Mục lục
A. Đặt vấn đề...................................................................................................2
B. Đặc điểm cơ bản.........................................................................................2
I. Nguồn gốc lịch sự của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa........................2
1.1. Tóm tắt về quá trình phát triển của Luật lục địa thông qua 03 giai
đoạn...3
1.2. Sự phát triển phát triển pháp luật ra ngoài châu Âu..........................5
II. Hình thức pháp luật của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa.....................6
2.1.
Giai đoạn pháp luật tập quán: từ khi hình thành đến thế kỷ XIII.....6
2.2.
Giai đoạn pháp luật thành văn...........................................................7
III. Sự phân chia luật công và luật tư của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa.
...........................................................................................................................8
3.1.
Phân chia cấu trúc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa thành lĩnh
vực luật công và luật tư...............................................................................8
3.2.
Lịch sử phân chia luật công và luật tư..............................................9
3.3.
Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tế..................................................13
IV. Mối quan hệ giữa luật thực chất và luật nội dung của hệ thống pháp luật
châu Âu lục địa................................................................................................15
V. Vai trò làm luật của thẩm phán ở hệ thống pháp luật châu Âu lục địa.......17
VI. Mức độ pháp điển hóa của hệ thống châu Âu lục địa..............................18
C. Sự ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Xã hội chủ nghĩa với các hệ thống
pháp luật khác..................................................................................................25
D. So sánh với các đặc trưng của hệ thống pháp luật Việt Nam....................28
1
2
A.
Đặt vấn đề.
Khi nghiên cứu so sánh pháp luật, chúng ta thường tập trung chủ yếu ở
ba khía cạnh: hệ thống pháp luật đó là hệ thống như thế nào? Thuộc truyền
thống pháp luật nào? Nền kinh tế nước sở tại phát triển ra sao? 1 Trong đó, một
trong những vấn đề chúng ta quan tâm, đó là: Hệ thống pháp luật chúng ta
đang nghiên cứu thuộc truyền thống pháp luật nào, khi mà trên thế giới hiện
nay tồn tại rất nhiều truyền thống pháp luật khác nhau (La Mã, XHCN, Anh
cổ, Đạo Hồi, Indu...). Một khi xác định được nguồn gốc lịch sử của hệ thống
pháp luật - tức truyền thống pháp luật mà hệ thống pháp luật bị ảnh hưởng,
chúng ta sẽ dễ dàng hơn trong việc tìm hiểu, phân tích, so sánh cũng như tìm
ra những mối liên hệ xung quanh hệ thống pháp luật đó.
Hiện nay, hệ thống pháp luật châu Âu lục địa được coi là hệ thống pháp
luật lớn trên thế giới, tồn tại ở rất nhiều nước lục địa châu Âu có thể kể đến
như: Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Áo, Bỉ, Lúc - xăm - bua,
Hà Lan, Thụy Sĩ, Scotland, phần lớn các nước châu Phi, hầu hết các nước
châu Mỹ La Tinh, các nước phương Đông kể cả Nhật Bản. Phần trình bày
dưới đây đề cập đến các yếu tố liên quan đến sự hình thành và phát triển của
Luật La Mã, sự ảnh hưởng của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa với các hệ
thống pháp luật khác và so sánh hệ thống pháp luật châu Âu lục địa với các
đặc trưng của hệ thống pháp luật Việt Nam.
B.
I.
Đặc điểm cơ bản.
Nguồn gốc lịch sự của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa.
Trước tiên, phải khẳng định rằng: hệ thống pháp luật châu Âu lục địa có
nguồn gốc lịch sử xuất xuất phát từ Luật La Mã.
Như đã đề cập ở phần đặt vấn đề, trên thế giới tồn tại rất nhiều truyền
thống pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, trong số đó, có hai truyền thống pháp
luật có tính chất kinh điển và ảnh hưởng lớn nhất đối với không chỉ hệ thống
pháp luật các quốc gia mà còn với cả các truyền thống pháp luật khác nữa, đó
1 Xem “Chuyên đề về luật so sánh” của Viện nghiên cứu khoa học pháp lí - Bộ tư pháp, tr 38.
3
chính là truyền thống luật án lệ2 và truyền thống luật lục địa3. Sở dĩ nhóm đề
cập đến vấn đề này, bởi một trong hai truyền thống pháp luật đó có sự ảnh
hưởng trực tiếp tới hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, đó là: truyền thống
Luật lục địa.
Truyền thống Luật lục địa cũng trải qua quá trình hình thành và phát
triển, xâm nhập và ảnh hưởng đến các nước, góp phần hình thành nên các hệ
thống pháp luật như hiện nay. Để tìm hiểu vấn đề nguồn gốc lịch sử của hệ
thống pháp luật châu Âu lục địa, trước hết cần có hiểu biết về quá trình hình
thành và phát triển của luật La Mã. Vấn đề này sẽ được tìm hiểu qua những
phần sau đây:
1.1. Tóm tắt về quá trình phát triển của Luật lục địa thông qua 03
giai đoạn.
