MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ................................................................... 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước ......................................... 7
1.2. Nhận xét tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ..................... 21
1.3. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu ........................................... 24
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI
TRÌNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG ................................................... 26
2.1. Chính quyền địa phương và trách nhiệm giải trình của chính quyền
địa phương ........................................................................................................ 26
2.2. Cơ sở khoa học xác lập trách nhiệm giải trình của chính quyền địa
phương .............................................................................................................. 43
2.3. Điều chỉnh pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa
phương .............................................................................................................. 48
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình của chính quyền địa
phương .............................................................................................................. 55
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH
QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG Ở VIỆT NAM ................................................................ 63
3.1. Quá trình hình thành, phát triển các quy định pháp luật về trách nhiệm
giải trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam ......................................... 63
3.2. Thực trạng quy định pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính
quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay........................................................... 70
3.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính
quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay........................................................... 82
3.4. Đánh giá thực trạng pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính
quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay......................................................... 100
Chƣơng 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG TRÁCH
NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƢƠNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY .................................................................................................. 118
4.1. Quan điểm tăng cường trách nhiệm giải trình của chính quyền địa
phương ở Việt Nam hiện nay ......................................................................... 118
4.2. Các giải pháp tăng cường trách nhiệm giải trình của chính quyền địa
phương ở Việt Nam hiện nay ......................................................................... 125
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 150
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 164
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
CQĐP
Chính quyền địa phương
CQHCNN
Cơ quan hành chính nhà nước
DVHCC
Dịch vụ hành chính công
GYPAKN
Góp ý, phản ánh, kiến nghị
TTHC
Thủ tục hành chính
TNGT
Trách nhiệm giải trình
HĐND
Hội đồng nhân dân
MTTTQ VN
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Nxb
Nhà xuất bản
UBND
Ủy ban nhân dân
UBTVQH
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU, HỘP TRONG PHỤ LỤC
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
Tên sơ đồ, bảng, biểu, hộp
Trang
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ mô tả trách nhiệm giải trình của chính quyền địa
163
phương ở Việt Nam
Biểu 3.1: So sánh các Chỉ số nhận định, đánh giá của người dân, tổ
164
chức về việc tổ chức cung ứng DVHCC năm 2017, 2018
Biểu 3.2: Chỉ số hài lòng về thủ tục hành chính năm 2018
167
Biểu 3.3: So sánh Chỉ số hài lòng năm 2017, 2018
168
Biểu 3.4: So sánh Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính chung
170
cả nước năm 2017, 2018
Biểu 3.5: Xu thế ở Chỉ số nội dung “công khai, minh bạch” gốc,
171
2011-2018
Biểu 3.6: Điểm trung bình toàn quốc các chỉ số nội dung gốc, giai đoạn
172
2011-2018
Biểu 3.7: Một số chỉ tiêu của Chỉ số thành phần chi phí không chính
173
thức qua các năm
Biểu 3.8: Một số chỉ tiêu của Chỉ số thành phần Cạnh tranh bình đẳng
174
qua các năm
Biểu 3.9: Một số chỉ tiêu của Chỉ số thành phần Tính năng động qua
175
các năm
Biểu 3.10: Chỉ số quản trị toàn cầu 2014
176
Bảng 3.11: Danh mục các chuyên đề giám sát của Quốc hội và Ủy
177
ban Thường vụ Quốc hội (từ 2008 đến 2020)
Hộp 3.12: Công bố kết luận Thanh tra vụ AVG và Công bố kết luận
180
Thanh tra vụ cảng Quy Nhơn
Hộp 3.13: Đối thoại vụ Đồng Tâm
181
Hộp 3.14: Đối thoại vụ Thủ Thiêm
182
Hộp 3.15: Đối thoại vụ Công nghệ cao Thành phố Hồ chí Minh
184
Hộp 3.16: Họp báo Công bố kết luận Thanh tra vụ Thủ Thiêm
185
Hộp 3.17: Họp báo Công bố vụ Cây xanh Hà Nội
187
Biểu 3.18: Tiếp cận thông tin trực tuyến và Internet tại nhà, 2016-2018
188
Biểu 3.19: Chỉ số hài lòng chung cả nước về tiếp nhận, xử lý ý kiến
189
góp ý, phản ánh, kiến nghị năm 2018
Hộp 3.20: Chủ tịch HĐND Thanh Hóa dừng chất vấn
190
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, đề cập đến trách nhiệm giải trình (TNGT) nói chung và TNGT
của chính quyền địa phương (CQĐP) là vấn đề còn khá mới mẻ trên phương diện lý
luận và thực tiễn. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản
Việt Nam khóa XI trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đánh giá: “Trách
nhiệm giải trình của các cấp chính quyền chưa được quy định rõ ràng…trách nhiệm
giải trình của các cấp chính quyền địa phương còn nhiều hạn chế” [33; tr243]. Nghị
quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả tiếp tục khẳng định:
việc công khai, minh bạch và TNGT còn hạn chế và xác định nhiệm vụ, giải pháp:
xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao TNGT [5;tr1]. Từ
cơ sở chính trị nêu trên cho thấy, sự cấp thiết phải nghiên cứu TNGT của CQĐP theo
pháp luật Việt Nam xuất phát từ những lý do sau đây:
Một là, lý luận về TNGT của CQĐP ở Việt Nam hiện nay chưa được nghiên
cứu một cách đầy đủ và toàn diện, nhiều vấn đề chưa được làm rõ hoặc còn có sự
tranh luận khác nhau, chưa luận giải hết được thực tiễn phong phú của đời sống xã
hội có liên quan đến TNGT của CQĐP. Những hạn chế trong nghiên cứu lý luận đã
làm nhận thức về TNGT của CQĐP chưa đúng đắn và phù hợp, hiệu quả trong thực
hiện TNGT của CQĐP chưa cao. Việc tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận liên
quan đến TNGT của CQĐP, là tiền đề quan trọng giúp xác lập cơ sở khoa học và
định hướng cho việc hoàn thiện TNGT của CQĐP trên nhiều phương diện, nhất là
thực hiện hiệu quả pháp luật về TNGT của CQĐP trong điều kiện mới.
