Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Lịch sử Bàn về khế ước xã hội...

Tài liệu Bàn về khế ước xã hội

.PDF
54
194
114

Mô tả:

BÀN VỀ KHẾ ƯỚC XÃ HỘI
BÀN VỀ KHẾ ƯỚC XÃ HỘI QUYỂN THỨ NHẤT Tôi muốn tìm xem trong trật tự dân sự có chăng một số qui tắc cai trị chính đáng, vững chắc, biết đối đãi với con người như con người; và có chăng những luật pháp đúng với ý nghĩa chân thực của nó. Trong bài nghiên cứu này tôi gắn liền cái mà luật pháp cho phép với cái mà lợi ích thúc đẩy phải làm, khiến cho công lý và lợi ích không tách rời nhau. Tôi đi ngay vào đề mà không chứng minh tầm quan trọng của đề tài. Người ta sẽ hỏi tôi có phải là vị nguyên thủ hay nhà lập pháp không mà viết về chính trị thế này? Tôi trả lời: Không; và chính vì thế mà tôi viết về chính trị. Ví phỏng tôi là nguyên thủ hay nhà lập pháp thì tôi chẳng mất công nói lên cái mà tôi phải làm, tôi cứ việc làm hoặc là cứ lặng thinh mà thôi. Sinh ra là công dân của một nhà nước tự do, thành viên của một cộng đồng có chủ quyền, dù cho tiếng nói của tôi chỉ ảnh hưởng yếu ớt tới công việc chung, tôi cũng có quyền được chọn lựa đối với công việc chung, vì vậy tôi tự đặt cho mình nghĩa vụ phải tìm tòi, học hỏi vấn đề này. Sung sướng biết bao mỗi lần tôi suy tư về các nền cai trị quốc gia, vài tìm thấy những lý do mới để yêu sự cai trị ở xứ sở mình. (2) 1. CHỦ ĐỀ CỦA QUYỂN THỨ NHẤT Người ta sinh ra tự do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích (ND) [1*] - Có kẻ tưởng mình là ông chủ, mà thật ra còn nô lệ hơn cả tôi tớ của họ. Sự chuyển hoá đó được thực hiện như thế nào ? Tôi không biết. Cái gì đã làm cho sự chuyển hoá đó trở thành chính thức? Tôi tin rằng câu hỏi này có thể giải đáp được. Nếu tôi chỉ xem xét về lực và hệ quả của lực thì tôi sẽ nói rằng: Khi nhân dân bị cưỡng bức mà lại biết phục tùng, họ làm thế là phải; nhưng nếu có thể hất cái ách áp bức đó thì còn hay hơn nữa; vì thế là họ giành lại tự do mà họ vốn có quyền được hưởng, có quyền giành lại và không ai được tước đoạt tự do của họ. Trật tự xã hội là một thứ quyền thiêng liêng làm nền tảng cho mọi thứ quyền khác. Nhưng trật tự xã hội không phải tự nhiên mà có, nó được xác lập trên cơ sở những công ước. Vậy phải tìm hiểu công ước đó là gì? Trước khi tìm đến chỗ hiểu tôi phải xác định cái mà tôi vừa mới nêu ra. 2. CÁC XÃ HỘI ĐẦU TIÊN Trong tất cả các thứ xã hội chỉ có xã hội của gia đình là lâu đời nhất và hợp với tự nhiên nhất (ND) . Trong một gia đình chừng nào con cái còn cần có cha mẹ để sống, thì chúng phải cột chặt với cha mẹ. Khi chúng đã trưởng thành, sự cần thiết ấy không còn nữa thì mối liên hệ kia cũng khác đi. Lúc đó con không nhất thiết phải nghe theo cha, cha không nhất thiết phải chăm sóc. Cha và con đều hoàn toàn độc lập. Nếu cha con còn ở chung với nhau, đó không phải là tự nhiên mà là tự nguyện; và chính bản thân gia đình cũng chỉ tồn tại bằng qui ước. Tự do