Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com
Chương 1: Nhu cầu viết lại lịch sử
thời Pháp thuộc
Tại miền Nam trước 1975, nền giáo dục phổ thông dựa trên bộ Việt Nam Sử
Lược (1920) của Trần Trọng Kim. Đào sâu về thời Pháp thuộc hơn, có bộ
Việt Nam Pháp thuộc sử 1884-1945 (1961) của Phan Khoang. Các nhà viết
sử lớp sau như Phạm Văn Sơn cũng chỉ dựa trên hai cuốn sử này mà viết
rộng ra, chứ không có khám phá mới.
Trong bài tựa cuốn Histoire moderne du pays d’Annam (1592-1820) [Lịch sử
hiện đại nước Nam (1592-1820)]của Charles B. Maybon, in năm 1920,
Henri Cordier cho biết cuốn sử đầu tiên mà độc giả Pháp được biết về nước
Nam là cuốn Cours d’histoire annamite [Giáo trình lịch sử An Nam] của
Trương Vĩnh Ký in năm 1875.
Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, viết xong năm 1919, in lần đầu năm
1920, dưới thời Pháp thuộc, tất nhiên có sự kiểm duyệt của chính quyền
thuộc địa. Học giả họ Trần, uyên thâm chữ Nho và chữ Pháp, tuy có đọc
những bộ sử của nhà Nguyễn, nhưng ông vẫn đặt niềm tin gần như trọn vẹn
vào tài liệu Pháp. Khi nhận định về những lý do của cuộc xâm lăng, Trần
Trọng Kim lấy lại ý kiến của các sử gia thuộc địa, cho rằng vì triều đình Huế
không chịu canh tân đất nước, áp dụng chính sách bế quan toả cảng, cấm
đạo, diệt đạo, nên người Pháp mới đánh Việt Nam, để cứu giáo dân, giáo sĩ
và bảo vệ tự do buôn bán.
Phan Khoang đào sâu hơn, tiếc rằng ông cũng vẫn nghiêng theo lối trình bầy
sự kiện và cách đánh giá của các sử gia thuộc địa.
Nguyễn Thế Anh trong Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ (Lửa Thiêng, Sài
Gòn, 1970), dùng phương pháp nghiên cứu khoa học hơn, đã đưa ra những
khám phá mới, tuy nhiên trong cuốn sách này, ông vẫn chỉ dựa vào tài liệu
Pháp. Đến cuốn Monarchie et fait colonial au Việt nam (1875-1925) Le
crépuscule d’un ordre traditionnel [Nền quân chủ và vấn đề thuộc địa ở Việt
Nam (1875-1925) Ngày tàn của trật tự truyền thống] (L’Harmattan, Paris
1992), ông đã có một thái độ quân bình hơn.
Học giả Đào Đăng Vỹ khi viết Nguyễn Tri Phương (1974, Kelton in lại tại
Mỹ) cũng không tham khảo Đại Nam Thực Lục mà lại dựa rất nhiều vào
cuốn La conquête de L’Indochine [Sự chinh phục Đông Dương] (Payot,
Paris, 1934) của A.Thomazi, được nhiều người tham khảo về chiến tranh
Đông dương. Thomazi là một quân nhân, không nhắc đến các chiến bại của
Pháp mà chỉ đề cao chiến thắng. Vì vậy, tác phẩm của Đào Đăng Vỹ dù xuất
hiện khá muộn (1974) vẫn còn nằm trong khuôn khổ các sử gia viết theo
quan niệm thuộc địa.
Nguyễn Khắc Ngữ trong cuốn Việt Nam ngày xưa, qua các ký họa Tây
Phương, (Nhóm nghiên cứu sử địa, Montréal, Canada, 1988) đã có công sưu
tầm nhiều hình ảnh, ký họa, vẽ lại các trận chiến, các vụ xử tử giáo sĩ, để
người đọc hôm nay, có thể hình dung được không khí của những hiện trường
thủa trước. Nhưng in lại những sản phẩm này mà không giải thích rõ ràng, là
đã gián tiếp góp phần vào việc tuyên truyền cho quan điểm thuộc địa.
Cuốn sách sau cùng mà chúng tôi muốn đề cập ở đây, là Lịch sử nội chiến
Việt Nam của Tạ Chí Đại Trường, được giải thưởng Văn Học Toàn Quốc, bộ
môn sử 1973 ở Sài Gòn (An Tiêm in lại ở Cali, 1991). Ông là một người viết
sử thuộc lớp trẻ hơn, có đọc cả tài liệu Pháp-Việt, sách của ông được giải
thưởng văn học, khiến cuốn Lịch sử nội chiến Việt Nam có một uy tin nào
đó, được nhiều người trích dẫn, đưa lên Wikipidéa tiếng Việt. Tiếc rằng, ông
cũng vẫn lại rập theo lập luận của sử quan thuộc địa để xác định công lao của
Bá Đa Lộc và những “sĩ quan” Pháp, trong việc giúp Gia Long dựng lại cơ
đồ.
Vậy sử quan thuộc điạ là gì? Tại sao chúng ta phải nghi ngờ lối viết này?
Sử quan thuộc địa
Hầu như tất cả mọi người nghiên cứu về giai đoạn Pháp thuộc đều phải dựa
vào thông tin của các vị thừa sai, vì họ mới chính là những người đi sâu, đi
sát với dân, có tai mắt ở khắp nơi, được sự ủng hộ của giáo dân, biết nhiều
thông tin ngoài lề, không có trong chính sử; hơn nữa họ là các nhà tu hành,
đứng trên mọi nghi ngờ. Vì lẽ đó mà rất nhiều sử gia đã chép lại những
thông tin bịa đặt của giáo sĩ La Bissachère mà không đặt vấn đề. Trường hợp
Bissachère là một ngoại lệ, sẽ nói đến sau, không phải giáo sĩ nào cũng “bất
lương” như thế.
Tuy nhiên, giáo sĩ là một tập đoàn riêng biệt, có những nhu cầu và mục đích
không đi đôi với sự tìm hiểu sự thật lịch sử: Đầu tiên hết, khi nhận nhiệm vụ
truyền giáo, là họ đã quyết rời bỏ gia đình, “một đi không trở lại”, xả thân vì
đạo Chúa. Nghiã vụ tử vì đạo là nghiã vụ cao cả mà họ đón nhận như một
vinh quang. Nghĩa vụ thứ nhì là dìu dắt con chiên, không bỏ rơi con chiên
trong bất cứ hoàn cảnh nào. Việc này giải thích tại sao các giáo sĩ khi bị đuổi
khỏi Việt Nam, từ Alexandre de Rhodes (bốn lần bị bắt, bốn lần trở lại) luôn
luôn tìm cách quay trở lại ngay, bất chấp luật lệ nhà vua, bất chấp án tử hình.
Nhiệm vụ thứ ba của họ đối với toà thánh là truyền giáo, mở rộng ảnh hưởng
của đạo thiên chúa trong vùng họ cai quản. Nhiệm vụ thứ tư là phục vụ đất
nước họ, đó là quyền lợi của nước Pháp, từ Alexandre de Rhodes (15911660) đến Bá Đa Lộc (1741-1799), cả hai linh mục này đã xả thân suốt đời
để phục vụ nước Pháp, dẫn đường cho người Pháp đến Việt Nam. Sự bất
đồng ý kiến giữa Bá Đa Lộc và Nguyễn Ánh, cũng là sự xung đột giữa hai
nguyên tắc: giảng đạo và chiến tranh, giữa hai quyền lợi: nước Pháp và nước
Việt.