Hai là, các quy định pháp luật về TNGT của CQĐP hiện nay ở Việt Nam còn
hạn chế, bất cập, nhiều quy định chưa phù hợp; cơ chế thực hiện TNGT của CQĐP chưa
được pháp luật quy định rõ; nội dung điều chỉnh pháp luật về TNGT của CQĐP chưa
được quy định đầy đủ và mang tính hệ thống; nhiều quy định pháp luật liên quan đến
cung cấp thông tin, công khai minh bạch, giám sát, tiếp công dân, tổ chức và hoạt động
của CQĐP…chưa phù hợp với thực tiễn. Những hạn chế, bất cập trong các quy định
pháp luật làm cho việc thực hiện TNGT của CQĐP trên thực tế hiệu quả chưa cao, mới
1
đáp ứng phần nào yêu cầu của người dân và các tổ chức trong xã hội, do đó, yêu cầu cấp
thiết phải tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến TNGT của CQĐP.
Ba là, thực tiễn thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật về TNGT của
CQĐP được đánh giá là một khâu yếu. TNGT của CQĐP, cá nhân người có thẩm
quyền đối với cơ quan nhà nước cấp trên, đặc biệt, đối với người dân, tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng hiệu quả chưa cao.
Việc thực hiện TNGT của CQĐP, cá nhân người có thẩm quyền trong một số nội
dung/lĩnh vực còn mang tính hình thức, chưa đạt được mục tiêu đặt ra…Những hạn
chế, bất cập trong tổ chức thực hiện pháp luật về TNGT của CQĐP cần được nghiên
cứu, đánh giá một cách toàn diện, tạo cơ sở cho việc xây dựng các định hướng và
giải pháp khắc phục phù hợp với thực tiễn.
Bốn là, trong giai đoạn mới, yêu cầu thực hiện có hiệu quả các quy định pháp
luật liên quan đến TNGT của CQĐP được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Luật
Tổ chức chính quyền địa phương 2015, Luật Tổ chức chính phủ và Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2019…và các văn bản pháp luật khác về: phân quyền,
phân cấp, ủy quyền; công khai, minh bạch; tiếp cận thông tin; thực hiện dân chủ;
thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm…đòi hỏi các quy định này trong điều kiện mới
cần được nhận thức đúng đắn, đầy đủ, vận dụng một cách phù hợp, bảo đảm thực
hiện có hiệu quả. Chính vì vậy, cần nghiên cứu toàn diện, đánh giá đúng thực tiễn,
nhận thức rõ các yêu cầu nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về TNGT
của CQĐP và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định đó.
Năm là, tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa;
đảm bảo quyền con người, quyền công dân; xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế; sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đã, đang và luôn đặt ra
những yêu cầu mới, đòi hỏi CQĐP và cá nhân người có thẩm quyền phải thực hiện
TNGT một cách đầy đủ, toàn diện, thiết thực và hiệu quả cao.
Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu pháp luật về TNGT của CQĐP
hiện nay ở Việt Nam là hết sức cần thiết trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Chính vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Trách nhiệm giải trình của chính
quyền địa phương theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sĩ,
2
với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc tăng cường TNGT nói chung và
TNGT của CQĐP ở Việt Nam nói riêng.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích của luận án
Xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm
tăng cường TNGT của CQĐP ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án xác định các nhiệm vụ như sau:
- Hệ thống hóa, phân tích và nhận xét các công trình nghiên cứu trong và
ngoài nước về những vấn đề có liên quan đến đề tài luận án.
- Phân tích và xác lập khái niệm, đặc điểm, phân loại TNGT của CQĐP; phân
tích cơ sở khoa học xác lập TNGT của CQĐP; phân tích khái niệm, đặc điểm pháp
luật về TNGT của CQĐP.
- Hệ thống hóa, phân tích làm rõ nội dung điều chỉnh pháp luật cơ bản về
TNGT của CQĐP và các yếu tố ảnh hưởng đến TNGT của CQĐP.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về TNGT của CQĐP ở Việt Nam,
nhận thức được kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân.
- Xác lập các quan điểm, giải pháp tăng cường TNGT của CQĐP ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu luận án xác định là: Các quan điểm khoa học liên quan
đến TNGT và TNGT của CQĐP; hệ thống các quy định pháp luật liên quan đến
TNGT của CQĐP; thực tiễn thực hiện pháp luật về TNGT của CQĐP ở Việt Nam;
kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về TNGT của CQĐP ở một quốc gia có tính gợi
mở đối với Việt Nam; các yếu tố ảnh hưởng đến TNGT của CQĐP.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: luận án xác định không gian nghiên cứu là TNGT của CQĐP
trong phạm vi toàn quốc.
Về thời gian: luận án xác định phạm vi nghiên cứu là TNGT của CQĐP theo
quy định pháp luật Việt Nam từ 1946 (gắn liền với thời điểm ban hành Hiến pháp
năm 1946) và tập trung chủ yếu vào các quy định pháp luật hiện hành.
3
Về nội dung: luận án xác định phạm vi nghiên cứu là TNGT của CQĐP theo
pháp luật Việt Nam, trên cơ sở chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Với
phạm vi TNGT của CQĐP là hai thiết chế HĐND, UBND ở cấp tỉnh, huyện, xã và
tương đương cấp tỉnh, huyện, cấp xã. Luận án không nghiên cứu TNGT của CQĐP đối
với tổ chức Đảng, các cơ quan tư pháp và không nghiên cứu TNGT của cá nhân người
đứng đầu, của cán bộ, công chức, viên chức thực hiện TNGT khi các cá nhân này thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao tại các cơ quan nhà nước ở CQĐP.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà
nước và pháp luật; quan điểm về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa; nguyên lý chủ quyền nhân dân; nguyên tắc tổ chức và thực hiện quyền
lực nhà nước; thực hiện dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, luận án còn sử dụng ở mức độ khác
nhau các phương pháp nghiên cứu khác, cụ thể là:
Chương 1: sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp để phân tích
tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến các vấn đề lý luận, thực trạng,
quan điểm, định hướng, kiến nghị, giải pháp liên quan đến đề tài luận án. Sử dụng
phương pháp so sánh, tổng hợp để xác định những kết quả, hạn chế được đề cập
trong các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, xác định những vấn đề kế thừa
có chọn lọc, vấn đề chưa được nghiên cứu thấu đáo và những vấn đề cần tiếp tục
được nghiên cứu.