là từ bản chất con người mà có. Luật đầu tiên của tự do là mỗi người phải được chăm lo sự tồn tại của mình. Những điều quan tâm đầu tiên là quan tâm đến bản thân. Ở tuổi lí trí, con người phải tự mình định đoạt các phương tiện sinh tồn của mình, và do đó tự mình làm chủ lấy mình. Như vậy, ta có thể coi gia đình là mô hình đầu tiên của các thứ xã hội chính trị; cha là hình ảnh của người thủ lĩnh, con cái là hình ảnh của dân chúng. Thủ lĩnh cũng như dân chúng đều sinh ra bình đẳng, tự do, và họ chỉ từ bỏ quyền tự do của họ khi phải lo toan lợi ích của bản thân họ mà thôi. Tất cả sự khác biệt giữa gia đình và xã hội là ở chỗ: trong gia đình tình thương của cha đối với con tương ứng với sự chăm sóc; còn trong xã hội: người thủ lĩnh không có tình thương như vậy đối với dân chúng; thay vào đó là cái sở thích được điều khiển mọi người. Grotius (3) cho rằng quyền lực con người đặt ra không phải là vì lợi ích của những kẻ bị trị. Ông lấy chế độ nô lệ làm ví dụ. Cách lý giải nhất quán của ông là đặt quyền hành trên cơ sở của thực tế [2*].Đó chính là cách làm của Grotius. Người ta có thể dựng những biện pháp nhất quán, mà không có lợi cho bọn bạo chúa. Grotius đặt vấn đề loài người phụ thuộc vào khoảng một trăm nhà cai trị, hay một trăm nhà cai trị ấy phụ thuộc vào loài người? Trong toàn bộ cuốn sách của mình Grotius ngả theo thuyết thứ nhất (loài người phụ thuộc vào các nhà cai tri). Đó cũng là quan điểm của Hobbes (4), loài người được coi như những đàn súc vật, mỗi đàn có người chăn. Anh ta chăm sóc chúng để rồi sẽ ăn thịt chúng. Như người chăn cừu có bản chất cao quí hơn đàn cừu, các nhà cai trị chăn dân cũng phải có bản chất cao quí hơn dân chúng. Vua Caligula (5) cùng với Philon (6) đã lý giải như trên, Họ coi vua như Trời và dân chúng như súc vật. Cách lập luận của Caligula được truyền tới Hobbes và Grotius. Trước họ rất lâu, Aristote (7) cũng đã nói rằng con người vốn không bình đẳng, có kẻ sinh ra làm nô lệ, có kẻ sinh ra để trị vì. Aristote nói có lý, nhưng ông đã lấy kết quả làm nguyên nhân. Bất cứ ai sinh ra trong hàng nô lệ thì đều là nô lệ; nói thế chẳng sai tí nào. Trong xiềng xích, người nô lệ mất hết mọi thứ, mất cả nguyện vọng thoát khỏi xích xiềng. Họ thích tận tụy phục vụ như những người tùy tùng Ulysse (8) yên phận với sự ngu dân của mình [3*]. Sở dĩ có người nô lệ bẩm sinh là vì trước đó đã có những người nô lệ không bẩm sinh (ND). Họ bị cưỡng bức làm nô lệ, rồi do tính hèn nhát mà họ thành ra nô lệ mãi. Tôi chưa nói gì về vua Adam (9) hoặc hoàng đế Noé (10), thân sinh của ba vị lãnh chúa chia nhau trị vì vũ trụ như các con của thần Saturne (11) mà ngày nay người ta cứ tin rằng mình là hiện thân của các vị ấy. Tôi có thể suy diễn ra rằng tôi là cháu chắt của các ông vua nói trên và có thể cháu chắt ngành trưởng nữa kia, nhưng tại sao bây giờ tôi lại chẳng phải là vua của loài người? Dầu sao, ta không thể