ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HOÀNG LINH
THỨ TỰ ƢU TIÊN THANH TOÁN
CHO CÁC CHỦ NỢ THEO PHÁP LUẬT PHÁ SẢN 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HOÀNG LINH
THỨ TỰ ƢU TIÊN THANH TOÁN
CHO CÁC CHỦ NỢ THEO PHÁP LUẬT PHÁ SẢN 2014
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Đức Minh
Hà Nội - 2016
LỜI CÁM ƠN
Trước tiên, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Nguyễn Đức
Minh – người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể các thầy cô giáo, giảng
viên của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội – những người đã giảng dạy
tôi trong những năm học vừa qua, giúp tôi có được vốn kiến thức như ngày
hôm nay.
Tôi cũng xin cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã luôn quan tâm,
động viên và giúp đỡ trong suốt quá trình hoàn thành luận văn
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Nguyễn Hoàng Linh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn được trích dẫn theo nguồn đã công bố. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Hà Nội, ngày ...... tháng ..... năm 2016
Tác giả
Nguyễn Hoàng Linh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỨ TỰ ƯU TIÊN THANH
TOÁN TÀI SẢN CHO CÁC CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN ........... 6
1.1. Khái niệm thanh toán tài sản phá sản ..................................................... 6
1.2. Thủ tục thanh toán tài sản trong thủ tục phá sản.................................... 7
1.3. Chủ nợ - Chủ thể của quan hệ thanh toán tài sản phá sản ..................... 9
1.3.1. Khái niệm chủ nợ ............................................................................ 9
1.3.2. Phân loại chủ nợ ............................................................................ 10
1.4. Đối tượng và phạm vi thanh toán tài sản phá sản ................................ 14
1.5. Thứ tự ưu tiên trong thanh toán tài sản phá sản và căn cứ xác định.... 19
1.6. Mục đích, ý nghĩa, vai trò của việc xác định thứ tự ưu tiên trong
thanh toán tài sản phá sản............................................................................ 20
1.6.1. Mục đích, ý nghĩa.......................................................................... 20
1.6.2. Vai trò............................................................................................ 20
Kết luận chương 1 ....................................................................................... 24
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VỀ THỨ TỰ ƯU TIÊN THANH TOÁN CHO
CÁC CHỦ NỢ ................................................................................................ 25
2.1. Thực trạng quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán tài sản cho các
chủ nợ .......................................................................................................... 25
2.1.1. Thực trạng quy định về đối tượng thanh toánError! Bookmark not defined.
2.2. Thực trạng quy định về các biện pháp bảo toàn tài sản ....................... 37
2.2.1. Giao dịch vô hiệu .......................................................................... 38
2.2.2. Tạm đình chỉ, đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực ...... 40
2.2.3. Áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời .................................... 42
2.3. Thực trạng quy định về chủ nợ ............................................................ 43
2.4. Thực trạng quy định về thứ tự thanh toán ............................................ 45
2.5. Thực trạng quy định về thủ tục phân chia tài sản phá sản ................... 47
2.5.1.Thủ tục tuyên bố phá sản ............................................................... 48
2.5.2. Thi hành quyết định tuyên bố phá sản .......................................... 51
2.5.3. Phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản............... 53
2.5.4. Đình chỉ thi hành quyết định tuyên bố phá sản ............................. 54
2.6. Thứ tự ưu tiên thanh toán trong trường hợp phá sản tổ chức tín dụng 55
2.7. Quan điểm hoàn thiện pháp luật phá sản về thứ tự ưu tiên thanh toán
tài sản cho các chủ nợ ................................................................................. 58
2.7.1. Quy định của pháp luật phá sản về thứ tự ưu tiên thanh toán tài
sản cho các chủ nợ phải đáp ứng yêu cầu của thực tiễn ......................... 58
2.7.2. Quy định của pháp luật phá sản về thứ tự ưu tiên thanh toán tài
sản cho các chủ nợ phải dựa trên cơ sở hoàn thiện đồng bộ hệ thống
pháp luật phá sản ..................................................................................... 59
2.8. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thứ tự ưu tiên thanh toán tài sản
cho các chủ nợ ............................................................................................. 59
2.8.1. Về xử lý tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản nằm ở
nước ngoài ............................................................................................... 59
2.8.2. Việc giải phóng nghĩa vụ trả nợ cho chủ doanh nghiệp tư nhân