Chương 2: sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp để
nghiên cứu và xác lập khái niệm, đặc điểm, phân loại, cơ sở khoa học xác lập TNGT
của CQĐP. Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, diễn dịch,
quy nạp để nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, nội dung điều chỉnh pháp luật về TNGT
của CQĐP và các yếu tố ảnh hưởng đến TNGT của CQĐP.
Chương 3: sử dụng phương pháp lịch sử, thống kê, phân tích, so sánh để phân
tích, đánh giá quá trình hình thành và phát triển pháp luật về TNGT của CQĐP ở
4
Việt Nam. Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật
hiện hành về TNGT của CQĐP ở Việt Nam, đánh giá kết quả đạt được, hạn chế, yếu
kém và nguyên nhân.
Chương 4: sử dụng phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, để xác lập các
quan điểm, đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ và đề xuất các giải pháp tăng cường
TNGT của CQĐP ở Việt Nam đảm bảo tính khả thi, toàn diện.
Đồng thời luận án còn dựa vào những số liệu thống kê, tổng kết, sơ kết trong
các báo cáo của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH), các Ủy ban của
Quốc hội, Đoàn giám sát, Chính phủ, Thanh tra Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN), Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân
(UBND) của các địa phương; các số liệu điều tra, thống kê của các cơ quan, tổ chức
trong và ngoài nước, cũng như những thông tin trên các phương tiện truyền thông đại
chúng có liên quan đến đề tài luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, đây là công trình nghiên cứu có tính hệ thống, toàn diện về TNGT
của CQĐP trên cơ sở các quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận về TNGT của CQĐP
như: khái niệm, đặc điểm TNGT của CQĐP; pháp luật, đặc điểm pháp luật về TNGT
của CQĐP; cơ sở khoa học xác lập TNGT của CQĐP; điều chỉnh pháp luật về TNGT
của CQĐP và các yếu tố ảnh hưởng đến TNGT của CQĐP.
Thứ ba, hệ thống hóa, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về TNGT của
CQĐP ở Việt Nam, từ Hiến pháp năm 1946 cho đến nay, tập trung chủ yếu vào các
quy định pháp luật hiện hành và việc thực hiện các quy định pháp luật đó.
Thứ tư, xác lập các quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường
TNGT của CQĐP ở Việt Nam, đảm bảo tính khoa học, toàn diện, khả thi, phù hợp
với điều kiện cụ thể, góp phần giải quyết những hạn chế, bất cập về TNGT của
CQĐP ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học của luận án
6.1. Về mặt lý luận
Luận án góp phần bổ sung, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận và pháp luật về
TNGT của CQĐP ở Việt Nam. Kết quả của luận án cung cấp thêm luận cứ khoa học
5
cho việc xác định các quan điểm, giải pháp góp phần tăng cường TNGT của CQĐP ở
Việt Nam.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận án là tài liệu tham khảo có giá trị trong công tác lập pháp, lập quy, hoạch
định chính sách, chỉ đạo, điều hành, của cơ quan, tổ chức và cá nhân người có thẩm
quyền, đặc biệt, có ý nghĩa trong thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về TNGT ở
các địa phương, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Kết
quả nghiên cứu của luận án còn được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy tại
các cơ sở đào tạo và những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận
án gồm có 4 chương, 12 tiết. Cụ thể là:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa
phương
Chương 3: Thực trạng trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương ở
Việt Nam hiện nay
Chương 4: Quan điểm và giải pháp tăng cường trách nhiệm giải trình của
chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến
đề tài
1.1.1. Tình hình nghiên cứu những vấn đề lý luận về trách nhiệm giải trình
và trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương liên quan đến đề tài
- Về lý luận TNGT: Đề cập đến khái niệm, hình thức, phạm vi, nội dung và
phân loại TNGT, qua tìm hiểu có: Công trình “Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành
chính công trong một thế giới cạnh tranh”, cho rằng nội hàm khái niệm TNGT bao
gồm hai yếu tố: khả năng giải đáp, là việc yêu cầu các công chức phải có khả năng
giải đáp theo định kỳ những vấn đề liên quan đến việc họ đã sử dụng thẩm quyền của
mình như thế nào, những nguồn lực được sử dụng vào đâu, với các nguồn lực đó đã
đạt được kết quả gì và việc chịu trách nhiệm hậu quả xảy ra [75]. Công trình “Quản
trị tốt lý luận và thực tiễn”, khẳng định: TNGT được tiếp cận khác nhau, trong
khuôn khổ hoạt động của nhà nước được hiểu là trách nhiệm của cơ quan công quyền
đã nhận quyền lực từ nhân dân và đặt ra mục tiêu thực thi quyền lực vì nhân dân, thì
đồng thời có nghĩa vụ trả lời, lý giải và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình.
Khẳng định phạm vi chủ thể và đối tượng hướng tới của TNGT là khác nhau giữa
các quốc gia, phụ thuộc vào việc các quyết định và hành động được tiến hành hay áp
dụng ở trong hay ở ngoài cơ quan, tổ chức đó. Và phân loại: TNGT trước cơ quan
dân cử; TNGT nội bộ hành chính; TNGT trình tư pháp; TNGT chính trị; TNGT nghề
nghiệp; TNGT xã hội. [38]. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế thường niên: Phát triển bền vững
vùng Trung Bộ Việt Nam, “Xây dựng và vận hành Chính phủ kiến tạo: Thực tiễn ở Việt
Nam và kinh nghiệm quốc tế”, tháng 10/2019. Một số tham luận đã đề cập đến nguồn gốc,
khái niệm, phân loại TNGT và TNGT của Chính phủ, hay đề cập đến việc xây dựng và
thực hiện TNGT của Chính phủ kiến tạo Singapore, thông qua đó đã gợi mở một số vấn
đề liên quan đến TNGT của Chính phủ trong xây dựng và vận hành Chính phủ kiến tạo ở
Việt Nam [117].