chồi cãi rằng Adam chỉ cai quản một thế giới giống như anh chàng Robinson (12) cai quản hòn đảo hoang vu của y. Adam được cái thuận lợi là trong vương quốc của ông không sợ gì giặc cướp, chiến tranh và âm mưu thoán đoạt. 3. QUYỀN CỦA KẺ MẠNH Kẻ mạnh không phải lúc nào cũng đủ mạnh đề mãi mãi làm người thống trị, nếu như hắn ta không chuyển lực thành quyền và chuyển sự phục tùng thành nghiã vụ (ND). Do đó mà có cái quyền của kẻ mạnh, một thứ quyền lực trớ trêu được thiết lập thật sự trên nguyên tắc. Nhưng có ai đã giảng giải cho ta về hai chữ "quyền lực" ?. Lực là một sức mạnh vật lý. Tôi chẳng thấy chút đạo đức nào ở trong lực. Chịu theo lực là một cử chỉ bắt buộc chứ phải đâu là tự nguyện. Nói đúng hơn, đó là một cử chỉ khôn ngoan, chẳng có ý gì là nghĩa vụ cả. Hãy nói về chữ "quyền" . Tôi cho rằng quyền chỉ là hệ quả của một thứ khái niệm hồ đồ mà thôi. Nói lực tạo ra quyền là không đúng. Khi lực thứ hai mạnh hơn lực thứ nhất, tự nó sẽ vượt lên ngôi mà nắm lấy quyền. Một khi cưỡng lại sức mạnh mà không bị trừng phạt thì người ta cứ việc cưỡng. Và vì rằng kẻ mạnh luôn luôn có lý thì người ta chỉ cố sức làm cho mình thành kẻ mạnh là đủ rồi. Vả lại quyền sẽ mất khi lực không còn nữa: quyền đó là cái gì? Nếu đã phải phục tùng theo lực, thì người ta cần gì phải phục tùng theo quyền và một khi không bi lực ép nữa thì người ta không cần phải phục tùng nữa. Như vậy ta thấy rõ chữ quyền không thêm gì cho chữ lực cả. Chữ "quyền" không có nghĩa lý gì hết! Hãy tuân theo sức mạnh. Lời khuyên này là tốt, nhưng thừa, nếu nó có nghĩa là hãy chịu theo lực. Vì đã là lực thì không chịu theo cũng không được. Tôi nhận thấy rằng tất cả sức mạnh đều do Trời, nhưng tất cả bệnh tật cũng từ Trời mà ra, thế mà có ai cấm ta mời thầy thuốc chữa bệnh đâu! Ví phỏng tôi bị tên cướp tóm cổ trong một góc rừng, tôi đành phải nộp của cho hắn. Nhưng nếu tôi đủ sức trừ khử hắn thì việc gì tôi phải tự nguyện nộp của? Chỉ tại khẩu súng trong tay thằng cướp cũng là một lực. Vậy ta có thể kết luận rằng : lực không làm nên quyền, và người ta chỉ bắt buộc phải phục tùng khi mà sức mạnh đã thành hợp pháp. Thế là vấn đề đầu tiên của tôi vẫn luôn luôn được đặt trở lại. 4. NÔ LỆ Không ai tự nhiên có quyền uy đối với đồng loại, thế mà lực thì chúng sinh ra quyền: vậy chỉ có những công ước (convention) là có thể làm cơ sở cho mọi quyền uy chính đáng giữa người với người mà thôi.(ND) Grotius nói: Đã có người tử bỏ quyền tự do để làm nô lệ cho một ông chủ, thì cả một dân tộc sao lại không thể từ bỏ quyền tự do để làm thần dân của một ông vua ? Trong câu nói này có khá nhiều chữ hồ đồ cần phải giải thích rõ. Nhưng ta hãy xoáy vào hai chữ "Từ bỏ". Từ bỏ có thể là cho, hoặc bán . Một con người chịu làm nô lệ chẳng tự đem mình mà cho không: anh ta bán mình để được sinh tồn. Còn một dân tộc thì việc gì mà phải tự bán mình. Dù là ông vua có cung cấp cho thần dân điều kiện