VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HUỲNH NGỌC TÂN
TỔ CHỨC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HUỲNH NGỌC TÂN
TỔ CHỨC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
: 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. BÙI THỊ ĐÀO
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu được sử dụng trong luận văn này có xuất xứ rõ ràng và kết quả
nghiên cứu là do quá trình học tập tích cực và trải qua thực tiễn công tác nhiều
năm tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam của bản thân.
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
thạc sĩ “Tổ chức cơ quan thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Nam” là hoàn toàn trung thực, không trùng lặp với các đề tài
khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn đã
được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của Phó Giáo sư - Tiến sĩ Bùi Thị Đào.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Huỳnh Ngọc Tân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHƯNG VVN ĐỀ LY LUẬN VÀ PHÁP LY VỀ TỔ CHỨC
CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM . 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò tổ chức cơ quan thi hành án dân sự.............6
1.2. Tổ chức cơ quan thi hành án dân sự trước khi có Luật Thi hành án dân sự
13
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức cơ quan thi hành án dân sự...............20
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN TỔ CHỨC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ TỈNH QUẢNG NAM..............................................................................24
2.1. Tổ chức cơ quan thi hành án dân sự theo pháp luật hiện hành................24
2.2. Tổ chức cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam hiện nay..............28
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC
CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG
NAM...............................................................................................................59
3.1. Quan điểm hoàn thiện tổ chức cơ quan thi hành án dân sự.....................59
3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức cơ quan thi hành án dân sự.......................59
KẾT LUẬN....................................................................................................76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHƯ VIẾT TTT
CC
: Cao cấp
CV
: Chuyên viên
CVC
: Chuyên viên chính
SC
: Sơ cấp
TC
: Trung cấp
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Sơ đồ về tổ chức bộ máy của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Nam.................................................................................................................32
Bảng 2.2: Chất lượng đội ngũ công chức năm 2014.......................................37
Bảng 2.3: Chất lượng đội ngũ công chức năm 2015.......................................40
Bảng 2.4: Chất lượng đội ngũ công chức năm 2016.......................................43
Bảng 2.5: Chất lượng đội ngũ công chức năm 2017.......................................46
Bảng 2.6: Chất lượng đội ngũ công chức năm 2018.......................................49
Bảng 2.7: Kết quả thi hành án về việc (2014-2018) Đvt: việc........................52
Bảng 2.8: Kết quả thi hành án về tiền (2014-2018) Đvt: 1.000 đồng.............52
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là hoạt động của Nhà nước nhằm đưa quyết định, bản
án về dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật
nhưng được thi hành ngay, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử
lý vụ việc cạnh tranh liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết,
quyết định của Trọng tài thương mại thi hành trên thực tế. Thông qua thi hành án
dân sự, những phán quyết của Tòa án về mặt dân sự sẽ được thi hành, nhằm bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, của các tổ
chức và bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an ninh chính trị góp phần giữ vững kỷ
cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Sau hai mươi sáu năm kể từ năm 1993 thì nhiệm vụ quản lý và tổ chức thi
hành án dân sự được chuyển từ Tòa án nhân dân sang Chính phủ, cơ quan thi
hành án dân sự đã được hình thành và thực thi nhiệm vụ được giao nhằm đáp
ứng các yêu cầu của Nhà nước, xã hội trong mỗi giai đoạn cụ thể. Kể từ khi được
thành lập đến nay, công tác thi hành án dân sự đã đạt được những kết quả đáng
ghi nhận; hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định của Toà án được bảo đảm
thực hiện, tạo được lòng tin đối với nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự
xã hội, góp phần vào sự phát triển kinh tế, xã hội. Trong đó công tác tổ chức cán
bộ của cơ quan thi hành án dân sự luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm kiện
toàn cả về số lượng lẫn chất lượng; các vụ việc phức tạp, tồn đọng nhiều năm
chưa giải quyết được đã được tổ chức thi hành. Một số vụ án lớn có tính chất
phức tạp, ảnh hưởng lớn về an ninh chính trị, trật tự xã hội cũng đã được Đảng
và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo giải quyết dứt điểm. Kết quả đạt được nêu trên
đã phản ánh được sự cố gắng và hết sức nỗ lực của toàn thể đội ngũ công chức
làm công tác thi hành án dân sự và của cả hệ thống chính trị, sự chỉ đạo, quan
tâm sâu sát của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, của ngành cấp trên và các cấp ủy
Đảng, chính quyền địa phương.