Để hoàn tất những nhiệm vụ này, các giáo sĩ đôi khi đã, không phải bẻ cong
ngòi bút, mà họ chỉ viết một nửa sự thật: ví dụ, mô tả việc xử tử giáo sĩ một
cách cực kỳ dã man, nhưng không nói đến nguyên nhân tại sao họ bị xử tử;
không nói đến luật hình ở Việt Nam; giấu kỹ những hoạt động chính trị của
những giáo sĩ giúp phe nổi loạn (Lê Văn Khôi, Tạ Văn Phụng…), để chống
lại triều đình.
Thậm chí giáo sĩ Louvet, còn “dịch” một đoạn dụ rất tàn ác, bảo là của vua
Tự Đức, trong có câu: “Những thầy tu người Việt, dù có chịu bước qua thánh
giá hay không cũng bị chém làm đôi (…) những kẻ tàng trữ người Âu trong
nhà cũng bị chém ngang thận vứt xuống sông” (Louvet, La Cochinchine
Religieuse, II, t.185), không hề tìm thấy ở đâu; hoặc là “ghi lại” những lời vô
nhân đạo, bảo do vua ra lệnh truyền miệng, không cho phép in, để không ai
có thể kiểm chứng được. Những giáo sĩ này, dường như cố tình đưa bộ mặt
“dã man” diệt đạo của vua quan nhà Nguyễn, để giáo hoàng can thiệp, để
chính quyền Pháp đưa quân vào đánh.
Nhiệm vụ của họ là vinh thăng sứ mệnh truyền giáo.
Cuốn La Cochinchine Religieuse, (Đạo giáo ở Nam Kỳ), in năm 1885, của
Louis Eugène Louvet (1838-1900), được coi như cuốn lịch sử tử vì đạo, dưới
thời các “bạo chúa” Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Là ngòi bút biện hộ
đắc lực cho sứ mệnh truyền giáo, cực lực kết án các vua Nguyễn và đặc biệt
căm thù Minh Mạng mà các thừa sai coi là “bạo chúa Néron” Việt Nam.
Louvet viết về sự “vô ơn” của Minh Mạng như sau:
“Các ông Vannier và Chaigneau, hai người Pháp ở lại, duy nhất sống sót
trong mấy người tận tụy đến đây từ năm 1789, khôi phục lại ngai vàng cho
cha ông [Gia Long]. Để thưởng công cho họ, vua Gia Long đã thăng lên
hàng đại thần và cho tham dự hội đồng [nội các]; sự hiện diện của họ làm
Minh Mạng khó chịu, kiếm cách loại trừ”. (Louvet, La Cochinchine
Religieuse, t.32, tất cả những chỗ in đậm là do chúng tôi).
Sự xác định: Những người Pháp đến đây từ năm 1789, đã khôi phục lại ngai
vàng cho Gia Long là một huyền thoại, được các sử gia thuộc địa dầy công
xây dựng.
Một trong những sử gia thuộc địa ảnh hưởng lớn đến sử gia Việt, lớp trước,
phải kể đến Charles Gosselin và cuốn L’Empire d’Annam [Đế Quốc An
Nam] in tại Paris, năm 1904. Charles Gosselin là đại uý trong quân đội viễn
chinh, có mặt trên chiến trường và đã nghiên cứu rất kỹ về xã hội Việt Nam.
Ông viết về xã hội Việt, về phong tục tập quán của người Việt khá sâu sắc,
đặc biệt vấn đề thờ cúng tổ tiên, như một triết lý sống, một ý thức tâm linh đi
trên mọi tôn giáo, mà đạo Thiên Chúa thời ấy đã sai lầm bác bỏ. Ông cũng
viết rất kỹ về việc vua Hàm Nghi bị bắt, qua thông tin của những người trực
tiếp tham dự chiến dịch này, tỏ lòng khâm phục sâu xa hai người con của
Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm, đã phò vua đến chết.
Tuy nhiên, ông đã không thể gạt bỏ được đầu óc chủ quan của người lính
viễn chinh, đến đây với mục đích “chinh phục” và “giáo hoá”, vì thế ông cần
phải biện minh cho chính nghiã, qua hai điểm chính:
- Đổ tội cho các vua Nguyễn trách nhiệm đánh mất nước.
- Biện minh cho cuộc xâm lăng bằng cách thổi phồng sự tàn sát đạo Thiên
chúa dưới triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức; nêu cao “thiên chức cứu
đạo” của đoàn quân viễn chinh.
Hai mục đích này được trình bầy rất rõ trong bài tựa cuốn L’Empire
d’Annam [Đế Quốc An Nam]:
“Những vị hoàng đế nước Nam, bởi sự bội bạc đối với những người Pháp
lẫy lừng đã làm quan cho Gia Long, mà nhờ họ, mới có được ngai vàng; bởi
sự tàn ác đối với những giáo sĩ đồng bào của chúng ta; bởi sự cứng đầu điên
dại bế quan tỏa cảng; bởi sự khinh bỉ nền văn minh phương Tây, vì kiêu
căng ngu muội, họ cho là man rợ; bởi sự kiên trì từ chối tiếp xúc với nước
ngoài, trừ nước Tầu; những hoàng đế này, tôi bảo, phải chịu trách nhiệm sự
suy đồi và sụp đổ của nước họ, phải gánh vác một mình, sự nhục nhã trước
lịch sử.”(Gosselin, L’Empire d’Annam, Paris, Librairie Académique Didier,
Perrin et Cie, Libraires-Editeurs, 1904, t.XVII)
Những lời lẽ trịch thượng, vô căn cứ này của Gosselin lại được tiếp tay bởi
các sử gia Việt Nam, Trần Trọng Kim viết:
“Sức đã không đủ giữ nước mà lại cứ làm điều tàn ác. Đã không cho người
ngoại quốc vào buôn bán, lại đem làm tội những người giảng đạo, bởi thế
cho nên nước Pháp và nước Y Pha Nho mới nhân cớ ấy mà đánh lấy nước ta
vậy” (Trần Trọng Kim, VNSL, bản Bộ quốc gia giáo dục, 1971, t.242).
Phan Khoang, cũng không đi ra ngoài những luận điểm ấy:
“Vua Minh Mệnh cũng có ý tự cường, tự chủ, nhưng không hiểu tình thế
thiên hạ, lại không dung nạp đạo Gia Tô, nên cái mầm xung đột sinh ra từ
đó. Vua Thiệu Trị tiếp tục chính sách ấy, người Pháp có cớ mà gây hấn, và
tiếng súng đầu tiên nổ ở Đà Nẵng năm 1847, đã báo hiệu những ngày mai
đầy giam hiểm.” (Phan Khoang, Lời nói đầu, Việt Nam pháp thuộc sử, Sống
Mới, 1961, t.VI).
Phan Khoang viết tiếp: “Ngài [vua Tự Đức] không hiểu rõ thời thế, cứ tưởng
chỉ có nước Tầu, nước Việt Nam mới là văn hiến (…) chứ các nước khác là
dã man (…) phần đông các quan đại thần lúc bầy giờ như các ông Nguyễn
Đăng Giai, Trương Đăng Quế, Võ Trọng Bình, Nguyễn Tri Phương… đều là
hạng người bảo thủ (…) người nước ta còn cho người Âu châu cũng như rợ
Đột- khuyết đời Đường, rợ Kim đời Tống mà thôi, nghiã là tuy về võ bị họ
tài giỏi, nhưng cũng là giống người dã man, không đáng cho ta bắt chước.