sinh tồn, thì chính ngay nhà vua cũng được sinh tồn nhờ có thần dân. Rabelais (13) đã phân tích : nuôi sống một ông vua nào có ít ỏi gì ? Chẳng lẽ các thần dân hiến mình cho vua mà còn để vua lấy nốt cả tài sản của mình ư ? Thế thì về phần họ còn lại được cái gì nữa! Người ta sẽ nói rằng dân được vua bảo đảm sự yên tĩnh. Ừ, cứ cho là như thế đi; nhưng dân chúng được gì nếu vua gây ra chiến tranh để thoả lòng tham, nếu ông ta thích vơ vét, nếu thói phiền hà trong nội các gây ra tranh chấp, phân liệt? ,và dân chúng sẽ được gì nếu ngay cả sự yên tĩnh cũng chỉ là yên tĩnh trong nghèo khổ? Nằm trong ngục tối người ta vẫn thấy yên tĩnh. Cái yên tĩnh ấy có ai thích thú? Dân Hi Lạp bị giam trong hang của thần Cyclope (14) cũng sống yên tĩnh để chờ ngày bị thần ăn thịt . Nói rằng một người tự đem mình mà cho không, đó là chuyện hồ đồ không thể chấp nhận được. Cử chỉ ấy là không hợp lý và vô nghĩa. Kẻ nào làm thế là kẻ mất trí . Nói rằng có một dân tộc tự hiến thân vô điều kiện tức là giả đinh rằng dân tộc ấy điên rồ. Cái điên rồ không tạo nên quyền gì cả. Nếu một người có thể tự từ bỏ mình, thì anh ta cũng không thể từ bỏ con cái. Chúng sinh ra vốn là người, và là người tự do. Tự do thuộc về chúng, không ai có quyền hưởng tự do hơn chúng. Trước khi chúng trưởng thành, người cha có thể nhân đanh chúng mà bố trí điều kiện sinh tồn, mưu hạnh phúc cho chúng, chứ không thể đem con mà cho không, cho hẳn đi. Cho như thế là trái ngược với tự nhiên và vượt quá quyền của người cha. Vậy muốn một chính phủ độc tài trở thành chính đáng, thì mỗi thế hệ dân chúng phải có quyền chấp nhận hoặc chối bỏ chính phủ. Nhưng như thế thì chính phủ ấy không còn là độc tài nữa. Từ bỏ tự do của mình là từ bỏ phẩm chất con người, từ bỏ quyền làm người và cả nghĩa vụ làm người. Không thể không có tí đền bù tất yếu nào cho người đang từ bỏ tất cả. Bản chất con người không thể dung hòa với sự từ bỏ vô điều kiện như thế. Làm cho ý chí con người mất hết tự do tức là tước bỏ đạo lý trong hành động của con người. Cuối cùng, thật là mâu thuẫn và vô nghĩa nếu ta ghi vào công ước một bên là quyền hành tuyệt đối và bên kia là sự phục tùng vô hạn độ. Anh không có trách nhiệm gì đối với người mà anh có quyền đòi hỏi tất cả ư? Cái điều kiện đơn phương ấy, không có gì bù lại, không có vật ngang giá, sẽ làm cho điều khoản ký kết mất hết ý nghĩa. Người nô lệ của tôi có quyền gì chống lại tôi không? Tất cả mọi thứ của hắn đều thuộc về tôi cả, thì quyền của hắn cũng là quyền của chính tôi. Quyền của tôi để chống lại tôi? Thật là điều vô nghĩa! Grotius (3) và một số người khác cho rằng nguồn gốc của quyền nô lệ từ chiến tranh mà ra. Kẻ thắng trận có quyền giết kẻ thua trận. Kẻ thua trận có thể đổi tự do của mình để chuộc lấy mạng sống. Thế là công ước chiếu cố lợi ích của cả hai bên, trở thành chính đáng. Nhưng cái quyền được giết kẻ bại trận chỉ là mạo nhận mà thôi. Tình