1.1.1. Giai đoạn pháp luật tập quán.
Luật lục địa có nghĩa đen là “công dân của nước Ý”, của thành phố
Roma. Vào thời kì đế chế La Mã (trước Công nguyên), tức là khi thuật ngữ
này ra đời, nó chỉ được áp dụng cho công dân thành phố Roma. Nhưng, đế
quốc La Mã vốn dĩ được biết đến như một nền văn minh trải dài từ Địa Trung
Hải đến Biển Bắc, từ Bizantin đến Bretani 4. Trong giai đoạn phát triển, đế
quốc La Mã đã tiến hành xâm lược và biến hầu hết các bộ tộc trong khu vực
Tây Âu lục địa trở thành thuộc địa của mình với chính sách đô hộ kéo dài
trong suốt 04 thế kỉ. Quá trình đô hộ đã kéo theo sự du nhập và ảnh hưởng sâu
sắc của Luật lục địa (sau này được biết đến phổ biến với tên Luật La Mã) đến
khu vực này. Tuy nhiên, đến năm 476, các nhà lãnh đạo Odoacer của Đức tổ
chức một cuộc nổi dậy lật đổ sự thống trị của Hoàng đế Romulus Augustulus.
Từ đó trở về sau, không có hoàng đế La Mã nào cai trị ở vùng đất Italy. Năm
2 Thuật ngữ tiếng Anh là “Common Law”.
3 Thuật ngữ tiếng Anh là “Civil Law”.
4 Xem Giáo trình Tư pháp quốc tê, trường Đại học Luật TP.HCM 2010, tr 48.
4
476 được coi là năm đế chế Tây La Mã tan rã và sụp đổ5. Trong khi đó, đế chế
Đông La Mã vẫn còn tồn tại. Đến năm 528, hoàng đế Đông La Mã Justinian
đã ra lệnh hệ thống hóa và củng cố luật La Mã, và đã tạo nên được công trình
pháp luật lớn mang tên Corpus Juris Civilist. Đây được coi là một trong
những tiền đề đầu tiên ảnh hưởng đến việc hình thành hệ thống pháp luật châu
Âu lục địa.
Mặc dù giai đoạn này có xuất hiện pháp luật, nhưng pháp luật vẫn được
đánh giá là còn khá giản đơn, lẫn lộn giữa quy phạm đạo đức, tôn giáo. Đặc
biệt, khi đế quốc La Mã hoàn toàn sụp đổ, luật La Mã gần như là biến mất,
thay vào đó là sự trỗi dậy của nhà nước hồi giáo, các bộ tộc, bộ lạc. Điều này
đánh dấu sự quay trở lại của tập quán; nhà vua sử dụng thuyết thần quyền,
luật nhà thờ, tôn giáo để cai trị. Kể từ khi đế quốc La Mã tan rã, hệ thống
pháp luật của các quốc gia ở châu Âu trở nên rời rạc, không thống nhất, sử
dụng nhiều nguồn luật khác nhau để điều chỉnh các quan hệ xã hội, trong đó
luật tập quán đóng vai trò như một nguồn luật chủ yếu. Luật La Mã chỉ được
phát triển một cách rất hạn chế.
1.1.2. Giai đoạn phát triển luật thành văn.
Dưới sự phát triển rầm rộ của thương mại và các cơ hội giao lưu giữa
các dân tộc châu Âu lục địa, các nhà tư tưởng đã bước đầu nhận thấy được vai
trò và tầm quan trọng của luật La Mã, muốn những giá trị đích thực của nó
được phục hưng trước khi bị chìm vào quên lãng. Mãi tới năm 1906, luật La
Mã được phát hiện trở lại tại Thư viện Đại học Bologna. Đến khoảng thế kỉ
thứ 13, các quốc gia châu Âu lục địa mới nhìn nhận lại vai trò của luật La Mã.
Các trường Đại học, mà đầu tiên là trường Đại học Bologna đã tiến hành bình
chú Luật La Mã cũng như các bản án sử dụng Luật La Mã trước đây. Kể từ
5 Đế quốc La Mã, Bách khoa toàn thư Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%BF_qu%E1%BB%91c_La_M%C3%A3
5
đó, các quốc gia này đã hình thành nên một truyền thống pháp luật lớn trên
thế giới với những đặc điểm riêng có như: lấy pháp luật thành văn là nguồn
luật chủ yếu và quan trọng để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội; pháp luật có
sự phân chia thành luật công và luật tư một cách rõ nét 6. Ngoài ra, trong quá
trình nghiên cứu và đưa vào giảng dạy, các nhà tư tưởng, giáo sư, nhà nghiên
cứu cũng đưa ra những sự thay đổi để Luật La Mã phù hợp hơn với thực tiễn
cuộc sống.
Từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVIII, trong quá trình khoảng 5 thế kỉ nghiên
cứu, giảng dạy luật La Mã nhằm đào tạo các chuyên gia pháp luật, các trường
đại học châu Âu đã có những đóng góp lớn trong việc xây dựng một hệ thống
pháp luật chung cho lục địa châu Âu.7
1.1.3.
Giai đoạn pháp điển hóa pháp luật và phát triển mở
rộng ra ngoài lục địa châu Âu.
Giai đoạn này đánh dấu sự ra đời của rất nhiều văn bản pháp luật quan
trọng của những nước lớn, từ đó đánh dấu sự phát triển và lan rộng của luật
La
Mã.
Đầu tiên, chúng ta phải nhắc đến Bản tuyên ngồn nhân quyền và dân
quyền năm 1789 của Pháp. Những quy đinh cơ bản của Bản tuyên ngôn nổi
tiếng này đã trở thành những nguyên tắc cơ bản của các bản hiến pháp của các
quốc gia lục địa châu Âu và các nước khác trên thế giới 8. Hơn nữa, Pháp là
nước có nhiều thuộc địa ở Bắc Phi, Trung Phi, Tây Phi, Đông Nam Á, Nam
Mỹ nên pháp luật của nước này đã vượt ra ngoài lãnh thổ châu Âu và vươn tới
châu Phi, châu Á và Nam Mỹ.