1
Bên cạnh đó, thực trạng quản lý nhà nước về thi hành án dân sự đã bộc lộ
những hạn chế, yếu kém, bất cập về mô hình tổ chức bộ máy, tổ chức cán bộ, cơ
chế điều hành, công tác quản lý thi hành án thiếu tập trung thống nhất, cơ sở vật
chất của các cơ quan thi hành án dân sự vẫn chưa thực sự đầy đủ, hiện đại so với
mặt bằng chung của các cơ quan công quyền ở địa phương và so với yêu cầu
chung của nhiệm vụ đặt ra trong bối cảnh chúng ta đang từng bước hiện đại hóa
nền hành chính quốc gia; hệ thống văn bản pháp luật còn có sự chưa thống nhất
về công tác tổ chức cán bộ. Đây là một trong những yếu tố gây ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả hoạt động trong công tác thi hành án dân sự ở những năm qua
chưa đạt được kết quả như sự mong đợi.
Nhận thức được vấn đề này, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 05
năm 2005 của Bộ Chính trị đã khẳng định: Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính
phủ quản lý nhà nước thống nhất về công tác thi hành án. Tiếp theo đó là Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị đã tiếp tục
khẳng định: Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp
giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án. Vì vậy, việc nghiên cứu
nhằm hoàn thiện các quy định về tổ chức cơ quan thi hành án dân sự có ý nghĩa
cấp thiết trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay và đòi hỏi phải làm
sáng tỏ hơn về mặt lý luận, phân tích, đánh giá những quy định về tổ chức cơ
quan thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng của các quy định này. Trên cơ sở đó
đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục các bất cập, thiếu sót và tiếp tục hoàn
thiện về tổ chức cơ quan thi hành án dân sự trong giai đoạn hiện nay.
Bản thân hiện nay đang công tác tại Bộ phận Văn phòng Cục Thi hành án
dân sự tỉnh Quảng Nam và là người trực tiếp làm công tác thi hành án dân sự ở
địa phương và trên cơ sở xuất phát từ thực tiễn của công tác tổ chức cơ quan thi
hành án dân sự nên tôi chọn nghiên cứu đề tài “Tổ chức cơ quan thi hành án dân
sự theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn
thạc sĩ, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
2
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học đã nghiên
cứu về lĩnh vực thi hành án dân sự như:
- Bộ Tư pháp (2000), Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt
động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới, Đề tài cấp Nhà nước.
- Hoàng Thế Anh (2013), Giám sát thi hành án dân sự, Luận án Tiến sĩ
Luật học tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Cù Hoàng Hanh (2008), Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan
thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận văn Thạc sĩ Luật
học.
- Vũ Thị Như Trang (2013), Chất lượng cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý
tỉnh Tuyên Quang, Luận văn Thạc sĩ Luật học.
- PGS.TS Nguyễn Văn Luyện (2010), Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi
hành án dân sự - Bộ Tư pháp, Thực trạng đội ngũ Chấp hành viên và xây dựng
khung chương trình đào tạo Chấp hành viên theo yêu cầu cải cách tư pháp, Đề tài
khoa học cấp Bộ.
- TS. Nguyễn Thanh Thủy và Ths. Nguyễn Văn Nghĩa, bài viết Tổ chức
hoạt động thi hành án dân sự trước yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp.