và các thành viên hợp danh của công ty hợp danh ................................. 60
2.8.3. Về quyền lợi của người lao động khi phân chia tài sản phá sản ... 63
Kết luận chương 2 ....................................................................................... 64
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 67
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Phá sản là một hiện tượng tất yếu tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Phá sản
tồn tại cùng cạnh tranh. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh càng gay gắt thì
nguy cơ phá sản càng lớn. Ở Việt Nam, phá sản xuất hiện từ đã lâu, nhưng phá sản
thực sự được chú ý và phản ánh đúng tính chất của nó kể từ khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường. Trong thời kì kế hoạch hóa tập trung, có nhiều quan điểm cho
rằng phá sản là một hiện tượng bất bình thường, thể hiện sự trì trệ và suy thoái của
đời sống kinh tế xã hội và thường bị phủ nhận. Khi có công ty, xí nghiệp làm ăn
thua lỗ thì có cơ quan cấp trên bù lỗ bằng tiền ngân sách, đình chỉ hoạt động hoặc
giải thể. Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi quan niệm về phá sản. Luật
phá sản năm 1993 và sau này được thay thế bằng luật phá sản năm 2004 đã phần
nào thể hiện được vai trò là một trong những công cụ pháp lý quan trọng thúc đẩy
sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong việc cụ thể hóa những chính sách kinh tế
của nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, hợp tác xã đang trong
tình trạng sản xuất kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường
một cách có trật tự, góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, làm lành mạnh hóa
nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, thúc đẩy sự
lưu thông vốn trong nền kinh tế thị trường, thu hút đầu tư và tạo ra môi trường kinh
doanh lành mạnh cho các nhà đầu tư. Pháp luật phá sản bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động và các chủ nợ cũng như lợi ích hợp pháp cho các doanh
nghiệp mắc nợ. Đồng thời pháp luật phá sản còn là công cụ răn đe, buộc các doanh
nghiệp phải luôn tự hoàn thiện mình để tồn tại và phát triển.
Tuy nhiên, theo tổng kết thi hành luật phá sản cho thấy, qua 9 năm thực hiện,
với luật phá sản doanh nghiệp năm 1993, toàn ngành tòa án chỉ thụ lý 151 đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản doanh nghiệp, trong đó chỉ tuyên bố được 46 doanh nghiệp bị phá
sản. Với luật phá sản năm 2004, tòa án thụ lý tổ ng số 336 đơn yêu cầ u tuyên bố phá
sản, ra quyết định mở thủ tục phá sản236 trường hợp, và cũng chỉ quyế t đinh
̣ tuyên bố
1
phá sản được 83 trường hợp. Năm 2012, có 69.874 doanh nghiệp đăng ký, trong khi
đó có 44.906 doanh nghiệp dừng hoạt động và 9.355 doanh nghiệp giải thể. Trong khi
đó, qua tổng kết thi hành luật phá sản của 63 tòa án nhân dân cấp tỉnh thì có 49 tòa án
có nhận đơn và giải quyế t t ổng số 336 đơn yêu cầ u tuy ên bố phá sản và 14 tòa án
không nhâ ̣n đơn và giải quyế t đơn yêu cầ u tuy ên bố phá sản g ồm các tòa án: Cao
Bằng, Bắc Ka ̣n, Điê ̣n Biên, Hà Giang, Hà Nam, Lào Cai, Ninh Thuận, Hòa Bình, Thái
Nguyên, Bình Phước, Tuyên Quang, Hưng Yên, Kiên Giang, Lai Châu [5].
Thực tiễn áp dụng luật phá sản năm 2004 còn tồn tại một số vướng mắc và
chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra. Một trong những hạn chế còn tồn tại của
luật là trình tự, thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ khi doanh nghiệp, hợp tác
xã bị tuyên bố phá sản còn chưa đầy đủ và phù hợp. Thực tiễn cho thấy việc giải
quyết thanh toán tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản để phân chia
cho các chủ nợ còn nhiều bất cập. Qua số liệu các vụ việc phá sản của các tòa án
trên toàn quốc nêu trên, chiếm số lượng không nhỏ các vụ việc phá sản chưa giải
quyết được do có liên quan đến vấn đề thanh toán cho các chủ, điều đó đã dẫn đến
hiệu quả áp dụng quy định luật phá sản năm 2004 vào thực tiễn không cao. Chính vì
vậy việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định trong luật phá sản về thanh lý
tài sản, thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ là một trong những yêu cầu quan
trọng đặt ra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể có liên quan, giúp
cho vụ phá sản được giải quyết nhanh chóng, chính xác, qua đó nâng cao hiệu quả
của luật phá sản. Điều này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện về thủ
tục này cả về lý luận cũng như thực tiễn hoạt động nhằm có sự đối chiếu, so sánh
với pháp luật các nước, để thấy rõ được những ưu điểm cũng như bất cập trong các
quy định của pháp luật và đưa ra những giải pháp cần thiết nhằm xây dựng những
quy định hợp lý, đáp ứng yêu cầu thực thi luật phá sản ở nước ta. Đây chính là lý do
để tôi chọn đề tài “Thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ theo pháp luật phá
sản 2014”
2
2. Tổng quan tài liệu
Kể từ khi ban hành luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 đến nay đã có rất
nhiều công trình khoa học về phá sản cũng như pháp luật về phá sản nói chung do
các nhà khoa học cũng như những người hoạt động về thực tiễn thực hiện.