trạng chiến tranh không có cách gì để dẫn tới cái quyền ấy. Con người sống trong tình trạng độc lập nguyên thủy không hề có mối quan hệ thường xuyên để xác đinh trạng thái hòa bình hoặc chiến tranh; họ không là kẻ thù của thau. Làm nên chiến tranh là do quan hệ giữa sự vật với sự vật chứ không phải do quan hệ giữa người với người. Tình trạng chiến tranh chỉ tạo ra những quan hệ thực tế chung, chứ không tạo ra quan hệ cá nhân đơn thuần. Không thể có chiến tranh cá nhân trong trạng thái tự nhiên chưa ai có sở hữu thường xuyên, cũng như không thể có chiến tranh cá nhân trong trạng thái xã hội mà mọi người đều sống dưới quyền uy của luật pháp. Những cuộc ẩu đả, đấu gươm, va chạm chỉ là những hành vi cá nhân chứ không phải một trạng thái xã hội. Ở nước Pháp dưới thời vua Louis IX cho phép tiến hành các cuộc chiến tranh tư nhân, sau cũng bãi bỏ. Đó chỉ là sự lạm dụng của chính phủ phong kiến, một thể chế hàm hồ, trái với nguyên tắc qui luật tự nhiên và trái với mọi thể chế chính phủ (politie) [4*] lành mạnh. Chiến tranh không phải là quan hệ một người với một người, mà là quan hệ giữa quốc gia với quốc gia (ND).Trong chiến tranh, những con người cá biệt trở thành kẻ thù của nhau không phải với tư cách con người hay tư cách công dân [5*]mà là với tư cách người lính bảo vệ tổ quốc. Chàng Caton con tham gia lữ đoàn của Popilius: khi lữ đoàn này cải tổ, ông Caton cha liền viết thư cho Popilius nói rõ: Nếu muốn tiếp tục dùng con trai ông dưới trướng thì phải cho anh ta tuyên thệ lại, vì lời tuyên thệ trước kia đã hết giá trị sau khi cải tổ lữ đoàn; nếu không tuyên thệ thì anh ta không đủ tư cách cầm vũ khí chống quân thù. Ông cũng viết thư cho con, dặn rằng không được ra trận nếu chưa tuyên thệ lại. Tôi biết rằng người ta sẽ bài bác ý kiến này bằng cách kể lại trận bao vây Clusium và một số chuyện lẻ tẻ khác; nhưng ở đây tôi chỉ nói về luật và tập quán chiến tranh. Người La Mã rất ít khi làm trái luật lệ của mình, và họ là dân tộc duy nhất có nhiều luật lệ này. Một nước thù địch với một nước chứ không thể thù nghịch với những con người, vì giữa các vật thể khác loại, khác chất không thể xác định một mối quan hệ thật sự nào cả. Nguyên tắc nói trên cũng phù hợp với châm ngôn của các thời đại và thực tiễn của mọi dân tộc đã khai hóa. Những lời tuyên chiến là tuyên với nhà nước chứ không phải với thần dân. Một người nước ngoài, là vua hay là dân, mà lấy cắp hoặc bắt giữ hoặc giết những công dân của một nước, nhưng không tuyên chiến với chính phủ nước đó, thì chỉ là một tên cướp, chứ chưa phải là kẻ thù của cả quốc gia. Khi xảy ra chiến tranh, ông vua tiến quân vào nước địch có thể chiếm đoạt mọi thứ thuộc về của chung cả nước; nhưng ông ta phải tôn trọng của cải tư nhân, là vì ông ta tôn trọng các quyền đối với chính của cải bản thân ông ta: Chiến tranh kết thúc tức là nước địch bị diệt; người ta có quyền giết những người đang