn, trong khi đang kể, tác giả bỏ qua một khoảng thời
gian, vài ngày, vài năm thậm chí vài thế kỉ để tiếp tục mạch truyện.
2.3. Tần suất (fréquence)
Tần suất là “mối quan hệ giữa khả năng lặp đi lặp lại của câu chuyện với khả năng lặp đi
lặp lại của truyện kể” [11, tr. 242]. Trong tác phẩm cấp độ này được sử dụng chủ yếu ở nghệ
thuật xảy lặp (intératif). Đây là cấp độ đầu tiên khi nghiên cứu về tần suất. Trong Trăm năm
cô đơn, xảy lặp được thể hiện trên ba tiểu cấp độ: về từ ngữ; thái độ và hành động.
2.3.1 Từ ngữ (Terme)
Lặp lại về từ ngữ là sự láy đi láy lại của các từ, cụm từ nhằm nhấn mạnh tính chất của sự việc.
Tình trạng cô đơn chung của các nhân vật được nhấn mạnh do sự xuất hiện dày đặc các từ
chỉ điều đó như: cô đơn, hiu quạnh, cô độc, cô quạnh…ngay bắt đầu từ tên tác phẩm. Thời
gian miên man, dàn trải được nhấn mạnh qua phép lặp đi lặp lại của cụm từ “rất nhiều năm
sau này”. Nhịp độ thời gian được đẩy nhanh lên nhờ sự lặp lại của từ “bỗng”.
2.3.2. Thái độ (Attitude)
Thái độ của nhân vật được lặp đi lặp lại do cảm nhận giống nhau về tính chất của sự việc.
Thái độ phổ biến nhất là thái độ cảm thấy thời gian quay vòng của Úrsula, José Arcadio
Buendía và Fernanda.
2.3.3 Hành động (Action)
Hành động luôn luôn gắn liền với suy nghĩ của nhân vật. Ở Trăm năm cô đơn, rất nhiều hành
động trong tác phẩm chỉ xảy ra một lần nhưng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần: Aureliano khi
đứng trước họng súng của đội hành, Amarata ngồi khâu khăn niệm cho mình...
Thủ pháp xảy lặp về từ ngữ, trạng thái và hành động làm cho thời gian trong tác phẩm trở
nên linh hoạt.
2.4. Điềm báo (Foresight)
Điềm báo không chỉ là những dấu hiệu báo trước cái chết mà rộng hơn, còn bao hàm
những tiên tri về số phận con người, không kể điềm hay, gở. Nó là sự ánh xạ của thời gian lên
mỗi con người: Đôi mắt mở thao láo khi Aureliano chào đời báo trước một cuộc đời dấn thân
nhưng vô vọng; vào giờ phút José Arcadio Buendía chết, Cataure - em trai của Visitaxion
không một lời báo trước trở về với lí do về dự đám tang hoàng đế.
* Tiểu kết:
Thời gian huyền thoại là một trong những hiệu ứng quan trọng đưa “Trăm năm cô đơn”
thành tác phẩm bậc thầy của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Márquez đã sử dụng một cách linh
hoạt các cấp độ thời gian trong Trăm năm cô đơn. Thời gian huyền thoại Trăm năm cô đơn
góp phần quan trọng trong việc thể hiện bản chất tâm hồn mỗi nhân vật.
9
CHƢƠNG 3. KHÔNG GIAN HUYỀN THOẠI
3.1. Macondo
3.1.1. Khởi nguồn huyền thoại
Trở đi trở lại nhiều lần trong các sáng tác của Márquez ở cả truyện ngắn, truyện vừa và tiểu
thuyết, Macondo là không gian hư cấu đặc trưng mang tính liên văn bản, xuất hiện trong
nhiều sáng tác của nhà văn như: Bà già Montien, Một ngày sau thứ bảy, Buổi chiều kỳ diệu
của Bantaxa, Độc thoại ngắm mưa của Isabel ở làng Macondo, Biển của thời đã mất, Đám
tang Bà mẹ vĩ đại, Ngài đại tá chờ thư…
Về mặt địa lý, Macondo gắn với cuộc hành trình đi tìm biển nhằm thoát khỏi mặc cảm tội lỗi
của vợ chồng José Arcadio Buendía và một nhóm bạn bè của ông.