Nhìn chung các công trình trên thường chủ yếu tập trung vào việc phân tích,
đánh giá các quy định về điều kiện, phạm vi và trình tự, thủ tục giải quyết vụ phá
sản trong luật phá sản nói chung mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về thủ tục, thứ tự thanh toán tài sản cho các chủ
nợ, vì vậy nằm trong yêu cầu sửa đổi bổ sung các quy định của luật phá sản thì việc
nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết và bổ ích. Có thể kể đến một số các công trình
nghiên cứu như:
- Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của TS. Nguyễn Văn Dũng về “Cơ
sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng các quy định của Luật phá sản về thủ tục
phá sản” năm 2004;
- Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện các quy định liên quan đến quản lý và thanh lý
tài sản phá sản” của Nguyễn Thị Hồng Vân, được bảo vệ thành công tại khoa luật,
Đại học quốc gia Hà Nội năm 2008. Đây là một công trình nghiên cứu rất chuyên
sâu về các hạn chế, yếu kém trong các quy định của pháp luật có liên quan đến công
tác quản lý và thanh lý tài sản phá sản và tổ quản lý, thanh lý tài sản. Như vậy, các
nội dung khác của luật phá sản chưa được đề cập đến trong luận án này;
- Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ “ Thực trạng pháp luật về phá sản
và việc hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam” của Bộ Tư pháp
bảo vệ năm 2009
Ngoài ra, còn có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí,
các báo cáo chuyên đề, hội thảo chuyên đề về phá sản và pháp luật về phá sản như:
- “Tài sản phá sản và phân chia tài sản của con nợ bị phá sản” của Hà Thị
Thanh Bình, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 5/2003;
- “Về thực trạng pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay” của TS. Dương Đăng
Huệ, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2003;
3
- “Phá sản doanh nghiệp - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn
Tấn Hơn, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, năm 2005...
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ thực trạng quy định của luật phá sản năm
2014 và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành về thứ tự ưu tiên thanh toán cho
các chủ nợ; từ đó xây dựng luận cứ khoa học cho việc đưa ra các giải pháp hoàn
thiện chế định pháp luật này. Để đạt được mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về đối tượng và thứ tự ưu tiên thanh toán
các khoản nợ khi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Mối quan hệ
giữa thủ tục này với các thủ tục còn lại trong quá trình phá sản.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng của pháp luật phá sản hiện hành và các văn
bản hướng dẫn thực hiện, chỉ ra những điểm đã đạt được và những khó khăn, vướng
mắc cần tháo gỡ và giải quyết.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật phá sản Việt Nam về đối
tượng và thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: các quy định hiện hành của pháp luật phá sản về thứ
tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ và thực tiễn thực hiện chế định này.
- Phạm vi nghiên cứu: từ khi luật phá sản năm 2014 có hiệu lực đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê
Nin và một số phương pháp cụ thể như: Phân tích, so sánh, tổng hợp…để tìm ra
những điểm đã đạt được và chưa đạt được pháp luật hiện hành.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Hiện nay, mặc dù đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu pháp luật phá
sản nhưng thường chỉ tập trung nghiên cứu một cách khái quát về trình tự, thủ tục
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Đề tài “Thứ tự ưu tiên thanh
toán cho các chủ nợ theo pháp luật phá sản 2014” nghiên cứu một vấn đề mang
tính cụ thể hơn, và có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết yêu cầu
4
thanh toán các tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản. Trong khi
pháp luật phá sản ở Việt Nam nói chung cũng như những quy định về thủ tục thanh
lý tài sản nói riêng hiện nay đã có hiệu lực nhưng thực tiễn đòi hỏi những kiến giải
nhằm hoàn thiện và phát huy hơn nữa hiệu lực của nó. Luận văn đạt được những
điểm mới sau đây:
- Luận văn đưa ra khái niệm về thứ tự ưu tiên cho các chủ nợ khi thanh lý tài
sản, các khoản nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán dựa trên cơ sở phân
tích các dấu hiệu pháp lý của thủ tục này, cũng như tham khảo có chọn lọc kinh
nghiệp của các quốc gia trên thế giới có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng với
Việt Nam.