Ngoài các công trình nghiên cứu nêu trên, còn có Giáo trình Luật Tố tụng
dân sự, Luật Hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình môn học Khoa học tổ chức của Viện
Xây dựng Đảng - Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các công trình
nghiên cứu, các bài viết được công bố trên sách, báo, tạp chí; một số bài viết liên
quan đến thi hành án dân sự được đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp
chí Dân chủ và pháp luật.... Các công trình nghiên cứu nêu trên có nội dung
nghiên cứu về thi hành án dân sự ở các góc độ, khía cạnh khác nhau, chưa có
công trình nghiên cứu toàn diện về tổ chức cơ quan thi hành án dân sự theo pháp
luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận, thực tiễn về tổ chức cơ quan thi hành án dân sự theo
pháp luật Việt Nam, luận văn nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống về tổ
chức cơ quan thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn của tỉnh
Quảng Nam một cách khách quan, chính xác, góp phần hoàn thiện, nâng cao
hiệu quả công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nói riêng và
công tác thi hành án dân sự Việt Nam nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra vấn đề để giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý về tổ chức cơ quan thi hành
án dân sự theo pháp luật Việt Nam.
- Những vấn đề về thực tiễn, những kết quả đạt được, những hạn chế và
nguyên nhân trong tổ chức cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất những quan điểm và các giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức cơ
quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận, pháp lý và thực
tiễn trong tổ chức cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu bao gồm tổ chức của cơ quan thi hành án dân sự cấp
tỉnh và cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Nam.
Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ khi cơ quan thi hành án dân sự tách và
thành lập (tháng 7/1993), nhưng tập trung nghiên cứu chủ yếu kể từ thời điểm
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm
2009 đến nay.
4
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và
vì dân; chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có lĩnh vực tổ chức
cơ quan thi hành án dân sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: hệ thống, tổng hợp, phân
tích, thống kê, lịch sử, lôgíc, cụ thể, kết hợp với các phương pháp khác như khảo
sát thực tiễn, so sánh…
6. Y nghna lý luận và thcc tiễnn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Thông qua kết quả nghiên cứu, tôi mong muốn đóng góp một phần nhỏ
của mình vào sự phát triển chung của kho tàng lý luận về khoa học thi hành án
dân sự và tổng kết nghiên cứu thực tiễn về tổ chức cơ quan thi hành án dân sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho công tác nghiên cứu, giảng dạy liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức cơ quan
thi hành án dân sự nói chung, cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam nói
riêng và góp một phần vào công cuộc cải cách nền Tư pháp ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục, nội dung của luận văn gồm có 03
chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về tổ chức cơ quan thi hành
án dân sự theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn tổ chức cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện tổ chức cơ quan thi hành án
dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
5
CHƯƠNG 1
NHƯNG VVN ĐỀ LY LUẬN VÀ PHÁP LY VỀ TỔ CHỨC CƠ QUAN THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò tổ chức cơ quan thi hành án dân sc
1.1.1. Khái niệm tổ chức cơ quan thi hành án dân sự
Theo từ điển Luật học thì thi hành án là "giai đoạn kết thúc trình tự tố
tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán
quyết của Tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật" [66, tr.464].
Thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Tòa án
trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa án được hiểu là văn bản pháp lý của Tòa
án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết các vấn đề trong vụ án
hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, hành chính, kinh tế. Việc thực
hiện bản án, quyết định của Tòa án có hiệu quả, một mặt bảo đảm thực hiện
quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã hội và của công dân
đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nước là Tòa án, mặt khác nó là
biện pháp hữu hiệu để bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức
và cá nhân bị xâm hại. Có thể thấy rằng, việc thi hành án là hoạt động làm cho
các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan tài phán khác
được thực hiện trên thực tế.
Về nguyên tắc, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
được những người, đơn vị liên quan, còn gọi là những người được thi hành án,
người phải thi hành án tự nguyện thi hành. Trường hợp các đương sự không tự
nguyện thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì được các cơ quan thi
hành án dân sự thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đưa ra thi hành
đó là bản án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài
sản thu lợi bất chính xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong
bản án, quyết định hình sự; phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của
6
Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải
thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định của Trọng tài
thương mại. Ngoài ra, các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự còn quy
định các bản án, quyết định được cơ quan thi hành án dân sự đưa ra thi hành, bao
gồm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và một số bản án, quyết định
của Tòa án tuy chưa có hiệu lực pháp luật (có thể vẫn bị kháng cáo hoặc kháng
nghị) nhưng vẫn được đưa ra thi hành để bảo vệ quyền, lợi ích cấp thiết của
người được thi hành án đó là bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả công lao động,
trả lương, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc
bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao
động trở lại làm việc và quyết định khẩn cấp tạm thời của Tòa án.