Vì vậy, vua Tự Đức đối với đạo Thiên Chúa và với người Tây dương cứ theo
chánh sách của vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị (…) cho nên khi vua quan đã
sai đường, lầm nẻo thì cả nước bị bại vong.” (Phan Khoang, Việt Nam Pháp
thuộc sử, t.105-106).
Nguyễn Thế Anh, sau khi mô tả biến cố Pháp đánh Đà Nẵng ngày 15/4/1847
theo luận cứ của sử gia Pháp, nhận định:
“Sự thị uy của các chiến thuyền Pháp tại Đà Nẵng cho thấy rõ nguy cơ
đương đe dọa nước Việt Nam. Các quan trong triều vua Tự Đức mới kế vị
Thiệu Trị không phải là không ý thức được mối đe dọa ấy; trong các bản sớ
tâu lên nhà vua, nhiều người đã đề cập đến sự bành trướng thế lực của
người Âu tại Viễn Đông (J. Silvestre, Politique française dans l’Indochine,
Annales de l’École libre des Sciences Politiques, Janvier 1896, trang 55).
Nhưng triều đình đã không có một biện pháp đối phó nào, ngoài sự cấm đạo
Thiên chúa ngặt nghèo hơn trước. Nhân vụ An Phong Công Hồng Bảo mưu
nghịch, tìm sự ủng hộ của các giáo sĩ Âu Châu để đoạt ngôi báu. Vua Tự
Đức nghi ngờ các nhà truyền giáo nhúng tay vào đời sống chính trị Việt
Nam, và cho công bố 2 đạo dụ cấm đạo mới năm 1848 và 1851. Từ năm
1848 đến năm 1860, tại Bắc Việt Nam có đến 10 giáo sĩ người Âu và khoảng
100 giáo sĩ người Việt bị xử tử. Tại Nam Việt Nam vào khoảng 15 giáo sĩ
ngoại quốc và 20 giáo sĩ người Việt bị giết. Hai vạn giáo dân bị tàn sát hay
bị lưu đầy” (Nguyễn Thế Anh, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Lửa Thiêng,
Sài Gòn, 1970, trang 17-18).
Không hiểu Nguyễn Thế Anh căn cứ vào đâu để xác định hai điều:
1- Triều đình đã không có một biện pháp đối phó nào, ngoài sự cấm đạo
Thiên chúa ngặt nghèo hơn trước.
2- Từ năm 1848 đến năm 1860, tại Bắc Việt Nam có đến 10 giáo sĩ người Âu
và khoảng 100 giáo sĩ người Việt bị xử tử. Tại Nam Việt Nam vào khoảng 15
giáo sĩ ngoại quốc và 20 giáo sĩ người Việt bị giết. Hai vạn giáo dân bị tàn
sát hay bị lưu đầy.
Về điểm thứ nhất: Vua Minh Mạng là người, không những đã xây dựng lại
toàn bộ nhà nước Việt Nam từ hành chính, giáo dục, luật pháp, địa lý, sử ký
một cách quy mô; mà trước kinh nghiệm mất nước của Ấn Độ, Mã Lai, Nam
Dương, rồi sau đến chiến tranh nha phiến ở Trung Hoa (1839), và vị trí chiến
lược của nước ta trên Thái Bình Dương, vua đã thấy mối đe doạ ngoại xâm
không thể nào tránh được, nên đã thiết lập một lực lượng quân sự hùng
mạnh. Ngay từ năm 1826, vua Minh Mạng cho xây Hải Vân Quan, trên đèo,
chặn đường tiến của những đạo quân từ Đà Nẵng đánh vào Huế. Năm 1836,
cho xây thành đài kiên cố An Hải và Điện Hải để bảo vệ vịnh Đà Nẵng. Đà
Nẵng được Barrow, người Anh đến đây năm 1793, gọi là vịnh Gibralta của
Á Đông. Vì vậy nhiều lần quân Pháp đánh Đà Nẵng đều thất bại: chỉ đến bắn
phá rồi bỏ đi. Năm 1847, Lapierre và Rigault de Genouilly oanh tạc lén 5
chiến thuyền đồng của vua Thiệu Trị rồi bỏ đi. Năm 1848, 14 chiến hạm của
liên quân Pháp Y Pha Nho đánh vào Đà Nẵng, chiếm được An Hải và Định
Hải, nhưng không thể vượt đèo Hải Vân để đánh Huế, phải bỏ, vào đánh Sài
Gòn. Thiệu Trị và Tự Đức tiếp tục việc phòng thủ như vua cha. Vì vậy mà
người Pháp đã phải để ra 30 năm mới chinh phục được Việt Nam (18581888).
Việc cấm đạo đối với triều Nguyễn không phải là quốc sách, nên chỉ được
ghi lại vài dòng rải rác trong Đại Nam Thực Lục. Dù bị các vị thừa sai gọi là
“bạo chúa”, vua Minh Mạng không cấm hẳn đạo mà chỉ ngăn chặn việc đạo
Thiên Chúa lan rộng, cấm giáo sĩ xâm nhập vào Việt Nam và ra lệnh cho các
giáo sĩ trong nước về Kinh dịch thuật.
Từ năm 1835, sau khi bắt được một số giáo sĩ nhúng tay vào hai vụ loạn nổi
tiếng Lê Văn Khôi trong Nam và Lê Duy Lương ở Bắc, mục đích lật đổ triều
Nguyễn, xây dựng một nhà nước thiên chúa giáo [linh mục Marchand (Cố
Du) bị bắt với 5 phần tử nòng cốt của cuộc nổi loạn Lê Văn Khôi, cùng bị xử
lăng trì], việc cấm đạo mới nghiêm ngặt hơn: giáo sĩ bị bắt sẽ bị ném xuống
sông.
Về điểm thứ nhì: Con số những người tử vì đạo, cũng cần phải kiểm chứng
lại. Bởi nếu đọc các điều khoản cấm đạo dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị,
Tự Đức, thì không thấy lệnh nào giết dân; các vua thường khoan hồng,
truyền cho các quan phải tìm cách giảng giải cho họ hiểu, và giải tán không
cho tập trung ở một nơi, để thoát khỏi ảnh hưởng các cha cố. Vậy con số hai
vạn giáo dân bị tàn sát hay bị lưu đầy khó có thể tin được nếu không có
bằng chứng nói rõ ở đâu, trong những hoàn cảnh nào. Bởi vì thông tin của
các vị thừa sai thường rất tương phản, một mặt họ thổi phồng việc tàn sát
giáo dân, một mặt họ đưa ra những con số rất lớn về những người đã được
rửa tội, trong thời kỳ cấm đạo.
Tiếp tục phỉ báng các vua Nguyễn, Gosselin viết:
“Những lời nguyền rủa dữ dội và những cơn phẫn nộ vô ích của Thiệu Trị,
những than van bất lực và những lễ tế trời của Tự Đức bộc lộ những cố gắng
tột độ của các quân vương yếu đuối như đàn bà này để chống lại sự tiến
công của chúng ta trên vương quốc của họ”.
(Sđd, t.XVIII).