6Tài liệu hướng dẫn học tập Luật so sánh, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr 76,77.
7 Giáo trình Luật so sánh, Đại học Luật Hà Nội, tr 106.
8 Giáo trình Luật so sánh, Đại học Luật Hà Nội, tr 112.
6
Một hệ thống pháp luật nữa cũng có sức ảnh hưởng rộng và đóng vai
trò quan trọng dẫn đến sự lan tỏa của luật La Mã, đó chính là Pháp luật nước
Đức. Cũng giống như nước Pháp, pháp luật của nước Đức cũng có sự lan tỏa
đến các nước thuộc địa của mình; ngoài ra còn ảnh hưởng đến nhiều các quốc
gia khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Hi Lạp và một phần Trung
Quốc.
1.2. Sự phát triển phát triển pháp luật ra ngoài châu Âu.
Bắt nguồn từ việc rất nhiều các quốc gia khu vực Tây Âu (Pháp, Bỉ,
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha...) có nhiều thuộc địa ở các khu vực khác trên thế
giới nên nó đã tạo điều kiện vô cùng thuận lợi để luật La Mã phát triển sang
các châu lục khác; từ đó tạo sức ảnh hưởng gián tiếp để hình thành nên các hệ
thống pháp luật các trên thế giới.
Tóm lại là, khoảng từ thế kỉ thứ XIII đến thế kỉ thứ XVIII, dưới sự ảnh
hưởng sâu rộng của Copus Juris Civilis, hệ thống pháp luật chung của lục địa
châu Âu đã được ra đời. Tuy nhiên, nó được thể hiện đã dạng ở các nước châu
Âu khác nhau, nhưng tổng thể vẫn hài hòa, có những điểm đặc trưng riêng
biệt, hoàn toàn khác so với Common Law của nước Anh. Thông qua các giai
đoạn trên, chúng ta có thể phần nào lí giải được nguồn gốc lịch sử hình thành
nên hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Từ đó, chúng ta sẽ dễ dàng hơn trong
việc nghiên cứu các đặc trưng cơ bản của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa.
II.
Hình thức pháp luật của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa.
Do chịu ảnh hưởng sâu sắc của học thuyết phân chia quyền lực nên
không thừa nhận vai trò lập pháp của các cơ quan xét xử. Các luật gia Châu
Âu hầu như tương đối thống nhất rằng lập pháp là hoạt động của Nghị viện,
Tòa án là cơ quan áp dụng luật để xét xử chứ không phải bằng hoạt động xét
xử mà tạo ra luật. Do đó, trong hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa thì luật
thành văn là nguồn luật độc tôn trong thời gian rất dài. Trong khi đó, án lệ là
hình thức pháp luật không khuyến khích phát triển, chỉ áp dụng một cách hạn
7
chế để khắc phục những hạn chế của pháp luật thành văn. Bên cạnh những
nguồn luật nói trên thì hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa còn có những
nguồn luật khác như: tập quán pháp luật, học thuyết, các nguyên tắc chung
của pháp luật. Mặc dù, luật thành văn là nguồn luật giữ vai trò quan trọng
trong thời gian dài, nhưng cũng có thời kỳ tập quán pháp giữ vai trò quan
trọng hơn luật thành văn. Cụ thể, nhóm thuyết trình sẽ tìm hiểu những giai
đoạn phát triển về hình thức pháp luật trong hệ thống pháp luật Châu Âu lục
địa:
2.1. Giai đoạn pháp luật tập quán: từ khi hình thành đến thế kỷ
XIII.
Tập quán pháp là những quy tắc xử sự hình thành một cách tự phát tồn
tại từ lâu đời, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trở thành thói quen
tự nhiên và mang tính bắt buộc chung cũng như quy phạm pháp luật.
Pháp luật được hình thành từ các tập quán địa phương vì vậy nó còn
mang tính biệt lập, phân tán, thiếu thống nhất giữa các nước. Ví dụ: tập quán
của Pháp, Đức, các dân tộc Slavia, Luật La Mã.
Các bộ tộc ở Tây Âu bị La Mã đô hộ do đó luật La Mã có ảnh hưởng
lớn ở đây với việc sử dụng bộ luật, hệ thống luật lệ gọi là Code, Digest,
Institutes, Novel.
Nhìn chung, giai đoạn này pháp luật còn giản đơn, còn lẫn lộn giữa các
quy phạm đạo đức, tôn giáo và pháp luật. Luật pháp chịu sự ảnh hưởng sâu
sắc của các tư tưởng tôn giáo, nhiều quốc gia lấy luật lệ nhà thờ làm tôn giáo,
cùng với trình độ dân trí còn thấp, điều kiện xã hội chưa phát triển, do đó các
văn bản pháp luật còn chưa được hoàn chỉnh và kỹ thuật xây dựng chưa cao,
nguồn luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giai đoạn này chủ yếu là tập quán
pháp.
8
Tập quán pháp chia làm 3 loại:
i)
Tập quán pháp áp dụng đương nhiên: là những tập quán mà nhà
nước và xã hội thừa nhận một cách phổ biến.
ii)
Tập quán áp dụng theo sự dẫn chiếu của pháp luật.