Công trình “Thực hiện trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ nhằm
góp phần phòng, chống tham nhũng”, khẳng định: ở Việt Nam khái niệm TNGT
7
được nhìn nhận khác nhau, luôn gắn với việc thực thi công vụ trong nền hành
chính nhà nước và đưa ra khái niệm TNGT của CQHCNN trong thực thi công vụ
nhằm phòng, chống tham nhũng. Và phân loại thành: TNGT của CQHCNN trước
cơ quan quyền lực nhà nước; TNGT trong nội bộ CQHCNN; TNGT của
CQHCNN với người dân [115]. Chương trình sáng kiến chống tham nhũng năm
2014 với chủ đề: "Tăng cường minh bạch, liêm chính và trách nhiệm giải trình”,
đưa ra định nghĩa: TNGT là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực
công phải cung cấp thông tin và làm rõ trách nhiệm về quyết định và hành vi của
mình để người dân và các cơ quan giám sát có thể hiểu và đánh giá [79]. Công
trình "Liêm chính và minh bạch trong kinh doanh vì sự phát triển bền vững", cho
rằng: giải trình hay yêu cầu về tính giải trình còn được đề cập với tư cách là một
yêu cầu quan trọng đối với việc thực hiện minh bạch, cụ thể là nhằm bảo đảm việc
cung cấp đủ bằng chứng, căn cứ mang tính khách quan để giải thích hay làm rõ về
các nội dung hoặc vấn đề cần minh bạch [59]. Công trình "Trách nhiệm giải trình
trong phòng chống tham nhũng – Kinh nghiệm quốc tế và gợi mở cho Việt Nam",
của Bùi Phương Đình, cho rằng: TNGT là thuật ngữ có thể hiểu theo nghĩa rộng,
hẹp khác nhau và phân loại TNGT theo chiều dọc, chiều ngang và theo lĩnh vực
chính trị, pháp lý/hành chính, xã hội [35]. Công trình “Những điều kiện bảo đảm
thực hiện trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ nhằm góp phần phòng,
chống tham nhũng”, cho rằng: hình thức TNGT chủ động là sự thể hiện ra bên
ngoài, sự thừa nhận kết quả của việc thực hiện trách nhiệm công vụ của công chức
và TNGT bị động hay còn gọi là TNGT theo yêu cầu có thể được coi là phương
tiện, cơ chế đảm bảo việc nâng cao, duy trì trách nhiệm công vụ, chịu sự tác động
của phản biện xã hội, giám sát xã hội. Bên cạnh đó, công trình cũng đề cập đến
vai trò của TNGT trong thực hiện minh bạch hóa các quyết định, hành vi quản lý,
hoạt động của các CQHCNN, góp phần phòng ngừa tham nhũng, quan liêu, lãng
phí [116]. Công trình “Trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Khoa học pháp lý, cho rằng, TNGT
của CQHCNN là trách nhiệm của cơ quan nhà nước có chức năng quản lý hành
chính nhà nước và cán bộ, công chức thuộc hệ thống cơ quan này, chủ động thực
hiện việc giải trình hoặc phải thực hiện nhiệm vụ giải trình khi bị các cơ quan, tổ
8
chức, cá nhân có liên quan yêu cầu, nhằm cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin
về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó. Nội dung TNGT là những vấn đề cụ thể mà các chủ
thể có TNGT phải chuẩn bị và trả lời với các chủ thể quản lý cấp trên hoặc với các
đối tượng quản lý có liên quan. Và cho rằng, dưới góc độ quản lý hành chính nội bộ
và tác động ra bên ngoài có hình thức giải trình trong hệ thống và giải trình ra bên
ngoài; dưới góc độ đối tượng tiếp nhận việc giải trình có TNGT đối với toàn thể nhân
dân và TNGT đối với một hoặc một số nhóm đối tượng nhất định, hoặc xuất phát từ
yêu cầu của chủ thể có hình thức giải trình chủ động và giải trình bị động [113].
Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học "Trách nhiệm giải trình của Chính phủ
trong hoạch định và thực thi chính sách công ớ Việt Nam hiện nay", cho rằng, TNGT
là khái niệm thuộc phạm trù đạo đức và quản trị, là thuật ngữ chính trị - pháp lý, là
một thuộc tính của người được ủy quyền trước người ủy quyền và các bên liên đới và
khẳng định: đó là nghĩa vụ, trách nhiệm cung cấp thông tin, giải thích, trả lời một
cách công khai, minh bạch gắn liền với việc nhận trách nhiệm và chịu trách nhiệm
của người được ủy quyền đối với người ủy quyền và phải chịu trách nhiệm đối với
kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ đối với người ủy quyền [15]. Luận văn Thạc
sĩ Luật học “Trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà nước”của Trần
Quyết Thắng, cho rằng, TNGT là quyền và nghĩa vụ của cơ quan nhà nước, cán bộ,
công chức và các cá nhân được nhà nước uỷ quyền, trong việc thực thi công vụ của
mình, giải thích các thông tin và cam kết cũng như phải hứng chịu trách nhiệm khi để
xảy ra hậu quả, một cách thường xuyên hoặc/và khi có yêu cầu, đối với cấp trên, các
cơ quan, đại biểu dân cử, các thiết chế kiểm soát quyền lực khác thuộc nhà nước, các
tổ chức ngoài nhà nước và công dân. Và phân loại dựa trên đối tượng giải trình,
phương thức giải trình, chủ thể TNGT và khẳng định vai trò của TNGT trong quản lý
nhà nước dưới góc nhìn quản trị nhà nước tốt, kiểm soát quyền lực nhà nước, kiểm
soát xu hướng lợi ích trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước [78]. Công trình
“Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt
động báo cáo, giải trình tại Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội ở nước ta
hiện nay“, Viện nghiên cứu Lập pháp [96] và “Báo cáo nghiên cứu điều trần tại các
Ủy ban của nghị viện và khả năng áp dụng ở Việt Nam”, Văn phòng Quốc hội
9
[109;tr1], đã có những phân tích, so sánh về hoạt động “nghe giải trình”, “giải trình”
với “điều trần” trong hoạt động của các Ủy ban của Quốc hội ở Việt Nam với Nghị
viện một số nước và so sánh các thuật ngữ “chất vấn”, “giải trình” và “điều trần”.