Theo Gosselin, nếu vua Gia long còn sống thì đã… không có chiến tranh, có
lẽ nhà vua đã “dâng” nước cho Pháp vô điều kiện, như giấc mơ của vị giám
mục yêu nước [Pháp] Bá Đa Lộc:
“Nếu chúng ta có được trước mặt một ông hoàng thông minh, sáng suốt, chủ
động như Gia Long, chiến tranh sẽ không xẩy ra (…) nếu những kẻ kế vị đại
đế này có được một vài đức tính của cha ông, thì, dưới sự bảo trợ của chúng
ta, đất nước này sẽ đi vào con đường canh tân giống như nước Nhật. Sự biến
chuyển có thể chậm hơn, vì cá tính hai dân tộc khác nhau trên nhiều điểm,
nhưng cũng đủ để cho người ngoài nể trọng, và thay vì nước Nam ngày nay
sống nhục nhã dưới nền đô hộ của chúng ta, được che bằng hai chữ bảo hộ
khả kính, có thể, sẽ là đồng minh và bè bạn của nước Pháp, thực hiện giấc
mơ cao quý của vị giám mục yêu nước Bá Đa Lộc.” (Sđd, t.XVIII-XIX)
Vần đề Bá Đa Lộc và Nguyễn Ánh sẽ phải nghiên cứu lại. Ông có thực tâm
giúp Nguyễn Ánh hay ông chỉ giúp Nguyễn Ánh để dẫn đường cho Pháp vào
Việt Nam? Người thanh niên 22 tuổi ấy, ở bước đường cùng, đã trao con cho
Bá Đa Lộc để tránh cho nó bị Tây Sơn tiêu diệt? Quốc ấn thì có, vì được
Nguyễn Ánh xác nhận, nhưng “quốc thư” chắc là giả. Lúc ấy Nguyễn Ánh
tìm nhiều lối thoát, định nhờ cả Anh, Hoà Lan, Y Pha Nho… Bản hoà ước
cầu viện, ký giữa Bá Đa Lộc và ngoại trưởng Pháp Montmorin ngày
28/11/1787, là do Bá Đa Lộc viết ra, không có gì cho thấy là ông đã “tham
khảo” ý kiến Nguyễn Ánh.
Bởi sự kiện nhượng các vùng Đà Nẵng, Hải Vân và Côn đảo cho Pháp, là
điều tối kỵ: từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá, Quảng Nam Đà
Nẵng vẫn là khu chiến lược cực kỳ quan trọng, các chúa đều giao cho hoàng
tử trưởng làm trấn thủ; đèo Hải Vân là yết hầu của Huế, chiếm được ải này là
có đường đánh vào Kinh đô. Một người tài trí như Nguyễn Ánh chẳng thể
không biết điều đó.
Cuối cùng, vì nhiều lý do, sẽ nói sau, Louis XVI không giúp, khiến Nguyễn
Ánh thoát mọi nợ nần với Pháp mà có lẽ trong bước đường cùng, ông đã
không chủ động được. Lá thư ông viết ngày 31/1/1790, cám ơn Pháp hoàng
một cách hoan hỉ vì đã không giúp, chứng tỏ sự kiện này.
Tất cả những điểm này cần được khảo sát lại từng chi tiết, từng ngõ ngách,
đọc kỹ thư từ của Bá Đa Lộc gửi Hội thừa sai và chính phủ Pháp, mới có thể
tìm được một phần sự thật và hiểu tại sao các sử gia thuộc địa vinh thăng Bá
Đa Lộc lên hàng “vĩ nhân yêu nước” và cho rằng nếu vua Gia Long còn, thì
nước Nam sẽ vào tay Pháp không tốn một xu, như nguyện ước của Bá Đa
Lộc.
Trở về lý do của cuộc xâm lăng, thì đây mới là lý do thực sự cuộc xâm lược
qua lời Gosselin thổ lộ với độc giả Pháp:
“Đồng bào ta, không thông hiểu lịch sử, cho rằng nước Pháp đã bị lôi kéo
can thiệp vào nước Nam chỉ vì muốn hỗ trợ các giáo sĩ, hay muốn trả đũa
những hành động gây hấn đối với họ và sự tàn sát đạo Thiên chúa. Thực ra,
những giáo sĩ chỉ là cái cớ để chúng ta tấn công nước Nam. Bị mất Ấn Độ
trong thế kỷ thứ mười tám, địch thủ miên viễn của ta là nước Anh, ngày
càng bành trướng nhanh ở Viễn Đông, bắt buộc ta phải có chỗ đứng ở
biển Đông, nếu không sẽ bị mất hết, nếu không sẽ bị rơi vào tình trạng
thấp hèn đáng khinh bỉ. Nước Nam đã cho ta cơ hội, sự tàn sát các giáo sĩ
người Pháp đã cho ta cái cớ, chúng ta vội vàng nắm lấy là điều dễ hiểu, và
đến giờ này sự chiếm hữu đã toàn vẹn”. (Sđd, t.XIX).
Gosselin còn nói đến lý do số mệnh, tạo ra từ vị thế địa lý chính trị của Việt
Nam.
Ông đã đặt bút viết những hàng tự cao tự đại sau đây:
“Bởi lỗi của những hoàng đế nước Nam sau Gia Long, mà chúng tôi sẽ trình
bầy những khía cạnh khác nhau, đất nước họ nằm trên đường dẫn đến
nước Tầu, định mệnh bắt buộc phải rơi vào vào tay một cường quốc Âu
châu. Không kiêu ngạo, chúng ta mạn phép cho rằng rơi vào tay ta là một
đặc ân của số mệnh. Thử hỏi nếu rơi vào tay nước Anh thì sẽ ra sao? Không
ai lạ gì chính sách của Anh đối với thổ dân ở Úc, sự trấn áp những nước
cộng hoà Nam Phi bằng những hành vi bỉ ổi, sự xấc xược hỗn hào hành hạ
những dân tộc mà họ đã chinh phục bằng võ lực …” (Sđd, t.XIX-XX).
Những lời trên đây của Gosselin tiêu biểu cho quan niệm sử học thực dân:
biện minh cho “thiên chức giáo hoá” của người Âu và đạo Thiên Chúa, kể lại
“công ơn” của người Pháp đối với Việt Nam. Nhờ Pháp mà Nguyễn Ánh
mới “xây dựng lại được cơ đồ”. Lên ngôi, ông “biết ơn” Bá Đa Lộc, trọng
dụng các sĩ quan Pháp “đã giúp ông lấy lại ngai vàng” như Chaigneau,
Vannier… phong làm quan lớn trong triều. Nhưng sau khi Gia Long mất,
Minh Mạng “vô ơn bạc nghiã”, đuổi họ về, “bế quan toả cảng, tàn sát đạo
Thiên Chúa”. Thiệu Trị, Tự Đức rập theo đường lối “dã man” hậu tiến này.
Vì vậy mà Pháp phải can thiệp để cứu giáo sĩ, giáo dân, “khai hoá” cho dân
Việt.
Nhưng những lý do “vững như bàn thạch” này lại hoàn toàn bị triệt tiêu, khi
chính Gosselin đưa ra lý do tối hậu: Giáo sĩ chỉ là cái cớ.
Pháp đánh chiếm Việt Nam, vì ở thế cùng:
- Bị mất Ấn Độ trong thế kỷ thứ mười tám, đối thủ miên viễn của ta là
nước Anh, ngày càng bành trướng nhanh ở Viễn Đông, bắt buộc ta phải
có chỗ đứng ở biển Đông, nếu không sẽ bị mất hết, nếu không sẽ bị rơi
vào tình trạng thấp hèn đáng khinh. Sự thực Pháp mất cả Canada và Mỹ
nữa.