- Luận văn phân tích những nội dung của pháp luật về thứ tự thanh lý tài sản,
các khoản nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, đồng thời chỉ ra một số
quy định còn hạn chế, bất cập trong các văn bản pháp luật hiện hành của nước ta.
- Luận văn đã đánh giá thực trạng áp dụng các quy định về thứ tự ưu tiên
thanh toán cho các chủ nợ, đồng thời đi sâu nghiên cứu những hạn chế, vướng mắc
trong thực tiễn áp dung các quy định về thủ tục này, trên cơ sở đó tìm ra những
nguyên nhân của thực trạng đó.
- Luận văn đề ra một số định hướng cơ bản nhằm hoàn thiện các quy định
pháp luật về thứ tự ưu tiên thanh toán, các khoản nợ của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán. Đồng thời đề xuất, kiến nghị một số giải pháp cụ thể góp phần hoàn
thiện các quy định của pháp luật về thứ tự ưu tiên thanh toán, các khoản nợ của
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài lời nói đầu, mục lục, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu gồm 2 Chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thứ tự ưu tiên thanh toán tài sản cho các
chủ nợ trong thủ tục phá sản.
Chương 2: Thực trạng quy định và giải pháp hoàn thiện pháp luật phá sản về
thứ tự ưu tiên thanh toán cho các chủ nợ.
5
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỨ TỰ ƢU TIÊN THANH TOÁN
TÀI SẢN CHO CÁC CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN
1.1. Khái niệm thanh toán tài sản phá sản
Khi phá sản, các doanh nghiệp, hợp tác xã thuộc đối tượng bị phá sản sẽ phải
thực hiện hoạt động thanh lý tài sản của mình để thanh toán các khoản nợ cho các
chủ nợ có bảo đảm, không có đảm bảo hoặc đảm bảo một phần thì mới có thể rút lui
có trật tự khỏi thương trường.
Có thể nhận thấy sự khác nhau giữa việc thanh lý các tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã phá sản với việc thanh toán tài sản cho các chủ nợ. Theo đó,
thanh lý có thể hiểu là bán tài sản nhằm thu về một khoản tiền hoặc hủy bỏ những
tài sản cố định không dùng nữa, còn thanh toán là việc hoàn tất việc thực hiện một
nghĩa vụ về tài sản của một chủ thể đối với chủ thể khác. Ở trong một vụ việc phá
sản, thanh toán tài sản phá sản được hiểu là việc thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với
các chủ thể có liên quan trong vụ việc phá sản.
Thanh toán tài sản phá sản thực chất là việc doanh nghiệp, hợp tác xã phá
sản thanh lý các tài sản còn lại của mình để thanh toán cho các chủ nợ của mình
theo trình tự và quy định của pháp luật phá sản. Theo đó, việc thanh toán tài sản phá
sản phải đảm bảo mọi nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được
đề cập giải quyết khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, qua đó bảo vệ
đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.
Có thể thấy, thanh toán tài sản phá sản là một hoạt động đặc thù, chỉ phát
sinh trong quan hệ phá sản. Nó có những nét giống và khác so với hoạt động thanh
toán trong giao dịch dân sự và thanh toán trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Điểm giống: Cả thanh toán tài sản phá sản, thanh toán trong giao dịch dân
sự và thanh toán trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đều là hoạt động nhằm
mục đích thu về tiền hoặc các giá trị vật chất khác, và nó dùng để thực hiện các
nghĩa vụ được giao kết giữa các bên.
6
- Điểm khác:
+ Thanh toán tài sản phá sản, thanh toán trong giao dịch dân sự và thanh toán
trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được sử dụng trong các lĩnh vực khác
nhau. Thanh toán tài sản và sản được áp dụng trong quan hệ phá sản, còn thanh toán
trong giao dịch dân sự và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được áp dụng trong
quan hệ dân sự.
+ Thanh toán tài sản phá sản là một hoạt động được áp dụng chỉ khi một
doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản và do chủ thể có thẩm quyền thực hiện theo quy
định của Pháp luật, ở đây là thẩm phán, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh
lý tài sản.
Thanh toán tài sản trong giao dịch dân sự được thực hiện do các chủ thể có
nghĩa vụ thực hiện được quy định trong hợp đồng hoặc do hành vi pháp lí đơn
phương gây ra. Thanh toán tài sản trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do các
chủ thể có trách nhiệm thực hiện do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự nhân phẩm, tài sản hoặc lợi ích hợp pháp của cá nhân hoặc pháp nhân.