Về mặt tên gọi, cái tên Macondo cũng không xuất phát từ cơ sở phong thủy, địa lý, mà lại
xuất phát từ giấc mơ kì lạ của José Arcadio Buendía.
Tưởng như ngẫu nhiên, nhưng với Márquez lại là ý đồ nghệ thuật. Đặc biệt, bản thân ý đồ
nghệ thuật đó cũng mang màu sắc huyền thoại.
3.1.2. Diễn tiến vòng tròn, khép kín kì lạ
Khởi nguồn từ giấc mơ của José Arcadio Buendía và chỉ còn là “một cơn lốc dữ dội đầy
bụi và rác rưởi cứ xoáy tít mù được nói tới trong Kinh thánh vần vũ” [7, tr. 482], thành phố ảo
ảnh Macondo bị gió cuốn đi cùng lúc Aureliano Babilonia giải mã xong tấm da thuộc của
Melquíades.
Cảnh tượng ban đầu của Macondo quả thật mới chỉ thấy trong cổ tích. Sự xuất hiện của
những cái được gọi là văn minh do người Digan và Ả Rập mang tới hầu hết đều đem đến
thảm họa cho Macondo.
Thời kỳ thanh bình nhất của Macondo là thời kỳ những Buendía làm ăn phát đạt.
Thời kỳ Macondo bị tàn phá nặng nề nhất là khi ngài Brown cùng công ty chuối xuất hiện,
nói cách khác đó là sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản.
Ở Châu Mỹ Latinh, thực tại biến dạng do chính trị nhiều hơn văn hóa. Sự thực được bưng
bít đến nỗi người ta không biết đâu là sự thực.
Trăm năm cô đơn không liên quan trực tiếp đến chính trị, và chính trị không phải dòng cảm
xúc chủ đạo. Thế nhưng, qua những ẩn dụ tác giả đã chuyển tải những biến cố chính trị và bản
chất của nó. Ở Macondo, tất cả những chuyện không thể xảy ra, những điều vô lý, đều xảy ra
liên tiếp, ngay giữa ban ngày ban mặt.
3.1.3. Không gian của những biểu tƣợng
Độc giả tưởng chừng như câu chuyện là một thế giới chật hẹp, chỉ liên quan đến một cái làng
và một dòng họ nhưng Macondo như một tấm gương kỳ ảo phản ánh những sự kiện quan trọng
nhất trong lịch sử khởi nguồn của Columbia và Châu Mỹ nói chung.
10
Cái đuôi lợn là biểu tượng cho cuộc sống không có tình yêu dẫn tới sự tha hóa, đi ngược
quá trình tiến hóa của loài người, trở thành một giới người xuống cấp.
Tác giả đưa vào tác phẩm những hình tượng của đời sống ý thức còn ở trình độ trực quan
tiền logic của dân chúng bao gồm các truyền thuyết, huyền thoại, tín điều, tôn giáo, thần giao
cách cảm:
3.2. Tấm da thuộc - không gian tƣởng tƣợng
3.2.1. Melquíades - chủ nhân huyền bí của tấm da thuộc
Melquíades là một nhân vật huyền bí, được xây dựng dựa trên tư duy của con người còn ở
trình độ trực quan tiền logic: người chết “sống”. Từ hình thức đến cử chỉ, hành động, trí tuệ
của Melquíades đều có những nét kì lạ.
Melquíades là người có sức ảnh hưởng lớn đến hầu hết các thành viên trong nhà Buendía.
Melquíades ra đời gắn với nhiều mã số kì lạ. Một điều kì lạ là, không chỉ lần thứ hai trở về
sau khi đã bị chết ở bờ biển Xanhgapo, mà sau khi qua đời lần thứ hai, linh hồn của cụ vẫn đi
về phòng thường xuyên, trò chuyện với một số người có “nhân duyên” với tấm da thuộc.