Ví dụ: trong BLDS Napoleon tại Điều 645, 663,671, 672 dẫn chiếu việc
áp dụng tập quán đía phương trong các lĩnh vực sở hữu đất đai, nước,..
iii)
Tập quán trái pháp luật: một số tập quán trái pháp luật nhưng vì
các tập quán đó rất phổ biến trong xã hội nên nhà nước buộc phải thừa nhận.
2.2. Giai đoạn pháp luật thành văn:
Cuối thế kỷ XII các thành phố ở Châu Âu phát triển, nhu cầu giao lưu,
các hoạt động thương mại phát triển, do đó tạo ra nhu cầu phân biệt tôn giáo,
đạo đức, pháp luật. Sau đó, từ thế kỷ XIII – XIV phong trào văn hóa Phục
Hưng bắt đầu từ Ý và lan ra các nước Châu Âu lục địa, sự ra đời và thắng lợi
của trường phái pháp luật tự nhiên cũng như thắng lợi của các cuộc cách
mạng tư sản, các đạo luật đã trở thành công cụ duy nhất cho việc xây dựng
một hệ thống pháp luật thống nhất.
Các trường đại học có vai trò quan trọng trong việc hình thành hệ thống
pháp luật ở lục địa Châu Âu. Các giáo sư đã giảng dạy theo pháp luật La Mã
cổ đại. Bằng cách đó các trường đại học đã đào tạo ra đội ngũ thẩm phán, luật
sư, luật gia có cùng tư duy pháp lý theo tinh thần của luật La Mã cũ, từ đó tạo
điều kiện xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất ở Châu Âu.
Nguồn luật thành văn bao gồm:
i)
Hiến pháp: đạo luật cơ bản của nhà nước, là văn bản có hiệu lực
pháp lý cao nhất do Nghị Viện ban hành theo thủ tục, trình tự luật định.
ii)
Các Điều ước quốc tế: ký kết không trái với Hiến pháp quốc gia.
Ví dụ: pháp luật Pháp, Hà Lan quy định công ước quốc tế có giá trị
pháp lý cao hơn nội luật.
Hầu hết các nước đều quy định công ước quốc tế có giá trị pháp lý thấp
hơn Hiến pháp và cao hơn các đạo luật của quốc gia.
9
iii)
Bộ luật: lúc mới ra đời bộ luật có nghĩa là tuyển tập những đạo
luật khác nhau. Vào thời phong kiến, bộ luật là một văn bản tổng hợp, trình
bày có hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội như
hình sự, dân sự, hành chính, thương mại,...
Ví dụ: bộ luật 1683 của Đan Mạch, bộ luật 1687 của Na Uy,…
Luật: là văn bản quy phạm pháp luật do Nghị Viện ban hành theo trình
tự, thủ tục nhất định và phải được đa số Nghị sỹ ở 2 viện bỏ phiếu tán thành.
Sắc lệnh: do Tổng Thống ban hành có hiệu lực thấp hơn luật.
Ngoài ra còn có Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư,...
Học thuyết mặc dù không phải là nguồn luật chính nhưng nó có vai trò
tạo ra ngân hàng các khái niệm và tư duy pháp lý để các nhà lập pháp sử
dụng.
Mặc dù, hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa theo hình thức luật thành
văn, nhưng do luật bất thành văn có những hạn chế nhất định, do đó án lệ
cũng được các quốc gia minh thị thừa nhận. Tuy nhiên, đa số các quốc gia
không coi án lệ là nguồn luật có giá trị áo dụng, mà chỉ mang tính chất tham
khảo nhằm mục đích thống nhất cách thức giải thích và áp dụng đối với luật
thành văn. Do đó, án lệ phụ thuộc chặt chẽ vào luật thành văn.
Như vậy, khác với hệ thống pháp luật thông luật thì hệ thống pháp luật
Châu Âu lục địa lại có hình thức pháp luật thành văn, ở đó các văn bản quy
phạm pháp luật có vai trò quan trọng, là nguồn luật chủ yếu. Trong khi đó, án
lệ chỉ là là nguồn luật mang tính chất tham khảo, nhằm bổ khuyết những hạn
chế của luật thành văn.
III.
Sự phân chia luật công và luật tư của hệ thống pháp luật châu Âu
lục địa.
3.1. Phân chia cấu trúc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa thành
lĩnh vực luật công và luật tư.
10
Ở các nước thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil Law),
pháp luật mỗi quốc gia theo truyền thống thường được phân chia thành luật
công (public law – droit public – öffentliches Recht) và luật tư (private law –
droit privé – Privatrecht).
Luật công: Là các quan hệ pháp luật mà 1 bên là nhà nước, 1 bên là các
chủ thể trong xã hội, mang tính mệnh lệnh, bắt buộc.
Luật tư là quan hệ pháp luật giữa các cá nhân, tổ chức với nhau trong
xã hội mang tính thỏa thuận, bình đẳng…
Nguyên nhân dẫn đến sự phân chia bao gồm:
i)
Bắt nguồn từ Luật La Mã: Đế chế La Mã đề cao luật tư, điều
chỉnh chế định hợp đồng. Trong khi các nước châu Á xem trọng luật công.
ii)
Do chế độ phong kiến của châu Âu lục địa là phân quyền cát cứ:
Chế độ phong kiến ở Châu Âu quyền lực không chỉ trong tay vua mà còn
phân chia cho các quý tộc và các tầng lớp khác, từ đó hình thành ý thức dân
chủ, phân chia rạch ròi công tư.
iii) Ảnh hưởng phong trào văn hóa phục hưng: Khi nhà nước La Mã
còn tồn tại, đã ban hành rất nhiều chính sách tốt cho người dân. Sau khi đế
chế La Mã sụp đổ, thời kỳ Đêm trường trung cổ ở Châu Âu kéo dài. Sau đó
thời kỳ phục hưng khôi phục lại những hưng thịnh của xã hội. Trường phái
pháp luật Tự nhiên ra đời. Người ta quan niệm rằng: Có 1 loại pháp luật mà vị
trí của nó được đặt cao hơn Luật do nhà nước ban hành. Chính sự thắng thế
của Luật tự nhiên đã tác động rất lớn đối với việc phân chia thành luật công,
luật tư.