1.2. Thủ tục thanh toán tài sản trong thủ tục phá sản
Thủ tục phá sản là một thủ tục tư pháp đặc biệt, một trong những dấu hiệu
đặc biệt chính là cấu trúc đặc thù của thủ tục phá sản. Nếu như tố tụng hình sự, tố
tụng dân sự là một quá trình hoạt động của Tòa án và những người tham gia tố tụng
hình thành từ những giai đoạn nối tiếp nhau, giai đoạn trước là nền tảng cho giai
đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra tính hợp pháp, khắc phục những thiếu sót của giai
đoạn trước thì thủ tục phá sản là một quá trình hoạt động có cấu trúc hoàn toàn
khác. Theo đó, thủ tục phá sản là một thủ tục lớn bao gồm nhiều thủ tục cấu thành
(thủ tục nhỏ) và giữa những thủ tục cấu thành đó có mối liên hệ với nhau theo
những nguyên tắc khác nhau. Tính thứ tự, nối tiếp nhau không phải là yếu tố bắt
buộc giữa các thủ tục cấu thành.
Theo luật phá sản 2014, thủ tục phá sản gồm hai thủ tục chính, đó là thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh và thủ tục tuyên bố phá sản.
7
Trong các thủ tục này, thủ tục thanh toán các khoản nợ là thủ tục cuối cùng,
kết thúc quy trình giải quyết một vụ việc phá sản. Việc các chủ nợ có đòi được các
khoản nợ của mình hay không phụ thuộc vào giai đoạn này của thủ tục phá sản.
Thực chất của việc giải quyết phá sản là việc xử lý mối quan hệ về lợi ích tài
sản giữa các chủ nợ với con nợ. Về cơ bản, thứ tự thanh toán từ tài sản phá sản của
con nợ được pháp luật các nước trên thế giới quy định như sau:
- Các chủ nợ được ưu tiên trên hết gồm: chủ nợ có bảo đảm.
- Các chủ nợ được ưu tiên khác bao gồm tổ chức và cá nhân được hưởng các
chi phí giải quyết phá sản; thuế, tiền công, tiền lương cho người lao động và các chi
phí khác;
- Các chủ nợ được thanh toán theo tỷ lệ. Thông thường, nhóm chủ nợ này
bao gồm các chủ nợ không có đảm bảo của doanh nghiệp phá sản;
- Các chủ nợ được trả chậm, bao gồm người cho vay có thứ tự thanh toán sau
cùng trong một hợp đồng vay hợp vốn (syndicated loan);
- Cổ đông của công ty cổ phần bị phá sản;
Giải quyết nợ theo thủ tục phá sản là việc giải quyết nợ một cách tập thể, sau
khi phá sản thì quan hệ nợ giữa doanh nghiệp bị phá sản và tất cả các chủ nợ sẽ
chấm dứt dù cho doanh nghiệp đó có hay không có đủ tài sản để thanh toán cho các
khoản nợ. Do đó, các chủ nợ nếu làm đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản
doanh nghiệp thì rất có khả năng là họ không thu hồi được nợ hoặc nếu có thu hồi
được thì cũng chẳng đáng là bao vì tài sản của doanh nghiệp mắc nợ thường là còn
rất ít mà chủ nợ thường lại rất đông, thêm vào đó tài sản còn lại của doanh nghiệp
mắc nợ được thanh toán theo thứ tự ưu tiên nên hy vọng được thanh toán rất mỏng
manh. Xuất phát từ bản chất đó của thủ tục phá sản nên theo suy nghĩ của các chủ
nợ thì việc đòi nợ theo thủ tục phá sản là phương thức đòi nợ kém hiệu quả nhất và
chỉ được sử dụng trong trường hợp bất đắc dĩ, khi mà các biện pháp đòi nợ khác
không đạt được hiệu quả. Vì vậy, thông thường, các chủ nợ sau khi gửi giấy đòi nợ
mà không được doanh nghiệp thanh toán thì họ sẽ tự mình tìm các biện pháp khác
để thu hồi nợ mà không nộp đơn yêu cầu ngay. Chính vì vậy cần có một cơ chế giải
8
quyết thích hợp để đảm bảo quyền lợi của các chủ nợ trong quá trình giải quyết phá
sản, khuyến khích các chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.[1]
1.3. Chủ nợ - Chủ thể của quan hệ thanh toán tài sản phá sản
1.3.1. Khái niệm chủ nợ
Theo quy định tại khoản 3, điều 4 luật phá sản 2014, chủ nợ được định nghĩa
là “cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện
nghĩa vụ thanh toán khoản nợ, bao gồm chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo
đảm một phần và chủ nợ có bảo đảm”
Như vậy, khái niệm chủ nợ đã được xác định bởi quyền yêu cầu doanh
nghiệp, hợp tác xã trả nợ, cách hiểu này đã bao hàm được cả những cá nhân, tổ chức
có khoản nợ đối với doanh nghiệp, hợp tác xã phát sinh trước, trong và cả sau khi
có quyết định mở thủ tục phá sản, tránh bỏ sót những chủ thể có quyền và nghĩa vụ
liên quan.