Melquíades rõ ràng là người cõi âm, thế nhưng Márquez không hề miêu tả ông như một
bóng ma, ngược lại, cụ già hiện ra hết sức gần gũi, chỉ có điều, cụ đã đạt đến trình độ bất diệt
cả về thể xác lẫn linh hồn.
2.2. Tấm da thuộc biết nói
Tấm da thuộc là không gian biểu tượng rộng lớn của cả dòng họ Buendía và châu Mỹ
Latinh. Nó thể hiện tư duy tiền định, đặt trọn niềm tin vào định mệnh.
Tấm da thuộc còn có khả năng tự bảo vệ sự tồn tại của mình. Khi chưa thực hiện xong sứ
mệnh, bất kỳ một thế lực nào cũng không thể tiêu hủy nó.
Không gian tấm da thuộc đóng vai trò quan trọng, tái hiện sinh động số phận của tất cả các
cá nhân và tập thể trong tác phẩm.
3.3. Không gian căn phòng
Không gian căn phòng luôn luôn gắn liền với diễn biến tâm trạng của nhân vật. Nhắc đến
không gian căn phòng nghĩa là nhắc đến những điều sâu kín nhất trong nội tâm con người.
Nhìn vào bảng thống kê (xem phần phụ lục) về thời gian và không gian trong Trăm năm
cô đơn, chúng ta có thể nhận thấy không gian căn phòng là không gian chủ đạo của tác phẩm.
Ngoại trừ sự kiện thứ 13, José Arcadio Buendía cô đơn bên gốc cây dẻ, sự kiện thứ 46, khi đại
tá Aureliano xem đoàn xiếc đi qua ở ngoài đường, người ta lại nhìn thấy nỗi cô đơn đáng
thương của ngài, còn lại 72 sự kiện/74 sự kiện được thống kê, chiếm 97,3% là không gian căn
phòng, khi thì là căn phòng của Melquíades, khi thì là không gian phòng riêng của các
Aureliano và Arcadio, lúc lại là căn phòng của Pilar Ternera, Petra Cotes, Rebeca…Tất cả
những căn phòng ấy đều mang đặc trưng Mỹ Latinh: cô đơn
3.3.1. Phòng thí nghiệm
Phòng thí nghiệm nằm trong ngôi nhà của dòng họ Buendía nhưng được dành riêng để làm
việc. Phòng thí nghiệm gắn liền với say mê khoa học của các thế hệ dòng họ Buendía đồng
11
thời cũng là nơi thể hiện rõ nhất cái vòng luẩn quẩn, sự thu hẹp, khép kín của Macondo.
Duy nhất một lần trong tác phẩm, chúng ta thấy phòng thí nghiệm trở nên có ích. Đó là
thời gian quý báu - khi Úrsula kéo José Arcadio ra khỏi những say mê vô vọng - phòng thí
nghiệm được chuyển thành nơi dạy dỗ bọn trẻ trong nhà.
3.3.2. Căn phòng của Melquíades
Căn phòng của Melquíades là nơi cụ chắp bút tiên đoán số phận của dòng họ Buendía. Căn
phòng Melquíades bắt đầu nhuốm màu sắc huyền ảo khi chủ nhân của nó qua đời. Vượt ra
ngoài quy luật của thời gian, bất chấp sự chảy trôi tựa “bóng câu qua cửa sổ”, căn phòng vẫn
luôn sạch sẽ, mới mẻ như vừa được quét dọn. Trong căn phòng này, Melquíades đã chết trước
khi thế hệ thứ tư của dòng họ Buendía ra đời, thế nhưng đến thế hệ thứ sáu của dòng họ này,
cụ vẫn đi về trò chuyện với Aureliano Babilonia.
Căn phòng của Melquíades dung chứa trong đó những sức mạnh siêu nhiên, gắn liền với
những sự kiện huyền bí không thể giải thích được. Không gian này cũng có thể coi là ốc đảo
an toàn của những số phận bất hạnh trong dòng họ, tiêu biểu là Aureliano Babilonia.