Bắt đầu từ TK XVII- XVIII, Châu Âu phân chia rành mạch luật công
và tư. Thậm chí còn phân chia thành nhánh tòa Tư pháp và Nhánh tòa Hành
chính.
11
3.2. Lịch sử phân chia luật công và luật tư.
3.2.1. Học thuyết dựa trên cơ sở lợi ích (Interresentheorie).
Tư tưởng, học thuyết phân chia luật công và luật tư đã có rất sớm từ
thời La Mã cổ đại. Nhà triết học Cicero từ thế kỷ I TCN đã đưa ra quan điểm
rằng pháp luật gồm có hai bộ phận cấu thành gồm: những qui định pháp luật
điều chỉnh các quan hệ cá nhân (Ius privatum) và những qui định pháp luật
điều chỉnh các quan hệ công (Ius publicum).9
Đến thế kỷ II SCN, nhà luật học La Mã Ulpian (170 -228 SCN) đã đưa
ra học thuyết phân chia giữa luật tư (Ius civile) và luật công (Ius publicum)
dựa trên cơ sở lợi ích (hay còn gọi là học thuyết lợi ích – Interessentheorie).
Học thuyết này phân biệt: Luật công liên quan đến lợi ích của nhà nước và lợi
ích công cộng, luật tư liên quan đến lợi ích của cá nhân.10
Điểm hạn chế của học thuyết này là: Nếu chỉ dựa vào yếu tố lợi ích để
phân chia luật công và luật tư thì có nhiều điều chưa ổn. Vấn đề nằm ở chỗ
thế nào là lợi ích công và thế nào là lợi ích tư? Có thể phân biệt được rạch ròi
không? Hơn nữa, thực tế nhiều vấn đề pháp lý thuộc luật công lại liên quan
đến cả lợi ích tư và ngược lại. Ví dụ chế định quyền cơ bản của công dân
(Grundrechte) là một chế định của luật công, thuộc lĩnh vực Luật nhà nước.
Tuy nhiên thực tế những quyền cơ bản được qui định trong Luật cơ bản của
Đức có mục đích chính là bảo vệ lợi ích tư, lợi ích của công dân. Hoặc một bể
bơi, một trường tư trong thành phố được thành lập mặc dù dưới tên gọi là
9 Meder, Rechtsgeschichte, 2. Aufl. 2005, S. 84f.
10 Nguyên bản Tiếng la tinh "Publicum ius est quod ad statum rei Romanae spectat, privatum quod ad
singulorum utilitatem". Dịch sang Tiếng Đức: "Öffentliches Recht ist das, was sich auf die Ordnung des
römischen Staates bezieht, Privatrecht das, was sich auf die Interessen der Einzelnen bezieht". (Nguồn:
Schmoeckel/ Stolte, Examinatorium Rechtsgeschichte, 2008, S. 139). Dịch sang Tiếng Việt: Luật công là luật
liên quan đến trật tự của nhà nước La Mã, luật tư là luật liên quan đến lợi ích của cá nhân (NMT).
12
công ty hoạt động theo luật tư nhưng mục đích chính của công ty lại là vì lợi
ích công cộng.11
3.2.2.
Học
thuyết
quan
hệ
giữa
các
chủ
thể
(Subjektionstheorie).
Đến thế kỷ XIX, những tư tưởng về sự phân chia giữa luật công và luật
tư của Luật La Mã được kế thừa và phát triển thông qua học thuyết dựa trên
quan hệ giữa các chủ thể (Subjektionstheorie). Học thuyết này phân chia: Nếu
là quan hệ có tính thứ bậc (Über-Unterordnungsverhältnis) giữa nhà nước và
công dân thì đó là quan hệ pháp luật do luật công điều chỉnh, còn quan hệ mà
các bên tham gia là quan hệ bình đẳng (Gleichrangigkeitsverhältnis) thì đó là
quan hệ pháp luật của luật tư điều chỉnh.12
Điểm hạn chế của học thuyết nằm ở chỗ: Học thuyết này cũng không
làm rõ thế nào là "quan hệ bình đẳng". Quan hệ giữa các bên bình đẳng trước
pháp luật liệu đã đủ chưa? Hay quan trọng phải là sự bình đẳng ở trong chính
mỗi quy phạm pháp luật giữa các bên? Hơn nữa, nếu chấp nhận thuật ngữ
"quan hệ bình đẳng" đi nữa thì thực tế không phải lúc nào trong quan hệ giữa
các chủ thể của luật công cũng là bất bình đẳng. Ví dụ như: Các bên trong hợp
đồng công vụ (öffentlich-rechtlicher Vertrag) giữa các chủ thể của luật công là
các cơ quan nhà nước. Hay trong luật tư cũng vậy, không phải mọi quan hệ
của luật tư cũng đều là bình đẳng. Thực tế có những quan hệ ít nhiều mang
tính thứ bậc trong luật tư như: quan hệ giữa cha mẹ và con cái dưới 18 tuổi
11 Xem: Ipsen, Allgemeines Verwaltungsrecht, 2000, Rn 16ff.).
12 Người đầu tiên xây dựng học thuyết này là nhà luật học người Đức Robert von Mohl (1799 – 1875). Mohl
là nhà luật học nổi tiếng, là cha đẻ của học thuyết nhà nước pháp quyền theo nghĩa hiện đại. Ông là người
đầu tiên đưa ra khái niệm nhà nước pháp quyền ở Đức (Tiếng Đức: Rechtsstaat, tiếng Anh: The rule of law)
và chỉ ra rằng nhà nước pháp quyền là nhà nước đối lập với nhà nước cảnh sát (Polizeistaat).