Công trình "Những nội dung cơ bản của Hiến pháp sửa đổi năm 2013 về trách
nhiệm giải trình của các cơ quan hiến định và định hướng triển khai thực hiện", của Hà
Thị Mai Hiên đã luận giải cơ sở tiếp cận và xác định TNGT của các cơ quan hiến định
theo Hiến pháp năm 2013 đó là: nguyên tắc chủ quyền nhân dân và nguyên tắc phân
công, phối hợp và kiểm soát quyền lực của các cơ quan trong tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nước. Khẳng định Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận TNGT của một số
chủ thể tại một số điều khoản cụ thể [41]. Công trình “Hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm giải trình” của Trần Văn Long, cho rằng, về mặt học thuật và pháp lý, vẫn chưa
có sự ghi nhận thống nhất khái niệm này và nội dung giải trình gồm: giải thích, làm rõ
các thông tin về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của chủ thể
trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đó. Nội dung giải trình chỉ bị giới hạn đối với
các nội dung thuộc danh mục bí mật được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Khẳng định, có 02 hình thức: giải trình chủ động và giải trình khi có yêu cầu [142].
Công trình "Bàn về trách nhiệm giải trình" của Đinh Văn Minh, cho rằng: theo cách
hiểu thông thường thì giải trình là giải thích, trình bày nhằm làm sáng rõ một vấn đề
gì. Trong hoạt động của bộ máy công quyền là việc cán bộ, công chức nhà nước phải
chịu trách nhiệm về hành động của mình. Theo đó, cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức nhà nước, phải có trách nhiệm thực thi công việc được giao đạt kết quả và phải
chịu hậu quả khi chưa làm tròn trách nhiệm [145].
Công trình "Chỉ số hiệu quả quản trị và Hành chính công cấp tỉnh", khẳng
định: Bản thân khái niệm TNGT là một khái niệm khó giải thích vì nó có những cách
diễn giải và dịch thuật khác nhau, và rất khó để khẳng định xem nó được thực thi như
thế nào. TNGT cơ bản là đảm bảo cho người dân, nhà nước và các tổ chức ngoài nhà
nước có cả khung pháp lý lẫn khả năng buộc các cơ quan và cán bộ nhà nước phải
giải trình về những gì họ làm hoặc không làm khi thực thi chức năng, nhiệm vụ của
mình [89]. Công trình “Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2010: Các thể chế hiện
đại”, xác định có 02 hình thức là: TNGT đảm bảo việc tuân thủ (hệ thống TNGT
hướng lên trên) và TNGT đối với kết quả hoạt động (hệ thống TNGT hướng xuống
10
dưới) và khẳng định, hệ thống TNGT nào có thể áp dụng phù hợp nhất cho một chức
năng cụ thể phụ thuộc vào các đặc tính của chức năng đó hoặc các hoạt động của nó
[52]. Công trình “Trách nhiệm giải trình: Vươn tới những chuẩn mực của nền hành
chính phục vụ và phát triển” của Phạm Duy Nghĩa, đã phân tích và phân loại TNGT
theo 04 góc nhìn gồm: TNGT về chính trị; TNGT về hành chính; TNGT về nghề
nghiệp; TNGT trước xã hội. Và cho rằng, trong nền hành chính công có 02 kênh thực
hiện: TNGT theo hàng dọc tồn tại từ cổ xưa thông qua hệ thống thanh tra, giám sát
công vụ, và TNGT theo hàng ngang được thiết lập giữa nền công vụ với các tổ chức
có chức năng giám sát của cơ quan dân cử, kiểm toán của hệ thống chính trị và xã
hội nói chung [143]. Công trình “Trách nhiệm giải trình trong khu vực công ở Việt
Nam”, cho rằng, TNGT trong khu vực công được hiểu là trách nhiệm trong nội bộ bộ
máy công quyền và trách nhiệm của bộ máy công quyền với xã hội [2]. Luận án Tiến
sĩ Quản lý hành chính công: "Nâng cao năng lực thể chế hành chính nhà nước để
thích ứng với nền kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay ở nước ta",
của Bùi Thị Ngọc Hiền, khẳng định: TNGT trong khu vực công là điều kiện huy
động sự tham gia của các bên có liên quan vào quá trình hoạch định, xây dựng, thực
thi chính sách cũng như giám sát hoạt động của các cấp, các ngành [42].
- Về lý luận TNGT của CQĐP: Công trình “Pháp luật về trách nhiệm giải
trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam: thực trạng và định hướng hoàn
thiện”, đã đưa ra khái niệm TNGT của CQĐP, xác định nội dung CQĐP giải trình là
các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP và phân loại TNGT của
CQĐP dựa trên một số tiêu chí nhất định [44]. Công trình “Nâng cao trách nhiệm
giải trình của chính quyền địa phương” của Hoàng Thị Giang, trên cơ sở phân tích
Nghị định 90/NĐ-CP ngày 8/8/2013 đã đưa ra khái niệm TNGT trong khu vực công
và khẳng định TNGT của CQĐP là vấn đề nhận được sự quan tâm lớn của Nhà nước,
xã hội và người dân [37]. Công trình “Nâng cao năng lực và trách nhiệm giải trình
nhằm cải thiện chất lượng quản trị địa phương” đã đánh giá, thông qua thực hiện
TNGT (chất vấn và trả lời chất vấn), cải thiện chất lượng quản trị địa phương, nâng
cao mối quan hệ tương tác với người dân, cộng đồng nói chung [146].