Có thể nói thi hành án dân sự là một giai đoạn độc lập, là giai đoạn kết
thúc của quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bao gồm tổng
hợp các hành vi pháp lý nhằm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, các
quyết định của cơ quan khác do Nhà nước quy định, có những nét đặc trưng
riêng xuất phát từ việc các bản án, quyết định được đưa ra thi hành tuy rất đa
dạng nhưng chủ yếu là những quyết định mang tính tài sản đặc trưng của quan hệ
dân sự, xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự trong
quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự.
Từ sự phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm về thi hành án dân sự là
“hoạt động mang tính hành chính- tư pháp do cơ quan thi hành án, Chấp hành
viên tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để đưa bản án, quyết
định dân sự của Tòa án hoặc các quyết định khác theo quy định của pháp luật,
được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
Đối với tổ chức, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tổ chức là
sản phẩm của con người, là công cụ, điều kiện để con người thực hiện mục đích
của mình trong cải tạo tự nhiên và xã hội. Không có tổ chức, con người chỉ là
những cá nhân đơn lẻ, không có đủ sức mạnh để tồn tại và phát triển trong đấu
7
tranh chống chọi với thiên nhiên và xã hội. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đặc biệt quan
tâm đến vấn đề tổ chức trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, nhất là vấn
đề xây dựng tổ chức đảng cách mạng của giai cấp công nhân.
Kế thừa và phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, qua kinh
nghiệm thực tiễn, V.I.Lê-nin khẳng định: “Trong cuộc đấu tranh giành chính
quyền, giai cấp vô sản không có vũ khí nào khác ngoài tổ chức” [70, tr.7].
Khi đã giành được chính quyền, V.I.Lê-nin cho rằng: “Lĩnh vực trọng yếu
nhất và khó khăn nhất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tổ
chức” [70, tr.7]. Người tha thiết mong muốn có những tác phẩm có giá trị về tổ
chức và quản lý. Người chủ trương: “Mở ngay một cuộc thi soạn hai cuốn sách
giáo khoa, hoặc nhiều hơn nữa, viết về tổ chức công tác nói chung, và đặc biệt là
về công tác quản lý” [71, tr.449].
Đóng góp đầu tiên cho lý luận về tổ chức phải kể đến nhà nghiên cứu P.
M. Kéc-gien-txép với tác phẩm “Những nguyên lý của công tác tổ chức” được
xuất bản năm 1922. Sau khi phân tích quá trình tổ chức một cuộc mít- tinh, ông
đã chia ra 7 yếu tố cơ bản của công tác tổ chức: mục tiêu, loại hình tổ chức,
phương pháp, con người, phượng tiện vật chất, thời gian, kiểm tra.
Ngoài P. M. Kéc-gien-txép, các nhà xã hội học tổ chức khác như V. G. Apha-na-xép với tác phẩm Con người trong quản lý xã hội, V. N. Sê-pen với tác
phẩm “Tâm lý học trong quản lý sản xuất”, E. X. Cu-dơ-min và Gi. p. Vôn- cốp
với “Người lãnh đạo và tập thể”, G. Kh. Pô-pốp với “Tổ chức các quá trình
quản lý”, P. Ge-no với “Tâm lý học quản lý”... đã góp phần hoàn thiện và phát
triển khoa học tổ chức và ứng dụng nó vào thực tiễn đời sống.
Khoa học tổ chức đang phát triển mạnh mẽ và đã có những cống hiến to
lớn trong xã hội hiện đại. Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ở nước ta đang đòi hỏi phải quan tâm nghiên cứu, phát triển khoa học tổ
chức. Việc nghiên cứu nắm vững những vấn đề cơ bản về đối tượng, phương
pháp và sự hình thành, phát triển của khoa học tổ chức là rất quan trọng để có cơ
sở cho việc nghiên cứu phát triển, ứng dụng những thành tựu của khoa học tổ
8
chức ở nước ta.