3.3.3. Căn phòng của Rebeca sau khi kết hôn
Căn phòng của Rebeca sau khi kết hôn nằm ngay trước nghĩa địa. Vợ chồng Rebeca không
những không cảm thấy sợ khi một mình ở giữa không gian ấy, mà còn vui mừng tận hưởng
gió từ nghĩa địa theo các cửa sổ lùa vào.
Trong căn nhà này, cái chết của José Arcadio là chuyện bí hiểm nhất không bao giờ được
làm sáng tỏ ở Macondo. Hình ảnh Rebeca già nua, đi đôi ủng trắng bạc cũ kỹ, đội chiếc mũ có
gài những bông hoa nhỏ li ti bước ra từ “căn phòng chết” được đặt cạnh hình ảnh chim chóc
không chịu được nóng lao đầu qua lưới sắt để rúc vào phòng ngủ mà chết làm cho cái chết
càng trở nên tang thương.
* Tiểu kết:
Xuất phát từ những không gian hết sức gần gũi với cuộc sống: một ngôi làng, căn phòng,
ngưỡng cửa, Márquez đã tô điểm cho nó trở nên sinh động, thậm chí kỳ bí bởi kỹ thuật huyền
ảo.
Huyền thoại về Macondo gắn liền với những con người, số phận được định sẵn. Gắn với
các nhân vật là những căn phòng mang hơi thở chết chóc của họ.
12
KẾT LUẬN
1. Trên thế giới, phê bình huyền thoại là phương pháp khá phổ biến và đạt được nhiều thành
tựu đáng kể. Trong khi đó ở Việt Nam, vấn đề này vẫn còn khá mới mẻ. Tuy đã có một số công
trình tiếp cận phương pháp này nhưng những con số ấy còn quá ít ỏi. Hơn nữa, tính ứng dụng
và khả năng thành công của phương pháp này còn khá mơ hồ, vẫn còn trong giai đoạn trứng
nước. Mặt khác, xu hướng sáng tác huyền thoại hóa ở Việt Nam những năm gần đây (tiêu biểu
là sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp) đã bắt đầu được quan tâm. Vì thế, xây dựng, phát triển hệ
thống lí thuyết về phê bình huyền thoại và áp dụng hữu hiệu phương pháp này vào nghiên cứu
văn học là một yêu cầu cấp thiết đặt ra.
2. Văn học Mỹ Latinh, đặc biệt là chủ nghĩa hiện thực huyền ảo thế kỉ XX với các sáng tác
của Carpentier, Márquez, Asturias… là một địa hạt khá thú vị. Ở Việt Nam, trong cả nghiên cứu
và giảng dạy, sự quan tâm dành cho mảng văn học này rất ít. Vì thế, đầu tư nghiên cứu thành
tựu, hạn chế của văn học Mỹ Latinh không những góp phần hoàn thiện cái nhìn về văn học thế
giới mà còn phát triển lí luận văn học trong nước.
3. Márquez là một nhà văn xuất sắc của văn học huyền ảo Mỹ Latinh nói riêng và văn học
thế giới nói chung. Ở Việt Nam, việc đọc và hiểu Márquez còn nhiều khó khăn. Nghiên cứu
và tìm hiểu tác giả bậc thầy về tiểu thuyết huyền ảo và học hỏi kĩ thuật viết của ông là một
điều hết sức hữu ích.
4. Thời gian trong tác phẩm mang tính uẩn ảo và không đi theo một đường thẳng làm nên
chất liệu huyền thoại cho nó. Trong suốt 100 năm, bài toán thời gian hóc búa ấy vẫn không có
lời giải đáp. Vì thế, những sự kiện xảy ra trong khoảng thời gian ấy sẽ mãi mãi ám ảnh độc
giả và những người trong cuộc.
5. Không gian trong Trăm năm cô đơn cũng lấp lánh màn sắc huyền thoại.
6. Không-thời gian huyền thoại trong tác phẩm góp phần quan trọng trong việc thể hiện ý
nghĩa tác phẩm.