11
Các công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến vấn đề lý luận về
TNGT và TNGT của CQĐP
Bước đầu tìm hiểu có các công trình tiêu biểu như sau: “Democracy,
Accountability and Representation” của Adam Przeworski, Susan C. Stokes. Đề cập
thuật ngữ TNGT và mối quan hệ với vấn đề dân chủ và đại diện.Cho rằng, cơ sở xác
định TNGT đó là sự ủy quyền của người dân và tính đại diện của bộ máy nhà nước.
Với tư cách là người chủ, người dân phải có quyền được biết chính quyền đã, đang
và sẽ làm gì cho mình thông qua các thủ tục về tiếp cận thông tin, công khai minh
bạch hoạt động của bộ máy công quyền, cơ chế giám sát quyền lực [121]. Công trình
“Public Accountability: Aframework for the analysis and assessment of
accountability arrangements in the public domain” Mark Bovens, khẳng định:
TNGT là một khái niệm ngày càng được sử dụng phổ biến trong các cuộc thảo luận
chính trị và các văn bản chính sách vì nó truyền đạt một hình ảnh minh bạch và đáng
tin cậy. Là khái niệm rất khó nắm bắt bởi vì nó có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau. Bên cạnh đó, còn giải thích nguồn gốc của thuật ngữ TNGT cũng như quá trình
chuyển hóa của nó. TNGT đã trở thành một biểu tượng cho sự quản trị tốt cả khu vực
công và khu vực tư nhân và đề cập việc phân loại TNGT [135]. Công trình
“Accountability and democratic governance: Orientations and principles for
development” của Hudson and Govnet, đã phân loại: TNGT theo chiều ngang, đó
chính là cơ chế kiềm chế - đối trọng giữa ba nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và
tư pháp. TNGT theo chiều dọc, đó chính là mối quan hệ giữa công dân và cơ quan
công quyền, những người được trao quyền ra quyết định và công dân có khả năng
gây ảnh hưởng nhất định đến tiến trình ra quyết định đó [130]. Công trình
“Accountability: the core concept and its subtypes” của Staffan I. Lindberg, cho
rằng, TNGT là một khái niệm trung tâm trong chính trị so sánh. Sự phổ biến của
TNGT trong một số lĩnh vực, dẫn đến cách hiểu không thống nhất và phân loại
TNGT, tầm quan trọng của việc phân loại [139]. Công trình “Two Concepts of
Accountability: Accountability as a Virtue and as a Mechanism” của Mark Bovens,
phân biệt TNGT trên 2 khái cạnh: TNGT được sử dụng chủ yếu như một khái niệm
quy chuẩn, là các tiêu chuẩn đạo đức để đánh giá hành vi của các bên tham gia. Do
đó, các nghiên cứu về TNGT thường tập trung vào các vấn đề mang tính quy chuẩn,
một tập hợp các tiêu chuẩn để đánh giá cách hành xử của các chủ thể công quyền. Và
12
TNGT như một cơ chế, theo đó, TNGT thể hiện mối quan hệ về mặt thể chế hoặc sự
sắp xếp để một chủ thể nào đó thực hiện TNGT của mình trước chủ thể khác [136].
Công trình “The Public Accountability Review A Meta-Analysis of Public
Accountability Research in Six Academic Disciplines” của Thomas Schillemans,
Universiteit Utrecht, đã phân tích một số nội dung: định nghĩa về TNGT; các lý
thuyết chính thức được sử dụng để nghiên cứu TNGT; phương pháp nghiên cứu; loại
vấn đề về TNGT được khảo sát; các chủ thể thực hiện TNGT [140]…Công trình
“Traditional
Public
Administration
versus
The
New Public
Management:
Accountability versus Efficiency của James P. Pfiffner, thông qua việc xem xét mối
tương quan của nền hành chính công truyền thống và quản lý công mới và TNGT với
tính hiệu quả của sự cam kết. Làm thế nào đo lường hiệu quả trong quản lý công
mới? Câu hỏi này phải được trả lời bằng cách cân bằng giữa TNGT và hiệu quả. Sự
tương phản giữa TNGT và tính hiệu quả đánh dấu sự tương phản giữa quản trị công
truyền thống và quản lý công mới và nó sẽ đạt được TNGT bằng cách đo lường đầu
ra hơn là bằng các quá trình giám sát [131].