Có thể thấy, các chủ nợ là những người có quyền lợi bị ảnh hưởng nhiều nhất
trong bất kì một vụ phá sản nào. Bởi lẽ họ chính là các nhà đầu tư, quyền và lợi ích
hợp pháp của họ bị ảnh hưởng nhiều nhất khi mà con nợ bị phá sản. Chính điều này
sẽ gây một tâm lý hoang mang cho những người đã, đang và sẽ đầu tư vào doanh
nghiệp. Do đó, chủ nợ được pháp luật quy định các quyền để họ có thể tham gia bảo
vệ lợi ích của mình, tránh tâm lý mạnh ai nấy lo. Về phía doanh nghiệp, phần lớn
các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đều không có đủ tài sản để trả nợ,
chính chủ doanh nghiệp cũng có nguy cơ mất toàn bộ tài sản đã đầu tư vào doanh
nghiệp. Chính vì thế mà họ cũng có tâm lý chung là tìm cách tẩu tán tài sản của
doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp còn câu kết với một số chủ nợ hoặc người
thứ ba nhằm trốn tránh các khoản nợ. Khi đó, các chủ nợ khác sẽ không hưởng
được những quyền lợi mà đáng ra họ được nhận.[2]
Một trong những mục tiêu quan trọng mà pháp luật phá sản hướng đến là bảo
vệ quyền và các lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Về nguyên tắc, trong thủ tục phá
sản, các chủ nợ đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Tuy nhiên, tùy thuộc
vào tính chất của các khoản nợ mà quyền lợi của các chủ nợ cũng khác nhau, từ đó
9
sẽ dẫn đến vai trò của họ cũng khác nhau. Việc phân loại chủ nợ có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc xác định vai trò cũng như trách nhiệm của từng loại chủ nợ ở mỗi
giai đoạn tố tụng phá sản, từ đó góp phần thúc đẩy việc giải quyết phá sản doanh
nghiệp đạt được hiệu quả thiết thực. Để phân loại các chủ nợ, cần dựa vào các tiêu
chí nhất định, cụ thể là căn cứ vào tương quan giữa giá trị tài sản bảo đảm và giá trị
khoản nợ, đây là tiêu chí mà luật phá sản 2014 đã dùng để phân loại chủ nợ, cơ sở
phân loại theo tiêu chí này chính là sự xuất hiện của tài sản bảo đảm của doanh
nghiệp cho khoản nợ của mình, theo đó, chủ nợ được phân làm 2 loại cơ bản: Chủ
nợ có bảo đảm và chủ nợ không có bảo đảm.
1.3.2. Phân loại chủ nợ
Ở hầu hết các quốc gia chủ nợ được chia ra làm hai loại: loại chủ nợ có bảo
đảm và chủ nợ không có bảo đảm. Từ đó pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của
hai loại chủ thể này cũng khác nhau.
Theo luật phá sản có hai nhóm chủ nợ có địa vị pháp lý khác nhau là: chủ nợ
không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm.
Nhóm thứ nhất, nhóm chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần.
Theo khoản 4 điều 4 luật phá sản nước ta “Chủ nợ không có bảo đảm là cá
nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện
nghĩa vụ thanh toán khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã hoặc của người thứ ba”. Pháp luật quy định cho nhóm này có quyền
quyết định những vấn đề quan trọng, ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ nợ và số
phận của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản như: quyền nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền tham gia Hội nghị chủ nợ và biểu quyết những
vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ.
Nợ không có bảo đảm là các khoản nợ không được đảm bảo bằng tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba. Các khoản nợ không có bảo đảm
sẽ được thanh toán nợ theo trình tự và thủ tục được quy định trong luật phá sản.
Việc phân biệt như trên một mặt giúp Tòa án sớm xác định được dấu hiệu phá
sản của doanh nghiệp mắc nợ (khi doanh nghiệp có số nợ không có bảo đảm lớn và
10
không có khả năng thanh toán số nợ đến hạn), mặt khác Tòa án sẽ sớm xác định được
quyền và nghĩa vụ của các chủ nợ, cũng như cách thức xử lý các khoản nợ nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và của doanh nghiệp mắc nợ.
Căn cứ vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ thanh toán, có thể chia thành: Nợ
đến hạn thanh toán và nợ chưa đến hạn thanh toán.