Trong phạm vi luận văn này, do thời lượng viết và số lượng văn bản có hạn nên chúng tôi chỉ
dừng lại phân tích thời gian và không gian huyền thoại trong tác phẩm Trăm năm cô đơn (có
liên hệ với những tác phẩm khác). Hướng nghiên cứu này có thể mở rộng đối với toàn bộ sáng
13
tác của Márquez nói riêng và toàn bộ các sáng tác thuộc mảng văn học hiện thực huyền ảo nói
chung, nhằm có cái nhìn hoàn thiện hơn về văn học thế giới./.
References
1. Tiếng Việt
1. Lê Huy Bắc, Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo & Gabriel García Márquez, Nxb Giáo dục
Việt Nam, 2009.
2. Lê Nguyên Cẩn, Cô đơn nghĩa là sự tiêu diệt, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 1, năm
2000.
3. Đỗ Đức Dục, Từ Đông ki sốt đến Trăm năm cô đơn, Tạp chí Văn học, số tháng 2 năm
1988, tr 59 - 65.
4. Nguyễn Trung Đức, Hiệu quả nghệ thuật của không - thời gian trong tiểu thuyết Trăm
năm cô đơn của G.G.Márquez, Tạp chí Văn học, số 1, năm 1995.
5. Nguyễn Trung Đức, Từ chân trời một phía đến chân trời nhiều phía, Nxb Đà Nẵng,
2002.
6. Eleaza Moiseevich Meletinsky, Thi pháp của huyền thoại, Nxb. ĐH QGHN, 2004.
7. Gabriel García Márquez, Trăm năm cô đơn, Nxb Văn học, 2004, Nguyễn Trung Đức
dịch.
8. Gabriel García Márquez, Truyện ngắn tuyển chọn, Nxb Văn học, 2007, Nguyễn Trung
Đức dịch.
9. Gabriel García Márquez, Tình yêu thời thổ tả, Nxb Văn học, 2004, Nguyễn Trung Đức
dịch.
10. Lê Bá Hán, Lại Nguyên Ân…, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, 2006.
11. Đào Duy Hiệp, Phê bình văn học từ lí thuyết hiện đại, Nxb Giáo dục, 2008.
12. Kinh thánh Tân Ước, NXb Văn hóa thông tin, 2003.
13. Vũ Trung Kiên, Nghệ thuật tiểu thuyết Trăm năm cô đơn của Gabrriel García
Márquez, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005.
14. Nguyễn Đức Nam, Một khuynh hướng trong tiểu thuyết hiện tiến bộ ngày nay ở Châu
Mỹ Latinh: Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, Tạp chí văn học số 1 năm 1975, tr 110 - 120.
15. Nguyễn Thị Thu Thuỷ, Huyền thoại trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, Đại học
Sư Phạm Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, 2005.
14
16. Tzevan Todorov, Dẫn luận về văn chương kỳ ảo, Nxb Đại học Sư phạm, 2008, Lê
Hồng Sâm, Đặng Anh Đào dịch.
2. Tiếng Anh
17. Jon
Lee
Anderson,
The
power
of
Gabriel
García
Márquez,
http://
Solitude,
http://
www.themodernworld.com/gabo/gabo - power.html, 30/04/2009.
18. Gabriel
García
Márquez,
One
Hundred
Years
of
ntvan6959.googlepases.com/Gabriel García Máquez,
19. One Hundered Years of Solitue.pdf, 15/07/2006.
20. J.Simpson & S. Round, Dictionary of English Folklore, Oxford, 2000.
21. Mark P.O. Morford, Robert J.Lenardon, Classical Mythology, third edition, Longman,
NewYork and London, 1985.
22. Mythology, http://en.wikipedia.org/wiki/Mythology, 04/07/2009.
23. Myth, http://dictionary.reference.com/browse/myth, 20/08/2008.
24. One Hundred Years of Solitude, http:// en.wikipedia.org/wiki/One - Hundred - Years of - Solitude, 02/08/2010.
15
- Xem thêm -