1.1.2. Tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến thực trạng trách
nhiệm giải trình và trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương
Công trình “Quản trị tốt lý luận và thực tiễn” nhận định: đã có những tiến bộ
trong việc thiết lập các cơ chế mới về TNGT, song vẫn còn nhiều bất cập ở nhiều
lĩnh vực. Người dân đã được tham gia trong quá trình ra quyết định, song chỉ vào lúc
những vấn đề đã được lên kế hoạch hoặc được quyết định. Việc đảm bảo cơ hội tham
gia của người dân là hết sức cần thiết, trong khi các cơ chế mới về TNGT hướng
xuống dưới, đáp ứng trực tiếp nguyện vọng của người dân được thực hiện ở cấp xã,
thì phần lớn thẩm quyền lại được trao cho cấp tỉnh [38]. Công trình “Báo cáo Việt
Nam 2035 hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ” của Ngân hàng
thế giới, Bộ Kế hoạch và đầu tư, trên cơ sở Bộ dữ liệu của Chỉ số quản trị toàn cầu,
đánh giá: Việt Nam đạt kết quả tốt nhất về ổn định chính trị và hiệu lực của chính
quyền và hai nhóm chỉ số trọng lượng tiếng nói của người dân và TNGT của chính
quyền vẫn nằm ở nhóm 10 quốc gia thấp nhất. Nêu ra những rào cản lớn là: thiếu
vắng cơ chế kiểm soát lẫn nhau mang tính cân bằng trong hoạt động của các cơ quan
lập pháp, hành pháp và tư pháp; vai trò của tiếng nói, sự tham gia của người dân và
các tổ chức chính trị-xã hội trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách; cơ hội
13
tiếp cận thông tin qua đó tăng cường TNGT của nhà nước; sự độc lập của cơ quan
truyền thông [53]. Công trình “Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2010: Các thể chế
hiện đại” của Ngân hàng Thế giới và nhà tài trợ, đánh giá: Cả quyền lực và TNGT
đều được tăng lên, nhưng không phải lúc nào cũng tương đương nhau. Và đề cập đến
các thách thức: TNGT không ăn khớp với những sắp xếp tổ chức mới; hình thức giải
trình hướng vào kết quả chịu tác động bởi thay đổivăn hóa và điều này không sớm
đạt được; sự phối hợp trong hoạt động của các tỉnh chưa được thực hiện tốt. Bên
cạnh đó, còn khẳng định, mặc dù có những tiến bộ rõ nét trong việc thiết lập các cơ
chế mới về TNGT song vẫn còn nhiều bất cập ở nhiều lĩnh vực [52]. Công trình
“Báo cáo Hiệu quả quản trị hành chính công cấp tỉnh”, thông qua nội dung “Trách
nhiệm giải trình với người dân” dựa trên 02 chỉ số: Mức độ và hiệu quả trong tiếp
xúc với chính quyền và hiệu quả của Ban thanh tra nhân dân đã đánh giá ở mức độ
nhất định TNGT của CQĐP [89]. Công trình “Báo cáo Chỉ số hài lòng của người
dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính”, của Bộ Nội Vụ, đã đánh
giá thực trạng TNGT của các CQHCNN trên một số tiêu chí đo lường như: cung ứng
DVHCC, sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ [8]. Công trình, “Chỉ
số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh”, đánh giá thực trạng TNGT trên các tiêu chí: mức
độ tham nhũng, môi trường kinh doanh, cải cách hành chính [60]. Công trình “Trách
nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn", đánh giá thực trạng quy định pháp luật về TNGT của CQHCNN trên cơ
sở quy định của Hiến pháp 2013, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Xử lý vi
phạm hành chính, Luật Đất đai, Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn…và một số văn bản dưới luật khác. Bên cạnh đó, còn phân tích việc thực hiện
pháp luật về TNGT của CQHCNN và đánh giá trên một số lĩnh vực đặc thù như: xử
lý vi phạm hành chính, quản lý ngân sách, đất đai, cấp, thu hồi giấy phép và một số
lĩnh vực khác [113]. Công trình "Trách nhiệm giải trình của cơ quan hành chính nhà
nước" của Trần Quyết Thắng, phân tích thực trạng quy định pháp luật về TNGT của
CQHCNN và đánh giá thực tiễn việc thực hiện ở Việt Nam từ trước thời kỳ đổi mới
đến sau thời kỳ đổi mới, đưa ra những nguyên nhân hạn chế [78].
Công trình “Pháp luật về trách nhiệm giải trình của chính quyền địa phương
ở Việt Nam: thực trạng và định hướng hoàn thiện” [44], đã khái quát một số quy
định pháp luật về TNGT của CQĐP trước Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 2013, Nghị
14
định số 90/2013/NĐ-CP; Luật Tổ chức chính phủ 2015; Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015; Luật giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015; Luật
Thanh tra năm 2010; Luật Tố cáo 2011; Luật Tiếp công dân năm 2013; Luật Tiếp
cận thông tin 2016…trên cơ sở đó, đánh giá một số thành tựu đạt được và hạn chế yếu
kém trong các quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về TNGT của CQĐP.
Công trình “Công khai, minh bạch và giải trình: Vai trò của chính quyền địa phương”
của Jairo Acuna- Alfaro, Đỗ Thanh Huyền, khẳng định: Với các quy định tại Hiến pháp
năm 2013 đã hiến định những nguyên tắc căn bản cho việc CQĐP chịu sự kiểm tra,
giám sát của các cơ quan nhà nước cấp trên theo dạng thức TNGT từ trên xuống và
giám sát gián tiếp từ dưới lên thông qua HĐND trước các cơ quan nhà nước khác cũng
như chịu sự giám sát của Nhân dân thông qua MTTQVN và đưa ra những trao đổi xung
quanh dự án Luật Tổ chức chính quyền địa phương [48]. Công trình “Trách nhiệm giải
trình của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay”, đề cập đến một số cơ sở pháp
lý cho việc thực hiện TNGT của CQĐP ở Việt Nam hiện nay như: Luật Báo chí năm
1989, được sửa đổi, bổ sung năm 1999. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa
đổi, bổ sung năm 2007, 2012). Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm
2007 là văn bản chứa đựng quy phạm pháp lý quan trọng về trách nhiệm giải trình của
CQĐP, mà cụ thể là cấp xã [144]. Công trình “Nâng cao trách nhiệm giải trình của
Chính quyền địa phương” của Hoàng Thị Giang, trên cơ sở phân tích nội dung thứ 3 của
Chỉ số Hiệu quả quản trị và Hành chính công cấp tỉnh, đã khái quát một số kết quả và
hạn chế về TNGT của CQĐP dựa trên các chỉ số được đo lường [37]. Tuy nhiên, công
trình nêu trên chưa làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến TNGT của CQĐP,
chưa phân tích toàn diện khung điều chỉnh pháp luật về TNGT của CQĐP, việc hệ
thống hóa và đánh giá thực trạng các quy định ở Việt Nam liên quan đến TNGT của
CQĐP chưa toàn diện.