Và, vì vị thế địa lý chính trị thuận lợi của Việt Nam:
- Nước Việt nằm trên đường dẫn đến nước Tầu, định mệnh bắt buộc phải
rơi vào vào tay một cường quốc Âu châu.
Nhìn dưới những góc độ này, thì chúng ta không còn có lý do gì để mơ
tưởng rằng cứ mở cửa cho Pháp vào tự do giảng đạo là mọi chuyện xong
xuôi, êm đẹp, sẽ không có sự xâm lăng!
Vấn đề cần được đặt lại: Nếu các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, không
đề phòng người Âu và hạn chế sự phát triển của đạo Thiên chúa, thì nước ta
đã bị đã bị xâm chiếm từ bao giờ?
Silvestre, cựu Giám đốc chính trị và dân sự Bắc Kỳ, giáo sư trường Cao
Đẳng Chính Trị, đã không ngần ngại nói lên sự mãn nguyện của ông và nước
Pháp, sau khi ký xong hiệp ước 5/6/1862, lấy được ba tỉnh miền Đông Nam
Kỳ: Biên Hoà, Gia Định (Sài Gòn), Định Tường (Mỹ Tho) và Côn đảo, ông
viết:
“Ngày mùng 5 tháng 6 năm 1862 này đánh dấu sự thành công, chúng tôi
không dám nói là của đường lối chính trị Pháp mà là của một ý tưởng Pháp.
Sa xuống từ 180 năm trước trong địa hạt hoạt động của Pháp (…) ý tưởng
Pháp đã được thực hiện, dẫn chúng ta đến sự sở hữu trọn vẹn và toàn thể
một đất nước rộng lớn và phì nhiêu và nắm trong tay một trong những đế
quốc hùng mạnh nhất vùng Đông Á“. (Silvestre, Politique Française dans
L’Indochine, Annales de l’Ecole des Sciences Politiques 1896, t.195).
Paul Doumer, toàn quyền Pháp, nhận định về người Việt Nam:
“Điều không thể chối cãi được là những người này [người Việt] hơn hẳn tất
cả các dân tộc xung quanh. Người Mên, Lào, Xiêm không chống được họ.
Không một dân tộc nào ở đế quốc Ấn Độ có những đức tính của họ, phải tới
Nhật mới thấy có một giống người tương đương. Người Việt và người Nhật
chắc chắn thủa xưa có bà con với nhau. Cả hai đều thông minh, cần mẫn và
can đảm.” (Paul Doumer, L’Indo-Chine française, 2e édition, Paris, Vuibert
et Nony, Éditeurs, 1905, t.40-43).
Những nhận xét có ý khen ngợi của Paul Doumer, cũng là để thầm khâm
phục chính nước Pháp đã thắng một dân tộc như thế, và ông còn đi xa hơn
nữa:
“Đế quốc An Nam đã đạt tới mức hùng mạnh nhất, cách đây một thế kỷ [tức
là 1803], khi được người Pháp cố vấn và lãnh đạo“. (Paul Doumer, sđd,
trang 43).
Vẫn một giọng bề trên, kể những công lao (chưa bao giờ có thực) của nước
Pháp đối với vua Gia Long, với nước Việt.
Những lời trên đây của Silvestre và Doumer, đối với người Việt ngày nay có
nghiã gì?
Chúng ta không thể dựa vào đó để kiêu căng, cũng không phải họ phỉnh phờ
vô bằng cớ. Mà những lời đó chứng tỏ rằng khi Pháp đánh chiếm nước ta, họ
đã đứng trước một đất nước hùng mạnh vào bậc nhất vùng Đông Á, một dân
tộc có cá tính giống như dân Nhật, khiến ngày nay, bắt buộc chúng ta phải
nhìn lại chính mình, để so sánh với tiền nhân và các dân tộc bên cạnh, nhất
là Nhật Bản. Và nhất là phải nhìn lại công lao của Gia Long, Minh Mệnh và
các quần thần trong việc thống nhất lãnh thổ và dựng nên một nước độc lập,
hùng cường.
Giới nghiên cứu Pháp
Hai nhà nghiên cứu nổi tiếng của Pháp, tiên phong trong việc tìm hiểu lịch
sử Việt Nam, là Maybon và Cadière.
Linh mục Cadière, chủ bút tập san Đô Thành Hiếu Cổ Bulletin des Amis du
Vieux Huế (BAVH), đã có nhiều công trình nghiên cứu về thời kỳ này, trải
dài trên toàn bộ tập san BAVH và Bulletin de l’École d’Extrême Orient
(BEFEO), đặc biệt hai loạt bài Les documents relatifs à l’époque de Gia
Long, (Tài liệu liên quan đến thời Gia Long) in trên tập san Viễn Đông Bác
Cổ (BEFEO), số 12, 1912 và loạt bài Les français au service de Gia Long
(Những người Pháp giúp Gia Long), in trên BAVH trong 9 năm, từ 1917 đến
1926.
Sử gia Maybon, với hai cuốn Histoire moderne du pays d’Annam (15921820) [Lịch sử hiện đại nước Nam (1592-1820)], (Plon-Nuorrit, Paris, 1920)
và La relation Bissachère (Ký sự Bissachère, do ông sưu tầm, viết lời giới
thiệu và chú thích (nxb Champion, Paris, 1920). Hai tác phẩm chủ yếu của
ông về giai đoạn lịch sử này. Chúng tôi sẽ trình bầy trong những phần sau.
Histoire moderne du pays d’Annam (1592-1820), có lời đề trên trang đầu
“Tặng Albert Sarraut, dân biểu vùng L’Aude, cựu Toàn quyền Đông Dương,
Bộ trưởng bộ thuộc địa, phản ánh ít nhiều “lập trường” của tác giả.
Trẻ hơn có Georges Taboulet với bộ La geste française en Indochine [Huân
trạng của người Pháp ở Đông Dương] 2 tập (Andrien-Maisonneuve, Paris,
1955) có lối trình bầy mới, tuy tên sách vẫn mang dáng vẻ “thực dân”, qua
chữ “la geste” ngụ ý: “huân trạng”, “thiên anh hùng ca” của người Pháp tại
Đông Dương. Bìa tập I, in chân dung Chaigneau, người được các sử gia
thuộc điạ coi là “một trong anh hùng có công đầu giúp vua Gia Long chiến
thắng và là đại sứ Pháp đầu tiên ở Việt Nam”.
Cuốn sách của Taboulet được rất nhiều người trích dẫn.
Trên đây là ba tác giả chính, được người ta tin tưởng và sử dụng để vẽ nên
bộ mặt lịch sử Việt Nam thời Gia Long dựng nghiệp. Chúng ta sẽ còn nhiều
dịp đề cập đến những tác giả này.