13
trong Luật gia đình hoặc giữa người tuyển dụng lao động và người lao động
trong Luật lao động. 13
3.2.3. Học thuyết hành vi của chủ thể (Subjektstheorien).
Học thuyết đương đại hiện nay ở Đức về phân chia luật công và luật tư
là học thuyết dựa trên cơ sở phân loại hành vi của chủ thể (Subjektstheorien/
Sonderrechtstheorien).
Theo học thuyết này, luật công là tổng thể những quy phạm pháp luật
điều chỉnh hành vi của các chủ thể được nhà nước trao quyền nhằm thực thi
chức năng, nhiệm vụ công (in Ausübung eines öffentlichen Amtes). Luật tư là
tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của các chủ thể dựa
trên các qui phạm của luật dân sự (Normen des zivilen Rechts).14
Ví dụ:
i) Một trường Đại học là pháp nhân của luật công. Khi nhà trường ban
hành quy chế và áp dụng đối với sinh viên đó là quan hệ luật công. Khi nhà
trường mua văn phòng phẩm, bàn ghế với một cá nhân hoặc doanh nghiệp cụ
thể, đó là quan hệ luật tư.15
ii) Tương tự như vậy, giáo sư ở Đức là một công chức (ein Beamter).
Khi giáo sư giảng bài, chấm bài cho sinh viên đó là quan hệ pháp luật của
13 Xem: Ipsen, Allgemeines Verwaltungsrecht, 2000, Rn 21 ff.; Hufen,Verwaltungsprozessrecht, 4. Aufl.,
2000, S. 3 ff.).
14D. Ehlers, in: Schoch/Schmidt-Aßmann/Pietzner (Hrsg.), Verwaltungsgerichtsordnung, Kommentar, Stand:
Juli 2009 (18. Ergänzungslieferung), 40, Rn. 235 ff.; Wolff/ Bachof/ Stober, Verwaltungsrecht, Bd. 1, 12.
Aufl., 2007, 22 Rn. 28 ff.
15 Luật tư hành chính (Verwaltungsprivatrecht) ở Đức là lĩnh vực mà các cơ quan hành chính nhà nước thực
hiện chức năng nhiệm vụ hành chính thông qua hình thức của Luật tư (Privatrechtliches Handeln
deröffentlichen Verwaltung). Những hành vi này được thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ vì lợi ích
công cộng (Daseinsvorsorge), phục vụ những nhu cầu thiết yếu như điện, nước, giáo dục, y tế v.v… Để phân
biệt giữa luật tư hành chính và luật công hành chính, nhà luật học người Đức Hans Peter Ipsen đã xây dựng
và phát triển học thuyết hai cấp độ – Zweistufentheorie. (Xem: Sodan/Ziekow, Grundkurs Öffentliches Recht,
4. Aufl., 2010, S.450).
14
luật công. Trong giờ nghỉ, đói bụng, giáo sư đi ra ngoài mua bánh Pizza để ăn
thì đó lại là quan hệ thuộc sự điều chỉnh của luật tư.
Điểm hạn chế của học thuyết là: Học thuyết này cũng chưa làm rõ được
nhiều vấn đề phát sinh hiện nay là thuộc chế định của luật tư hay luật công. Ví
dụ các vấn đề liên quan đến công chứng tư (der privater Notar), doanh nghiệp
nhà nước đã được tư nhân hóa (die privatisierten Staatsunternehmen) một
phần, trách nhiệm bồi thường nhà nước người thi hành công vụ gây ra
(Staatshaftung) v.v…
Chính sự hạn chế của các học thuyết phân chia luật công và luật tư ở
Đức nên việc xác định lĩnh vực pháp luật cụ thể nào thuộc luật công và những
lĩnh vực pháp luật nào thuộc luật tư cũng còn có những ý kiến khác nhau.16
Theo từ điển pháp luật và giáo trình ở Đức thì các lĩnh vực pháp luật
được phân chia như sau:
i) Những lĩnh vực thuộc luật tư:
Luật dân sự (das Bürgerliche Recht),
Luật kinh doanh (Wirtschaftsrecht) (bao gồm luật thương mại
[Handelsrecht], luật doanh nghiệp [Gesellschaftsrecht] và luật cạnh tranh
[Wettbewerbsrecht]),
Luật về séc và các giấy tờ có giá trị (Scheck-und Wertpapierrecht),
Luật lao động (Arbeitsrecht),
Luật bảo hiểm tư nhân (Privatversicherungsrecht).17
16 So sánh quan điểm của các tác giả khác nhau về vấn đề này:Gröpl, Staatsrecht I, 2. Aufl., 2010, Rn.107f.;
Giống: Sodan/Ziekow, Grundkurs Öffentliches Recht, 4. Aufl., 2010, S.450ff. Khác: Creifelds,
Rechtswörterbuch, 19. Aufl., 2007, S. 931.