Nợ đến hạn thanh toán là khoản nợ theo đó doanh nghiệp mắc nợ phải có
nghĩa vụ thanh toán ngay cho chủ nợ khi họ có yêu cầu
Nợ chưa đến hạn thanh toán là khoản nợ mà theo đó doanh nghiệp chưa phát
sinh nghĩa vụ thanh toán. Khi giải quyết phá sản, tòa án không được coi các khoản
nợ chưa đến hạn thanh toán là căn cứ để xác định doanh nghiệp đã mất khả năng
thanh toán.
Tuy nhiên, trong trường hợp Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý
đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm mở
thủ tục thanh lý được xử lý như các khoản nợ đến hạn, nhưng không được tính lãi
đối với thời gian chưa đến hạn.
Việc phân biệt nợ đến hạn thanh toán và nợ chưa đến hạn thanh toán giúp
Tòa án có thể xác định chính xác doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn hay chưa. Doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là mất khả năng
thanh toán khi mà doanh nghiệp có các khoản nợ đến hạn, các khoản nợ này là các
khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đã được các bên xác nhận,
có đầy đủ chứng cứ chứng minh các khoản nợ này là có thật và không có tranh
chấp. Đồng thời với đó là chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán nhưng doanh nghiệp,
hợp tác xã không có khả năng thanh toán. Yêu cầu của chủ nợ thanh toán các khoản
nợ đến hạn phải có căn cứ chứng minh là chủ nợ đã có yêu cầu nhưng không được
doanh nghiệp thanh toán.
Nhóm thứ hai, chủ nợ có bảo đảm.
Theo khoản 5 điều 4 luật phá sản nước ta “Chủ nợ có bảo đảm là cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ
thanh toán khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc
11
của người thứ ba”. Nhóm chủ nợ có bảo đảm sẽ luôn được đảm bảo dù có mở thủ
tục phá sản hay không, nên pháp luật quy định họ bị hạn chế một số quyền như
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, không có quyền biểu quyết thông qua
nghị quyết của Hội nghị chủ nợ…
Chủ nợ có bảo đảm là chủ thể của các khoản nợ có bảo đảm. Nợ có bảo đảm
là các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của
người thứ ba. Căn cứ vào thời hạn thanh toán nợ trước thời điểm tòa án thụ lý đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản có nợ đến hạn và nợ chưa đến hạn. Những tài sản này
được đảm bảo dưới hình thức cầm cố, thế chấp, bảo lãnh hoặc các biện pháp đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Trong đó, những biện
pháp được sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất phải kể đến như biện pháp cầm cố, thế
chấp và bảo lãnh. Những quy định trong luật phá sản năm 2004 đã có những bước
tiến bộ hơn so với luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 khi xác định nghĩa vụ tài
sản có đảm bảo không chỉ là khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ mà còn được bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba.
Quy định này đã mở rộng quan niệm với loại nợ này góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của các chủ nợ, đặc biệt là các chủ nợ nhận bảo lãnh.
Luật Phá sản phân biệt chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ có bảo đảm
toàn bộ. Theo khoản 6 điều 4 luật phá sản “Chủ nợ có bảo đảm một phần là cá nhân,
cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ
thanh toán khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc
của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm thấp hơn khoản nợ đó”. Nợ có bảo đảm
một phần là các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm ít hơn khoản nợ đó. Việc xác định rõ
chủ nợ có bảo đảm hay bảo đảm một phần đến nay còn gặp rất nhiều khó khăn mà
nguyên nhân chủ yếu là do sự biến động của giá trị tài sản bảo đảm. Thực tiễn giải
quyết phá sản doanh nghiệp những năm qua cho thấy Tòa án thường lúng túng khi
xác định nghĩa vụ tài sản có bảo đảm bởi giá trị tài sản thường xuyên biến động tăng
lên hoặc hạ xuống. Việc xác định chủ nợ có bảo đảm hay có bảo đảm một phần phải
12
căn cứ vào ý chí của hai bên tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm và căn cứ vào
giá trị tài sản bảo đảm từ thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm và căn cứ vào giá trị tài
sản bảo đảm từ thời điểm chủ nợ yêu cầu doanh nghiệp thanh toán nợ. Nếu tại thời
điểm chủ nợ yêu cầu thanh toán nợ mà giá trị tài sản bảo đảm không đủ để thanh toán
nợ thì khoản nợ đó được coi là nợ có bảo đảm một phần, phần nợ còn lại sẽ được
thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
Các chủ nợ thực hiện quyền của mình thông qua hội nghị chủ nợ. Đây là cơ
quan đại diện cao nhất cho ý chí của các chủ nợ, có quyền quyết định những vấn đề
quan trọng nhất liên quan đến lợi ích của các chủ nợ như: quyết định sẽ áp dụng thủ
tục phục hồi hay áp dụng thủ tục thanh lý, việc chấp nhận phương án phục hồi của
hội nghị chủ nợ sẽ là căn cứ để mở thủ tục phục hồi. Nghị quyết của hội nghị chủ nợ
được thông qua khi có quá nửa số chủ nợ không có bảo đảm có mặt tại Hội nghị đại
diện cho từ hai phần ba trở lên tổng số nợ không có bảo đảm biểu quyết tán thành.