Thế hệ sử gia mới
Hai mươi năm sau, một thế hệ sử gia mới xuất hiện:
Daniel Hémery cho in cuốn Révolutionnaires vietnamiens et pouvoir
colonial en indochine (communistes, trotskystes, nationalistes à Saigon de
1932 à 1937) [Những nhà cách mạng Việt Nam (cộng sản, trốt-kít, quốc gia
tại Sài Gòn từ 1932 đến 1937)] (François Maspéro, Paris, 1975). Có lẽ đây là
lần đầu tiên chữ colonial (thực dân) xuất hiện trên bìa một cuốn sách lịch sử
do người Pháp viết, theo đúng nghiã thực dân của nó. Tác phẩm đi sâu vào
nội tình của nhóm La Lutte (Tranh Đấu), tuần báo viết tiếng Pháp, xuất hiện
ở Sài Gòn thập niên 1930, do hai nhóm cộng sản và trốt kít chủ trương. Tác
giả mở rộng địa bàn vào cuộc cách mạng chống Pháp của thành phần trí thức
và lao động ở miền Nam, phơi bầy bộ mặt thật của chính quyền thực dân.
Philippe Devillers có cuốn Paris-Saigon-Hanoi. Les archives de la guerre
1944-1947 [Paris-Sài Gòn-Hà Nội. Những văn kiện về cuộc chiến 19441947] (Gallimard/Juilliard, Paris, 1988). Devillers theo cách làm việc của
Taboulet để dựng lại bối cảnh lịch sử 1944-1947 qua các văn bản. Đây là
một trong những tác phẩm đầu tiên vạch ra trách nhiệm của Pháp trong
cuộc chiến Đông Dương, nhờ kho tài liệu mới của bộ quốc phòng.
Charles Fourniau với cuốn Vietnam domination coloniale et résistance
nationale (1858-1914) [Việt Nam, đô hộ thực dân và kháng chiến quốc gia],
Les Indes Savantes, Paris, 2002. Dày 845 trang. Lần này cả bốn chữ: đô hộ,
thực dân, kháng chiến, quốc gia, đều có mặt trên bìa sách, chứng tỏ một
tương quan đồng đẳng. Tác phẩm bao gồm hơn nửa thế kỷ lịch sử trong cái
nhìn mới, xứng đáng là một cuốn sử hiện đại, trung thực. Tác phẩm đào sâu
vào mặt sau của nhiều sự kiện mà các sử gia lớp trước chỉ nhìn thấy bề mặt,
hoặc không muốn đi sâu. Chính Fourniau đã ít nhiều vẽ lại khuôn mặt đích
thực của các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, dựng lại sự thật về các
chính sách của triều Huế để bảo tồn nền tự chủ của dân tộc trong thế kỷ XIX.
Dựng lại các trận chiến một cách trung thành, không tô hồng phiá Pháp,
không bôi nhọ phía Việt.
Gần đây hơn, François Guillemot, với cuốn Đai Viêt indépendance et
révolution au Việt Nam [Đại Việt, độc lập và cách mạng Việt nam], 738
trang, Les Indes Savantes, Paris, 2012. Nghiên cứu về đảng Đại Việt, đồng
thời tìm hiểu và trình bày những phong trào cách mạng quốc gia đã bị cộng
sản chôn vùi, bị dân tộc bỏ quên hoặc không hề biết đến.
Céline Marangé với cuốn Communisme vietnamien (1919-1991) [Cộng sản
Việt Nam (1919-1991)] Sciences Po, Les presses, 2012, mở ra một lối nghiên
cứu mới về Hồ Chí Minh và đảng cộng sản khác hẳn các sử gia thiên tả đi
trước như Hémery, Brocheux, Fourniau.
Như vậy, có thể nói là các sử gia Pháp, lớp sau, đã phần nào làm xong công
việc của họ: tìm cách viết về giai đoạn lịch sử đẫm máu giữa hai dân tộc,
một cách trung thực hơn, gần với sự thực hơn. Làm như vậy là họ đã ít nhiều
trả được món nợ mà tổ tiên thực dân của họ đã gây ra và lấy lại danh dự cho
nước Pháp.
Về phiá Việt Nam
Người đọc Việt Nam vẫn chờ đợi những tác phẩm lịch sử đứng đắn, viết
bằng tiếng Việt, theo tinh thần mới, bởi những gì Trần Trọng Kim viết dù
đáng nể, cũng đã được gần 100 năm rồi.
Về giai đoạn nào cũng cần cả. Về giai đoạn hiện đại, không lẽ chúng ta lại
phải dịch sách của Fourniau để có một cuốn sử đúng đắn, mặc dù việc dịch
là cần thiết, nhưng nó không miễn cho chúng ta việc viết lại lịch sử nước
mình.
Sự nhìn nhà Nguyễn theo quan niệm của các giáo sĩ và quân đội viễn chinh
của các sử gia lớp trước, từ Trương Vĩnh Ký đến Trần Trọng Kim, Phan
Khoang… trong một thế kỷ nay, đã ảnh hưởng sâu xa đến đầu óc mọi người:
chúng ta “xấu hổ” về “sự yếu đuối và thiển cận” của triều đại cuối cùng.
Sự cố tình bôi nhọ nhà Nguyễn theo nhu cầu chính trị của đảng cộng sản từ
1945, đưa đến hậu quả: giới trẻ không tha thiết với lịch sử, có mặc cảm về
dân tộc, không thèm học những bài lịch sử giả tạo trong chương trình giáo
khoa.
Trong không khí chôn vùi nhà Nguyễn ở Bắc, đặc biệt qua những lời lẽ thô
bạo của Trần Huy Liệu, viện trưởng Viện Sử Học thập niên 60; thì tổ phiên
dịch của Viện Sử Học, với các học giả, sử gia, dịch giả như Đào Duy Anh,
Hoa Bằng, Phạm Trọng Điềm, Trần Văn Giáp, Nguyễn Ngọc Tỉnh, vv… vẫn
âm thầm làm việc, dịch những bộ chính sử của nhà Nguyễn như Khâm Định
Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Liệt Truyện, Đại Nam Thực Lục,
Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ… Đó là đóng góp lớn lao của ban dịch
thuật viện sử học, mà ngày nay phần lớn đã qua đời.
Nhờ công lao của họ mà những người nghiên cứu không biết chữ Hán, có
những tư liệu đúng đắn về phía Việt để đối chiếu với phiá Pháp. Và cũng vì
lẽ đó mà chúng ta không thể lười biếng mãi, cứ để cho người Pháp viết hộ,
nghiên cứu hộ, phải tự cầm bút viết sử nước mình.
Đại Nam Thực Lục do vua Minh Mạng cho soạn, nhưng vua không duyệt,
sách bắt đầu in khi vua đã qua đời, dưới triều Tự Đức, vậy dưới triều Minh
Mạng có thể nói là các sử thần đã có sự tự do viết sử. Sử viết theo lối biên
niên, ghi các truyện xẩy ra hàng ngày, ghi cả những lời vua nói với các quan
trong triều. Tổng tài (tức chủ biên) là các quan đầu triều có uy tín, liêm khiết,
như Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản… đã sống cả ba triều Minh Mạng,
Thiệu Trị, Tự Đức, cho nên mọi việc cũng khó có thể chép sai. Nhờ thế mà
ta biết được những gì đã xẩy ra trong nội bộ triều chính, những bàn luận giữa
vua và các đại thần về chính sách đối phó với ngoại xâm. Nhờ những ghi
chép này, mà ta biết vua Minh Mạng nói gì về việc cấm đạo, vua Thiệu Trị
có phản ứng thế nào đối với việc hai chiến thuyền Pháp gây hấn ở cửa Đà
Nẵng ngày 15/4/1847; biết được những bàn bạc của vua Tự Đức với Trương
Đăng Quế, Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Văn Tường,… về chiến lược đối
đầu với Pháp trong suốt thời đại Tự Đức trị vì.