17 Creifelds, Rechtswörterbuch, 19. Aufl., 2007, S. 931.
15
ii) Những lĩnh vực pháp luật thuộc luật công hiện nay được hiểu theo
hai nghĩa:
Nghĩa hẹp chỉ bao gồm luật nhà nước (Staatsrecht) và luật Hành Chính
(Verwaltungsrecht).
Nghĩa rộng, luật công còn bao gồm cà luật Hình sự (Strafrecht), luật tố
tụng (Prozessrecht) (bao gồm luật tố tụng hình sự và tố tụng dân sự [Strafund
Zivilprozessordnung]),
Luật
thuế
(Steuerrecht),
Luật
quốc
tế
(Völkerrecht) và Luật liên minh Châu Âu (Europarecht).18
3.3. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tế.
Phân định ranh giới giữa luật công và luật tư là việc làm cần thiết và có
ý nghĩa nhiều mặt cả về mặt lý luận và thực tế. Về lý luận, việc phân chia này
sẽ giúp xây dựng và đảm bảo sự thống nhất, chặt chẽ của cả hệ thống pháp
luật. Về thực tế, nó cũng giúp định hướng việc xây dựng, ban hành và đặc biệt
là hoạt động áp dụng đúng pháp luật.
Để giải quyết hoặc áp dụng đúng đắn pháp luật, nhiều vấn đề pháp lý
phát sinh trên thực tế đòi hỏi chủ thể áp dụng pháp luật phải có am hiểu một
cách đầy đủ các quy định pháp luật của cả luật công và luật tư.
Ví dụ: Một vụ tai nạn giao thông xảy ra ở Đức, để giải quyết hậu quả
pháp lý có thể liên quan đồng thời đến các qui phạm pháp luật khác nhau
thuộc cả luật công và luật tư, tùy tính chất mức độ. Cụ thể:
i)
Liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại : Điều 7 Luật giao
thông đường bộ, Điều 823 Bộ luật dân sự và Điều 1 Luật bảo hiểm trách
nhiệm.
18 Gröpl, Staatsrecht I, 2. Aufl., 2010, Rn.107f.; Sodan/Ziekow, Grundkurs Öffentliches Recht, 4. Aufl., 2010,
S.450ff.
16
ii)
Liên quan đến việc tước bằng lái xe: Nếu người điều khiển
phương tiện mà nồng độ cồn trong máu hoặc trong khí thở vượt quá mức cho
phép có thể bị tước bằng lái xe (Điều 3 Luật giao thông đường bộ).
iii)
Liên quan đến truy cứu trách nhiệm hình sự: Nếu điều khiển
phương tiện gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe hoặc tính mạng người
khác thì căn cứ vào kết luận của cảnh sát hoặc cơ quan công tố, người điều
khiển phương tiện có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 315c hoặc
316 Bộ luật hình sự.
iv)
Liên quan đến trách nhiệm bồi thường nhà nước : Nếu người điều
khiển phương tiện là cảnh sát đang trong quá trình thi hành công vụ mà gây
tai nạn cho công dân một cách có lỗi thì trường hợp này lại liên quan đến
trách nhiệm bồi thường của nhà nước do người thi hành công vụ gây ra (theo
Điều 34 Luật cơ bản, Điều 839 Bộ luật dân sự).
Kết luận
Tóm lại, qua việc nghiên cứu dưới góc độ lý luận – lịch sử các học
thuyết phân chia giữa luật công và luật tư, lấy ví dụ từ thực tiễn pháp luật của
CHLB Đức như trên, có thể rút ra những nhận định sau:
i)
Tư tưởng, học thuyết về luật công và luật tư xuất hiện rất sớm từ
thời La Mã cổ đại.
ii)
Trong số những tư tưởng học thuyết về vấn đề này, đến nay nổi
bật nhất là 3 học thuyết: Học thuyết dựa trên cơ sở lợi ích (Interresentheorie),
học thuyết dựa trên cơ sở quan hệ giữa các chủ thể (Subjektionstheorie) và
học thuyết dựa trên cơ sở phân loại hành vi của chủ thể (Subjektstheorien).
Quá trình hình thành và phát triển của những học thuyết này cho thấy tính
chất đa dạng và dòng chảy liên tục của lịch sử trong việc tìm lời giải xác định
ranh
giới
giữa
luật
công
và
luật
tư.
17
iii)
Các học thuyết nói trên đều có những ưu điểm. Tuy vậy cả ba
học thuyết cũng đều chứa đựng những hạn chế nhất định và chưa có học
thuyết nào giải đáp các trường hợp trên thực tế phát sinh ngày càng đa dạng
một cách rạch ròi, đầy đủ, toàn diện đâu là luật công, đâu là luật tư.
iv)
Các nhà lý luận luôn muốn phân chia rõ ràng giữa luật công và
luật tư, nhưng trên thực tế bản chất các tình huống pháp lý phát sinh lại không
rạch ròi như vậy. Chính sự đa dạng của các quan hệ pháp lý dẫn đến việc phân
chia các lĩnh vực thuộc luật công và luật tư ở Đức về lý luận cũng chưa có sự
thống
nhất.
v)
Quan hệ xã hội và quan hệ pháp luật luôn đa dạng, đa chiều và
phức tạp. Rắc rối chính nằm ở chỗ một tình huống pháp luật phát sinh, với
tính chất, mức độ khác nhau, đều có thể đồng thời trực tiếp hay gián tiếp liên
quan đến các qui phạm pháp luật của cả luật công và luật tư. Đây mới thực sự
là vấn đề gây đau đầu các nhà lý luận và là điều lý thú muôn đời trong quan
hệ giữa "luật" và "đời", giữa "lý luận" và "thực tế".