Qua nghiên cứu có thể thấy rằng có nhiều định nghĩa khác nhau về “tổ
chức”, một định nghĩa có ý nghĩa triết học: “Tổ chức, nói rộng, là cơ cấu tồn tại
của sự vật. Sự vật không thể tồn tại mà không có một hình thức liên kết nhất định
các yếu tố thuộc nội dung. Tổ chức vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật”.
Tổ chức là thuộc tính của sự vật, nói cách khác sự vật luôn luôn tồn tại dưới
dạng tổ chức nhất định.
Luật học gọi tổ chức là pháp nhân để phân biệt với thể nhân (con người) là
các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Theo quy định tại Điều 74 Bộ Luật dân
sự năm 2015 thì một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ những điều
kiện như: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập
với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh
mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Luật học nhấn mạnh đến
các điều kiện thành lập tổ chức, các yêu cầu đảm bảo hoạt động của tổ chức.
Có thể nói, từ khái niệm “thi hành án dân sự” và khái niệm “tổ chức”,
chúng ta có thể hiểu khái niệm về tổ chức cơ quan thi hành án dân sự như sau:
Tổ chức cơ quan thi hành án dân sự là tập hợp các cơ quan được tổ chức thống
nhất từ trung ương đến địa phương với cơ cấu bộ máy và các công chức phù hợp
để thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm tổ chức cơ quan thi hành án dân sự
Từ góc độ tiếp cận về khái niệm của tổ chức cơ quan thi hành án dân sự,
trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án
dân sự có thể thấy tổ chức cơ quan thi hành án dân sự có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tổ chức cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan quản lý hành
chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành - điều hành (đó là những hoạt
động được tiến hành trên cơ sở luật và để thi hành luật) nhằm thực hiện chức
năng quản lý hành chính nhà nước trên lĩnh vực thi hành án dân sự.
Thứ hai, hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự được thành lập từ Trung
9
ương đến cấp huyện (từ Tổng cục Thi hành án dân sự đến Chi cục thi hành án
dân sự các huyện, thị xã, thành phố), tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ
chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức
và hoạt động nhằm thực thi nhiệm vụ thi hành án dân sự.
Thứ ba, các cơ quan thi hành án dân sự đều gián tiếp trực thuộc cơ quan
quyền lực nhà nước cùng cấp, chịu sự giám sát và báo cáo công tác trước cơ
quan quyền lực nhà nước.
Thứ tư, các cơ quan thi hành án dân sự được thành lập và hoạt động dựa
trên quy định của pháp luật, có chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền riêng và có
những mối quan hệ phối hợp trong thực thi công việc được giao với các cơ quan
khác trong bộ máy nhà nước mà quan hệ đó được quy định bởi thẩm quyền nhất
định do pháp luật quy định đó là tổng thể những quyền, nghĩa vụ chung và
những quyền hạn cụ thể mang tính quyền lực, pháp lý mà Nhà nước trao cho để
thực hiện nhiệm vụ, chức năng của Nhà nước.
1.1.3. Vai trò tổ chức cơ quan thi hành án dân sự
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác thi hành án dân sự, kể từ
khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, đặc biệt là từ sau khi Pháp lệnh Thi
hành án dân sự năm 1993 ra đời với việc chuyển giao công tác thi hành án dân sự
từ Toà án nhân dân sang cơ quan thuộc Chính phủ kể từ ngày 01 tháng 7 năm
1993, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về cải cách nền tư pháp nói
chung và trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng như: Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1995); Thông báo số
136-TB/TW ngày 25 tháng 01 năm 1996 của Bộ Chính trị về Đề án tiếp tục đổi
mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp; Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (1997). Đây là những chủ trương,
những định hướng quan trọng ban đầu của Đảng ta về đổi mới tổ chức của các cơ
quan tư pháp, trong đó có việc hoàn thiện thể chế, kiện toàn, nâng cao chất lượng
hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự.