Đại Nam Thực Lục phản ảnh chính sách cai trị, cách điều hành nhà nước, sự
thất bại và thành công ở mỗi chặng đường, tư cách của các vua, các quan.
Cũng nhờ vào đó mà ta có thể gột rửa nhãn hiệu “bạo chúa”, “Néron
Annam”, mà các thừa sai đã gán cho vua Minh Mạng từ hơn 100 năm nay.
Cũng nhờ vào những bộ sử này mà ta biết vua Gia Long làm những việc gì,
lính Pháp giúp gì cho Nguyễn Ánh? Ai xây thành? Ai đắp luỹ? Ai đóng
thuyền? Ai đúc súng? Chúng ta có chứng cớ để bác bỏ hoàn toàn luận điệu
của các sử gia thực dân, không những họ đã cướp nước, mà còn cướp cả quá
khứ, cả lịch sử của ta nữa.
Công việc mênh mông, mà người biết tiếng Pháp ở trong nước ngày càng
giảm, nếu không bắt đầu lúc này, thì ai làm hộ, mai sau?
Sự xuyên tạc lịch sử đã lên tới tầm mức toàn cầu, nhờ Internet. Khi bấm vào
những mục từ Puymanel, Bá Đa Lộc, Chaigneau… trên Wikipédia, ta thấy
họ trở thành các ông tổ của ngành binh bị và cai trị ở Việt Nam, họ ngồi trên
đầu vua Gia Long.
Nhờ vào sự dịch thuật của những bộ sử đồ sộ này của nhà Nguyễn mà ta có
những chứng từ xác đáng để đối chiếu với tài liệu Pháp, để nhận diện lại
những trận đánh, những chiến thắng, chiến bại, những hoà ước, những thủ
đoạn… rút ra những gì gần với sự thực, để tái tạo lại bộ mặt lịch sử, từ thời
điểm Gia Long khởi nghiệp.
Biết rõ hơn về cuộc chiến chống Pháp trong thế kỷ XIX, mà người Pháp đã
phải bỏ ra 30 năm mới hoàn tất cuộc chinh phục.
Viết lại lịch sử theo tinh thần mới là một nhu cầu, một kinh nghiệm, một cần
thiết cho dân tộc, nhất là cho giới trẻ, trước cuộc đấu tranh với Trung quốc,
để dành lại chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa.
Trong bối cảnh đó, bộ sách Nguyễn Văn Tường (1824-1886) và cuộc chiến
chống đô hộ Pháp của nhà Nguyễn của Nguyễn Quốc Trị xuất hiện đúng lúc,
góp phần vào những bước đầu xây dựng lại một nền sử học đúng nghiã.
Chương 2: Giới thiệu bộ sử Nguyễn
Văn Tường của Nguyễn Quốc Trị
Bộ sách lịch sử “Nguyễn Văn Tường (1824-1886) và cuộc chiến chống đô hộ
Pháp của nhà Nguyễn” xin gọi tắt là Nguyễn Văn Tường của Nguyễn Quốc
Trị, do tác giả xuất bản năm 2013 tại Maryland, Hoa Kỳ, đáp ứng đúng nhu
cầu nhìn lại và viết lại lịch sử.
Cảm tưởng đầu tiên của người đọc là sự ngạc nhiên trước một công trình
nghiên cứu mới mà từ lâu những người quan tâm đến lịch sử vẫn hằng chờ
đợi, không chỉ đối với giai đoạn hiện đại, mà cả về cuộc chiến chống Pháp
của nhà Nguyễn, bởi hầu hết chúng ta, vì thiếu sách sử, vì không đọc được
chữ Hán, vì kém Pháp văn, đã trưởng thành trong tình trạng thiếu hiểu biết
lịch sử nước mình.
Nguyễn Quốc Trị, sinh năm 1929, xuất thân Đại học Quốc gia Hành chánh
và Đại học Luật khoa Sài Gòn. Là viện trưởng cuối cùng của Học viện Quốc
gia Hành chánh. Là cháu đời thứ ba của quan phụ chính đại thần Nguyễn
Văn Tường. Với mục đích tìm hiểu những gì “ông cố” đã làm để gây tiếng
xấu trong lịch sử, Nguyễn Quốc Trị không những đã truy tìm hành trình đích
thực của Nguyễn Văn Tường mà còn điều tra lại những sự kiện lịch sử xẩy
ra dưới triều Nguyễn, đánh đổ những thành kiến sai lầm về các vua Gia
Long, Minh Mệnh, Tự Đức. Ông tố cáo những giả trá trong cách hành xử
của các nhà chính trị, quân sự, giáo sĩ Pháp; sự bóp méo lịch sử của những
ngòi bút thuộc địa và giáo hội thừa sai; sự cố tình bôi nhọ triều Nguyễn nói
chung, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết nói riêng; cốt để trình bầy
một bộ mặt lịch sử có lợi cho chế độ thực dân.
Nhờ những bản tấu của Nguyễn Văn Tường, do ba người cháu nội của quan
phụ chính sao chép lại từ các bộ, viện và được phổ biến trong cuộc hội hội
thảo chủ đề Nhóm chủ chiến trong triều đình Huế cuối thế kỷ XIX, tổ chức tại
Đại học sư phạm, Sài Gòn, ngày 12/11/1991, mà người ta biết rằng chính
Nguyễn Văn Tường là tác giả sách lược “hòa để thủ, thủ để mưu chiến”, mà
các triều Tự Đức, Kiến Phúc và Hàm Nghi đã ứng dụng để đối phó với cuộc
xâm lăng của Pháp.
Từ năm 2002, Nguyễn Quốc Trị đã chuyên tâm nghiên cứu, sao lục tài liệu ở
các tàng thư Pháp, Mỹ, đối chiếu với kho tư liệu Việt. Bộ sách của ông đồ
sộ, đưa ra nhiều vấn đề, đi vào nhiều chi tiết nhưng cách sắp đặt chưa thật sự
được hệ thống. Nếu tác giả chia sách làm nhiều quyển (hoặc nhiều chương
mục), sắp xếp theo chủ đề, hoặc theo từng nhân vật, hoặc theo thứ tự ngày
tháng, có lẽ độc giả dễ tiếp nhận hơn.
Ngoài ra, sách viết với chủ ý bạch hoá những vấn đề đưa ra, cho nên phần
diễn lại lịch sử đích thực đôi khi bị chìm đi. Có lẽ sau khi đã đẩy lui những
thông tin sai lầm, thiết tưởng tác giả nên tóm tắt lại mỗi vấn đề, mỗi sự kiện,
để làm nổi trội bộ mặt lịch sử sau khi đã được tìm tòi, phân tích, minh chứng
một cách khoa học. Ở trong nước, Trần Xuân An, hậu duệ đời thứ năm của
Nguyễn Văn Tường có viết bộ truyện ký tựa đề Phụ chính đại thần Nguyễn
Văn Tường (nxb Văn Nghệ tpHCM, 2004) theo lối lịch sử tiểu thuyết, dựa
trên những sự kiện có thật ghi trong Đại Nam Thực Lục, tiếc rằng bộ sách
này không mấy giá trị.