Bên cạnh những quyền trên, các chủ nợ có nghĩa vụ giám sát việc thực hiện
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chấp hành Nghị quyết
của Hội nghị chủ nợ sau khi đã được Tòa án công nhận, kể cả trong trường hợp
không đồng ý với nghị quyết đó.
Ngoài hai nhóm chủ nợ nêu trên, trong quá trình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản đã làm xuất hiện một loại
chủ nợ mới. Luật phá sản 2004 đề cập đến các khoản nợ mới nhưng luật lại không
nói về chủ nợ mới. Luật thừa nhận sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản mọi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn tiến hành bình thường nhưng phải chịu
sự giám sát, kiểm tra của thẩm phán, tổ quản lý tài sản. Điều này có nghĩa là doanh
nghiệp có thể giao kết hợp đồng mới và xuất hiện những chủ nợ mới, các khoản nợ
mới. Đây là sự thiếu lôgic và không chặt chẽ của Luật. Về lý thuyết, các chủ nợ mới
(khác với các chủ nợ cũ - những chủ nợ xuất hiện trên cơ sở các hợp đồng giao kết
trước khi có quyết định mở thủ tục phá sản) phải có quyền được ưu tiên thanh toán
trong mọi trường hợp. Chỉ có như vậy các quy định của Luật về thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới có tính khả thi. Nếu không có sự bảo
13
đảm của luật về quyền ưu tiên thanh toán thì không một chủ nợ nào lại giao kết hợp
đồng với một con nợ đã có quyết định mở thủ tục phá sản và mọi cố gắng phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ là mong
muốn chủ quan của nhà lập pháp mà thôi.
Một vấn đề được đặt ra là: Các chủ nợ mới có quyền tham gia vào danh sách
chủ nợ hay không? Câu hỏi này không được trả lời rõ ràng trong luật. Các chủ nợ có
bảo đảm mặc dù có quyền ưu tiên thanh toán nhưng vẫn phải có tên trong danh sách
chủ nợ để có quyền đòi nợ, có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ. Tuy nhiên theo quy
định tại Điều 51,52 luật phá sản năm 2004, danh sách chủ nợ được lập trong thời
hạn 75 ngày kể từ ngày cuối cùng đăng báo quyết định của tòa án mở thủ tục phá
sản. Sau 13 ngày niêm yết và giải quyết khiếu nại nếu có thì danh sách này được
đóng lại. Trong khi đó doanh nghiệp có quyết định mở thủ tục phá sản vẫn tồn tại,
vẫn hoạt động kinh doanh, vẫn phải ký kết các giao dịch mới, có các chủ nợ mới và
chỉ chấm dứt hoạt động kinh doanh khi có quyết định thanh lý tài sản.
1.4. Đối tƣợng và phạm vi thanh toán tài sản phá sản
Đối tượng của hoạt động thanh toán tài sản phá sản là tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản. Tài sản ở đây được hiểu theo nghĩa chung
nhất gồm động sản và bất động sản. Việc xác định phạm vi khối tài sản của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán có ý nghĩa rất quan trọng, bởi điều này không chỉ
ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ nợ mà còn là cơ sở để tòa án quyết định
phương hướng giải quyết phá sản và có thể tiến hành xử lý nợ một cách triệt để.
Việc xác định khối tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán được quy
định khác nhau ở những quốc gia khác nhau dựa trên tiêu chí như thời điểm tiến
hành các thủ tục giải quyết phá sản, phạm vi không gian tài sản hiện hữu hay nguồn
tài sản…
Theo luật phá sản của Nhật Bản, phạm vi khối tài sản phá sản bao gồm tất cả
các tài sản còn lại của con nợ. Khối tài sản này bao gồm tài sản của con nợ và quyền
phủ nhận về tài sản. Luật phá sản của Nhật Bản quy định “Bất kỳ tài sản nào và tất
cả những tài sản do bên bị phá sản giữ tại thời điểm tuyên bố phá sản” đều thuộc
14
- Xem thêm -