Trên cơ sở Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, hệ thống cơ quan
10
quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự được hình thành từ Trung
ương đến các địa phương trong phạm vi toàn quốc, tách khỏi Toà án nhân dân, tổ
chức hoạt động được độc lập, tạo điều kiện thuận lợi để Toà án nhân dân thực
hiện chức năng xét xử. Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 ra đời là kết quả
của sự tư duy đổi mới về hoàn thiện thể chế pháp lý, kiện toàn bộ máy tổ chức
các cơ quan thi hành án dân sự đã được đề ra trong các văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI, VII của Đảng. Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 đã
tạo ra bước ngoặt về tổ chức của các cơ quan thi hành án dân sự ở nước ta, đưa
công tác thi hành án dân sự sang một giai đoạn phát triển mới nhằm đáp ứng với
yêu cầu nhiệm vụ chung.
Có thể nói hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án dân sự có vai trò hết sức
quan trọng, được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, hệ thống tổ chức thi hành án dân sự không ngừng được nâng
cao, phát triển đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt
động của tổ chức và thực hiện quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự.
Thứ hai, phát huy vai trò quản lý nhà nước của các cơ quan tư pháp và Ủy
ban nhân dân các cấp trong công tác thi hành án dân sự. Tăng cường nhiệm vụ,
quyền hạn của Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự. Mặc dù
trong thời gian qua về cơ bản hệ thống tổ chức của các cơ quan thi hành án dân
sự từ trung ương đến địa phương đã thực hiện tốt các chức năng, vai trò của
mình trong lĩnh vực thi hành án dân sự, tuy nhiên so với yêu cầu đặt ra thì nhiệm
vụ, quyền hạn của các cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên chưa tương
xứng với yêu cầu thực tiễn của công tác thi hành án dân sự. Chính vì vậy, Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 05 năm 2005 của Bộ Chính trị đã đặt ra yêu
cầu phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tư pháp phù hợp với mục tiêu, định hướng của chiến lược cải cách tư
pháp. Ngoài ra, so với Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 thì
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị đã gián
tiếp đề cập một cách rõ ràng hơn phạm vi các cơ quan tư pháp ở nước ta
11
được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả cơ quan thi hành án dân sự. Nằm trong
mục tiêu chung phải tăng cường trách nhiệm, hiệu quả hoạt động của các cơ
quan tư pháp bao gồm cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Toà án thì các cơ quan
thi hành án dân sự cũng được bổ sung thêm nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan
trọng.
Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014, hệ
thống tổ chức thi hành án dân sự đã được thiết lập theo hệ thống dọc từ trung
ương đến địa phương do Bộ Tư pháp là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính
phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước. Ở
địa phương thì cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có trách nhiệm giúp Uỷ ban
nhân dân cùng cấp thực hiện công tác quản lý về thi hành án dân sự, báo cáo
công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân cùng cấp khi có yêu cầu,
ngoài ra phải báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự với cơ quan
quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp. Ở cấp huyện cũng tương tự, cơ
quan thi hành án dân sự có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực
hiện công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, báo cáo công tác thi hành
án dân sự trước Hội đồng nhân dân cùng cấp khi có yêu cầu, ngoài ra phải báo
cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án trước cơ quan thi hành án dân sự cấp
tỉnh và theo quy định của pháp luật. Khác với quy định của Pháp lệnh Thi hành
án dân sự năm 2004, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật Thi hành án dân
sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 không quy định trách nhiệm của cơ quan thi hành
án dân sự trước các cơ quan tư pháp cùng cấp như Sở Tư pháp và Phòng Tư
pháp mà quy định trách nhiệm tham mưu, giúp việc trực tiếp của cơ quan thi
hành án dân sự đối với Uỷ ban nhân dân cùng cấp.
Tuy nhiên, việc cơ quan thi hành án dân sự thực hiện chế độ báo cáo và
chịu sự chỉ đạo của chính quyền, cấp uỷ địa phương không có nghĩa là không
bảo đảm tính độc lập trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân
sự. Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân các cấp trong công tác thi hành
án dân sự theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật Thi hành
12
án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 cũng đã có sự sửa đổi, bổ sung cho phù
hợp với tình hình mới. Uỷ ban nhân dân các cấp không chỉ đạo, cho ý kiến về
mặt chuyên môn, nghiệp vụ chuyên sâu về trình tự, thủ tục thi hành án, không
can thiệp về nghiệp vụ vào quá trình tổ chức thi hành án của các cơ quan thi
hành án dân sự mà ngược lại Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm chỉ đạo việc tổ
chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh,
chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự cùng cấp. Qua đây thể hiện được vai trò hết sức quan
trọng của tổ chức cơ quan thi hành án dân sự.