*
Bộ sách Nguyễn Văn Tường dày 1138 trang khổ lớn (21×27) chia làm hai
tập, viết về sự nghiệp Nguyễn Văn Tường, vị phụ chính đại thần đã bôn ba lo
việc nước nhưng bị các sử gia Pháp Việt chôn vùi như một người “tham ô,
hà lạm” thậm chí “bán nước” vì đã ký hòa ước Giáp Thân 1884, nhận sự bảo
hộ của Pháp. Tác giả trình bầy sách lược chống Pháp của Nguyễn Văn
Tường: “hòa để thủ, thủ để mưu chiến”, mà theo ông, đã được vua Tự Đức
chấp nhận; đồng thời mở rộng thêm nhiều vấn đề khác, giải mã những sai
lầm về các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức; tìm hiểu những
khúc mắc trong mối quan hệ chính trị, ngoại giao và quân sự của triều
Nguyễn với Pháp.
Tập I, gồm những chương:
1- Chương một, tựa đề Nguyễn Văn Tường và sách lược chống đô hộ Pháp:
Tác giả dẫn lại hành trình Nguyễn Văn Tường từ 1862 đến 1886, khi ông
mất.
Khi Nguyễn Văn Tường bắt đầu có trách nhiệm chính trị và ngoại giao, thì
vua Tự Đức đã phải ký hiệp ước Nhâm Tuất (5/6/1862), nhượng cho Pháp 3
tỉnh miền Đông Nam Kỳ, cốt yên mặt Nam, để Nguyễn Tri Phương ra Bắc
dẹp loạn.
Sau khi đã bình định ba tỉnh chiếm được, bất chấp hiệp ước Nhâm Tuất, năm
1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ.
Năm sau, 1868, Nguyễn Văn Tường dâng kiến nghị đầu tiên lên vua Tự
Đức, ngụ ý: thường thì phải đánh rồi mới thủ, thủ rồi mới hòa; nhưng tình
thế đã nguy ngập, ta phải hòa trước để thủ, thủ rồi mới mưu chiến” (Bản tấu
ngày 8/3/1868, Nguyễn Văn Tường I, t.25).
Con đường mềm dẻo trong chính trị và ngoại giao này sẽ được Nguyễn Văn
Tường áp dụng gần 20 năm, dưới triều Tự Đức, khi đánh khi hòa, mỗi chặng
là một đương đầu, một khó khăn, cho tới khi ông bị Pháp bắt, đầy đi Tahiti
năm 1885 và mất năm 1886.
2- Chương hai: Sử thuộc địa bôi lọ vua quan nhà Nguyễn và Nguyễn Văn
Tường: Tác giả phản bác những luận điểm của sử gia thuộc địa và một số
điều được sử gia Việt chép lại. Về “công ơn” của Bá Đa Lộc đối với vua Gia
Long: ơn cứu mạng, ơn giúp Nguyễn Ánh dựng lại cơ đồ, về những sự vu
khống: vua Gia Long “tàn bạo”, “nhỏ nhen”, đối xử tàn tệ với nhà Lê; vua
Minh Mạng “bội bạc” “quên ơn” Pháp, “giết đạo, giết hại công thần, diệt
dòng trưởng hoàng tử Cảnh”; Nguyễn Văn Tường “tư thông với Học phi,
giết Kiến Phúc”, vv…
3- Chương ba: Nguyễn Văn Tường và vua quan nhà Nguyễn tham lam: Tiếp
tục giải mã những vu cáo của sử gia và chính quyền thuộc địa đối với
Nguyễn Văn Tường qua việc sử dụng thông tin sai lầm và văn kiện giả mạo.
Đồng thời đưa ra những chứng từ xác định tư cách và hành động của các vua
Thiệu Trị, Tự Đức, bị bôi nhọ là bạo chúa.
Tập II, tiếp tục chứng minh những luận điểm xuyên tạc Nguyễn Văn Tường
và các vua triều Nguyễn qua các chương bốn và năm.
4- Chương bốn: Vua quan nhà Nguyễn và Nguyễn Văn Tường tàn nhẫn? Tác
giả phản bác sự quy kết Nguyễn Văn Tường những tội: diệt đạo, đi với công
giáo để giết Văn Thân, giết công thần Trần Tiễn Thành, giết ba vua: Dục
Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc.
Những vần đề nêu ra đều được tác giả giải quyết bằng sự đối chiếu văn bản:
Trần Tiễn Thành bị Kỳ ngoại hầu Hồng Chuyên giết chết. Dục Đức bị truất
phế vì theo Pháp. Hiệp Hòa bị giết vì mật thông với Khâm sứ de Champeaux
để diệt phe chống Pháp. Vua Kiến Phúc chết vì bệnh.
5- Chương năm: Ai gian trá: Người Pháp hay vua quan triều Nguyễn? Nêu
ra những thủ pháp bội nhọ trong sách vở, ca dao, vè, viết lách xuyên tạc,
không kiểm chứng. Đặc biệt trong chương này, tác giả đã có những khám
phá quan trọng:
a/ Vụ đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất: Khi Francis Garnier tấn công Hà Nội,
không hề có tối hậu thư, Nguyễn Tri Phương không ngờ Garnier dám động
thủ, vì vua Tự Đức đang thương lượng, không muốn dùng bạo lực. Giám
mục Puginier huy động giáo dân tiếp tay với Francis Garnier trong việc đánh
chiếm Bắc Kỳ.
b/ Vụ đánh Bắc Kỳ lần thứ hai: Henri Rivière bất chấp hiệp ước 1874, dùng
thủ đoạn và sự nội công của giới thừa sai.
Riêng chương năm này đã là một cuốn sách nghiên cứu về hai sự kiện lịch
sử chính trong cuộc chiến Bằc Hà, gây ra cái chết của hai vị đại thần Nguyễn
Tri Phương và Hoàng Diệu, mà cho tới nay, vì thiếu sự giải thích minh bạch,
chúng ta vẫn không hiểu tại sao Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu lại có
thể thua trận một cách dễ dàng như thế, trước hai kẻ giang hồ như Francis
Garnier và Henri Rivière.
Đặc biệt về việc đại tướng Nguyễn Tri Phương để mất thành Hà Nội, như
trên đã nói, Nguyễn Quốc Trị chứng minh rằng vì Francis Garnier tấn công
bất ngờ, không hề có tối hậu thư như lời đồn đại, Nguyễn Tri Phương được
lệnh vua không động thủ, để điều đình.
Đây không phải là lần đầu tiên quân Pháp dùng những thủ đoạn lừa gạt để
tấn công.
Khi đánh Đà Nẵng lần đầu năm 1847, dưới thời vua Thiệu Trị, Lapierre và
Rigault de Genouilly cũng đã đánh lén: bất ngờ bắn phá tan 5 thuyền đồng
của nước ta ở vịnh Đà Nẵng, trong khi đang đợi thư vua trả lời. Lapierre đã
đánh lén và nhờ giám mục Forcade biện minh cho hành động nhơ nhuốc này
như thế nào?
Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong bài Tìm hiểu cuộc tấn công Đà Nẵng
ngày 15/4/1847, cuộc chiến đầu tiên của Pháp ở Việt Nam mà ít người để ý
tới. Chính vì trận ấy mà vua Thiệu Trị phẫn uất, mấy tháng sau mất và việc
giao thiệp với Pháp và người Âu bị đình chỉ trong gần 10 năm.
*
Thủ pháp bôi nhọ các vua triều Nguyễn trực chỉ vua Minh Mạng, là biện
pháp chung của các vị thừa sai và các sử gia thuộc điạ. Tại sao vua Minh
Mạng lại bị giới thừa sai và sử gia thuộc địa cay độc kết án? Bởi ông là vị
- Xem thêm -