IV.
Mối quan hệ giữa luật thực chất và luật nội dung của hệ thống
pháp luật châu Âu lục địa.
Luật thực chất và Luật tố tụng là hai phạm trù chính trong Luật pháp.
Luật thực chất = luật nội dung
Luật thực chất là muốn nói đến khung pháp lý, các quy định pháp luật
nhằm xác định quyền và nghĩa vụ của tự nhiên nhân và pháp nhân. Luật nội
dung cũng được biết đến là một nguồn luật điều chỉnh quan hệ pháp luật giữa
cá nhân với cá nhân hoặc giữa cá nhân với nhà nước, và nhằm chỉ rõ quyền và
trách nhiệm của mỗi bên. Luật thực chất dùng quy phạm pháp luật quy định
quyền và nghĩa vụ các bên
Luật tố tụng = luật hình thức
18
Luật hình thức chỉ một khung pháp lý với những quy định pháp luật
nhằm hướng dẫn một quy trình để đi đến xác định quyền của các bên trong
quan hệ pháp luật. Luật hình thức bao gồm nhiều phần quy định quá trình đưa
vụ án ra xét xử tại Tòa án. Tòa án cần thiết phải thiết lập một quy trình tố tụng
phù hợp với các quy định mà luật hình thức đặt ra. Những quy định này đưa
ra nhằm đảm bảo sự công bằng trong xét xử và tính nghiêm minh của luật
pháp trong cả quá trình tố tụng. Trước đây nước ta nhấn mạnh luật thực chất
nhưng ngày nay thì chúng ta càng chú trọng hơn vào luật tố tụng.
Luật tố tụng
Luật thực chất
Cấu trúc Xây dựng các bước mà Điều chỉnh hình thức và nội dung vụ
một vụ xét xử phải trải án được xét xử.
Thi
qua.
Xây dựng một quá trình Định rõ quyền lợi và trách nhiệm của
hành
cho việc thực thi pháp công dân.
Giá trị
luật.
Không có giá trị độc lập.
Giá trị độc lập nhằm quyết định số
phận của vụ án.
Áp dụng Có thể được áp dụng Không thể áp dụng trong những
trong những trường hợp trường hợp phi lập pháp.
phi lập pháp.
Xuất phát từ quan điểm coi trọng pháp luật thành văn hay án lệ mà mối
tương quan giữa pháp luật thực chất và pháp luật tố tụng giữa các nước cũng
không giống nhau.
Ở giai đoạn hình thành nên hệ thống luật án lệ ở Anh, mối quan tâm
hàng đầu của các thẩm phán tòa thông luật là thủ tục tố tụng chứ không phài
luật nội dung.
Biểu hiện ở: nguyên tắc xét xử trong các tòa thông luật
“không có trát thì không có quyền”.
19
Ở các nước theo hệ thống civil law và các hệ thống pháp luật còn lại thì
luật thực chất quan trọng hơn luật tố tụng.
Để hiểu rõ hơn về vị trí, vai trò, mối tương quan giữa luật thực chất và
luật tố tụng, chúng ta sẽ tìm hiểu qua hai hệ thống pháp luật: Châu Âu- lục địa
và hệ thống pháp luật Anh- Mỹ:
i)
Châu Âu- lục địa: Luật thực chất chiếm ưu thế hơn so với luật tố
tụng. Luật tố tụng ở Châu Âu-lục địa chỉ nhằm mục đích duy nhất đó là đảm
bảo cho luật nội dung được thực hiện trên thực tế.
ii)
Hệ thống pháp luật Anh- Mỹ: ở Anh-Mỹ thì luật tố tụng lại
chiếm ưu thế hơn. Luật tố tụng được xem như là xương sống của quá trình xét
xử. Tại phiên tòa, phần tranh tụng giữa các bên hoặc đại diện của các bên sẽ
quyết định phần thắng thuộc về bên nào và tất cả các bản án chỉ được quyết
định sau khi thẩm phán và bồi thẩm đoàn lắng nghe những lý lẽ và bằng
chứng tại tòa
Nhìn chung mối tương quan giữa luật thực định và luật tố tụng nó cũng
có ảnh hưởng rất lớn đến việc đào tạo luật và cấu trúc nghề luật ở các hệ
thống pháp luật khác nhau, điều này hoàn toàn phụ thuộc vào vị trí của luật
thực định và luật tố tụng trong hệ thống pháp luật.
Để hiểu rõ hơn thì chung ta có thể xem qua ví dụ sau: trong hệ thống
pháp luật Thông luật mà cụ thể là hệ thống pháp luật của Anh thì vai trò của
Luật sư và thẩm phán là cực kì quan trọng vì hệ thống pháp luật này coi trong
vai trò tranh tụng của Luật sư ngay tại phiên tòa chứ hoàn toàn không căn cứ,
không coi trọng nhiều đến “án tại hồ sơ” như những nước theo truyền thống
pháp luật Châu Âu lục địa.
Các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa và hệ thống
pháp luật Xã hội chủ nghĩa, luật thực định giữ vai trò quan trọng hơn so với
20
- Xem thêm -