Thứ ba, tổ chức cơ quan thi hành án dân sự có vai trò hết sức quan trọng
trong việc bảo đảm an ninh, chính trị, kỷ luật, kỷ cương và tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, góp phần vào phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của nhân dân và tổ chức cơ quan thi hành án dân sự là một bộ
phận không thể thiếu được trong quá trình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay.
1.2. Tổ chức cơ quan thi hành án dân sc trước khi có Luật Thi hành
án dân sc
* Giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1980
Sau ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945, để khẳng định sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước đối với công tác xét xử và công tác thi hành án dân sự, ngày
24 tháng 01 năm 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 13/SL quy
định về tổ chức của các Tòa án, các ngạch Thẩm phán, trong đó tại Khoản 3,
Điều 3 của Sắc lệnh số 13/SL đã quy định: Ban Tư pháp xã có quyền “Thi hành
những mệnh lệnh của các Thẩm phán cấp trên” và đây chính là văn bản pháp lý
đầu tiên đánh dấu sự ra đời về tổ chức, hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
trong chế độ mới; ngày 19 tháng 7 năm 1946 Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 130/SL quy định về thể thức thi hành mệnh
lệnh hoặc bản án của Tòa án; có thể thấy rằng đây là văn bản của Chính phủ Việt
13
Nam dân chủ cộng hòa quy định riêng về công tác thi hành án về thẩm quyền,
thể thức thi hành bản án.
Theo quy định tại các văn bản nêu trên, từ năm 1946 đến năm 1950 hoạt
động thi hành án dân sự đã trở thành một lĩnh vực công tác của ngành Tư pháp,
do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã -một tổ chức, đơn vị của chính quyền cách
mạng, gắn liền với Toà án và hoạt động xét xử thực hiện. Việc thi hành án dân sự
thể hiện quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế. Trong
thời kỳ này, mặc dù cơ cấu tổ chức còn rất đơn giản, số lượng cán bộ ít, nghiệp
vụ còn nhiều hạn chế, song Ban Tư pháp xã và Thừa phát lại đã có nhiều cố gắng
trong việc thi hành những bản án, mệnh lệnh của Thẩm phán, góp phần bảo đảm
pháp chế của Nhà nước Cách mạng Việt Nam và đã đặt nền móng cho công tác
thi hành án dân sự sau này.
Từ năm 1950 đến năm 1960, công tác thi hành án dân sự có một sự thay
đổi lớn về cơ chế quản lý, tổ chức hoạt động, ngày 22 tháng 5 năm 1950, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về “cải cách bộ máy tư pháp và luật tố
tụng”. Điều 19 của Sắc lệnh số 85/SL quy định: “Thẩm phán huyện dưới sự kiểm
soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường
hay bồi hoàn và các án hộ, mà chính Tòa án huyện hay Tòa án trên đã tuyên”.
Theo quy định này việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã
thực hiện trước đây được giao cho Thẩm phán huyện thực hiện dưới sự chỉ đạo
trực tiếp của Chánh án. Sắc lệnh này đã giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án dân sự
cho một cơ quan cấp huyện thay vì cơ quan cấp xã như trước đây, việc này cho
thấy vai trò, vị trí của công tác thi hành án dân sự ngày càng được nâng cao.
Năm 1960, công tác thi hành án tiếp tục có thêm bước phát triển mới đó là trên
cơ sở Hiến pháp năm 1959, Điều 24 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 đã
quy định “Tại các Toà án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm
nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định dân sự, những khoản xử về bồi
thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình sự”. Như vậy, thay bằng quy
định Thẩm phán vừa thực hiện công tác xét xử, vừa kiêm nhiệm công
14
- Xem thêm -