Các công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến thực trạng TNGT và
TNGT của CQĐP
Tiêu biểu có các công trình sau: “Mechanisms of Accountability in Local
Government: An Exploratory Study” của Ron Kluvers, nghiên cứu cho rằng, giá trị
cá nhân là một khía cạnh quan trọng của TNGT, các yêu cầu pháp lý hay tiếp cận
thông tin, hoạt động và mức độ thi hành TNGT phụ thuộc vào giá trị của một cá
nhân. Tuy nhiên, đến nay, vai trò của các giá trị của một cá nhân vẫn chưa được
15
nghiên cứu rộng rãi, đây là một lĩnh vực cần được khám phá đầy đủ hơn [138]. Công
trình “Local Government Accountability and Transparency Opening the Door on
International Best Practic” của Attachment, khẳng định đã có sự dịch chuyển trong
TNGT từ tập trung vào sự tuân thủ các quy định sang các hình thức TNGT mới, các
tổ chức công cộng đã thay đổi cách tiếp cận quản lý, trong đó người dân được đối xử
như khách hàng và TNGT tập trung vào việc đáp ứng các tiêu chuẩn dịch vụ khách
hàng. Các biện pháp giải trình tập trung vào báo cáo về chi phí, hiệu quả và sự hài
lòng của khách hàng. Công trình khẳng định, các giá trị cá nhân và văn hóa tổ chức
là những yếu tố quan trọng của TNGT, đạo đức và sự toàn vẹn cần phải được đặt
trong các giá trị của tổ chức. Từ thực tiễn thành phố Perth khẳng định: Cách tiếp cận
hiện tại đối với TNGT chủ yếu nằm trong cách tiếp cận quản lý truyền thống. Việc
sử dụng các phương thức quản lý công mới còn hạn chế như khảo sát khách hàng, đo
điểm chuẩn và sử dụng các biện pháp hiệu quả [124]. Công trình “Improving
performance and accountability in local government with citizen participation” của PD
Gibson, DP Lacy, MJ Dougherty, đề cập và luận giải lý do tham gia của người dân vào các
hoạt động của CQĐP với việc xác định phạm vi, nội dung trên có sở đó nhằm nâng cao hiệu
suất và TNGT của CQĐP [134].
1.1.3. Tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến quan điểm,
định hướng, giải pháp nhằm tăng cường trách nhiệm giải trình và trách nhiệm
giải trình của chính quyền địa phương
Công trình “Quản trị tốt lý luận và thực tiễn”, đưa ra định hướng hoàn thiện:
quy định trách nhiệm và cơ chế giải trình của các cơ quan nhà nước nhằm bảo đảm
thực hiện đầy đủ trách nhiệm. Và đề xuất các giải pháp: cải cách khung phân cấp,
phân quyền; cải tiến quy chế và TTHC, cải cách đội ngũ công chức; tăng cường các
thiết chế giám sát nhà nước; tạo môi trường cho hoạt động của hội nghề nghiệp; nâng
cao cơ chế truy TNGT của nhà nước từ kênh xã hội công dân, dân chúng [38]. Công
trình “Báo cáo Việt Nam năm 2035 hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và
dân chủ”, đưa ra một số định hướng mang tính gợi mở như: cải cách mối quan hệ
giữa chính quyền trung ương với CQĐP; củng cố vai trò trung tâm của Chính phủ;
tăng cường TNGT của nhà nước trên hai hướng thúc đẩy một tinh thần trách nhiệm
cao hơn nữa của mỗi cá nhân cán bộ, công chức và đề cao TNGT của bản thân mỗi
16
cá nhân cán bộ, công chức nhà nước; tăng cường kiểm soát và cân bằng giữa các
nhánh quyền lực nhà nước; nâng cao khả năng truy TNGT của nhà nước từ phía
người dân [53]. Báo cáo PAPI năm 2015 và 2016, đề xuất để cải thiện cần: CQĐP
chủ động tương tác tích cực với người dân thông qua các buổi tiếp dân định kỳ hoặc
bất thường để nâng cao TNGT trực tiếp với người dân; trên cơ sở Luật Tiếp công dân
năm 2014, xây dựng các cơ chế phù hợp với bối cảnh địa phương nhằm cải thiện tính
giải trình và khả năng đáp ứng yêu cầu của người dân của chính quyền các cấp; tăng
cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể và xã hội dân sự nói chung
[89]. Công trình của Phạm Duy Nghĩa khi bàn về TNGT trong nền hành chính công
đưa ra gợi ý một số giải pháp: đề cao sự tuân thủ, trung thành của cấp dưới đối với
cấp trên; thay đổi các tiêu chí đo lường mức độ hoàn thành công vụ hướng tới kết
quả đầu ra và hiệu suất phục vụ nhân dân; đổi mới tổ chức và hoạt động các thiết chế
có chức năng giám sát như Kiểm toán Nhà nước, các cơ quan có chức năng giám sát
của Quốc hội, cơ quan dân cử địa phương, đảm bảo các thiết chế này độc lập về pháp
lý, tài chính, nhân sự; các hiệp hội ngành nghề độc lập với cơ quan hành chính, và
được tự do bày tỏ quan điểm khách quan của các nhà chuyên môn; có một tầm nhìn
cởi mở hơn với xã hội dân sự và tự do báo chí [143]. Công trình “Đổi mới quản trị
nhà nước theo mô hình quản trị nhà nước tốt”, đưa ra một số hàm ý chính sách có
liên quan đến TNGT như: xây dựng khuôn khổ pháp lý bảo đảm TNGT; nâng cao
nhận thức của toàn xã hội về TNGT [3].
Đối với TNGT của các CQHCNN, công trình “Trách nhiệm giải trình của các
cơ quan hành chính nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, đưa ra các định
hướng hoàn thiện pháp luật về TNGT đối với CQHCNN như: đảm bảo tính hợp hiến,
thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật hiện hành; phù hợp với luật pháp quốc tế và
Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia; gắn liền với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân; xác định rõ lộ trình, kế hoạch hoàn
thiện hệ thống pháp luật có liên quan đến TNGT của CQHCNN. Và xác định các giiar
pháp: ban hành Luật Tiếp cận thông tin, Luật Ban hành quyết định hành chính, sửa đổi
một số quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ...và một số luật
chuyên ngành; cải cách khung pháp lý trong phòng, chống tham nhũng nhằm đảm bảo sự
minh bạch; sửa đổi Nghị định số 90/2013/NĐ-CP; huy động sức mạnh của toàn thể cộng
17
- Xem thêm -