cầm vũ khí kháng cự lại; một khi họ đã hạ vũ khí và đầu hàng thì họ không còn là kẻ thù hoặc công cụ của kẻ thù nữa, họ trở thành những người bình thường, và người ta không có quyền tiêu diệt sinh mạng họ. Nhiều khi người ta tiêu diệt một nước mà không giết một thành viên nào của nước đó. Chiến tranh không đặt ra những thứ quyền không cần thiết cho sự kết thúc chiến tranh. Nguyên tắc chiến tranh không phải do Grotius, cũng không phải do các nhà thơ uy danh đặt ra, mà được rút từ bản chất của sự vật và được xác định qua lý tính. Nói về quyền chinh phục thì cơ sở của nó cũng không ngoài cái luật của kẻ mạnh. Nếu chiến tranh không cho phép người chiến thắng có quyền được giết hàng loạt dân bại trận, thì cái quyền mà họ không có đó làm sao dẫn tới cái quyền bắt người ta làm nô lệ cho mình được? Người ta chỉ có quyền giết kẻ thù khi không thể bắt họ làm nô lệ. Cái quyền bắt họ làm nô lệ không xuất phát từ quyền được giết. Đã không có quyền đối với sinh mạng người ta mà bắt người ta đổi tự do để chuộc sinh mạng thì thật là một cuộc đổi chác bất công. Đặt quyền nô lệ trên cơ sở quyền sinh tử, hay đặt quyền sinh tử trên cơ sở quyền nô lệ thật là rơi vào cái vòng luẩn quẩn. Giả thiết kẻ chiến thắng không có cái quyền ghê tởm là giết tất cả người chiến bại; vậy thì dân tộc chiến bại, người bị bắt lắm nô lệ còn có phận sự gì với kẻ chiến thắng? Họ chỉ tuân theo khi bị cưỡng bức. Kẻ chiến thắng không ra ơn mà chỉ nắm lấy một vật ngang giá với sinh mạng của người chiến bạl; giết chết nó mà không thu lại kết quả gì thì hãy "giết" một cách có ích còn hơn. Không thu lại một quyền uy gì gắn với sức mạnh, tình trạng chiến tranh giữa kẻ thắng vớl kẻ bại vẫn giữ nguyên, với những môi quan hệ cũ. Việc sử dụng quyền chiến tranh không qui đinh được mộc bản hòa ước nào cả. Kẻ chiến thắng với người chiến bại chỉ làm với nhau một công ước (convention), mà công ước đó không huỷ bỏ chiến tranh, nó vẫn ước định sẽ tiếp tục chiến tranh. Như vậy, xem xét theo một hướng nào đó, thì quyền nô lệ là con số không, chẳng những nó không chính đáng, mà còn là mơ hồ, vô nghĩa lý. Chữ nô lệ và chữ quyền là hai chữ mâu thuẫn nhau, bài trừ lẫn nhau. Nói quyền nô lệ của một người đối với một người hay của một người đối với một dân tộc đều là nói điều vớ vẩn: Tao ký với mày một công ước mà mọi cái thiệt thì mày chịu, mọi cái lợi thì tao hưởng, chừng nào tao còn thích thú thì cả tao và mày cùng tôn trọng công ước này nhé ! (ND). 5. CẦN LUÔN LUÔN TRỞ LẠI VỚI CÔNG ƯỚC (CONVENTION) ĐẦU TIÊN Khi tôi sẽ chấp nhận những điều mà từ trước đến nay tôi đã phản bác, thì bọn bạo chúa cũng chẳng có lợi gì hơn. Bao giờ cũng có sự khác biệt lớn giữa việc thống trị nhiều người với việc quản lý một xã hội. Bao nhiêu người hầu hạ một người, đó chỉ là nô lệ với chủ nô, chứ không phải một dân tộc với thủ lĩnh. Đó chỉ là một thứ ô hợp chứ không phải một tổ hợp xã hội, bởi vì trong đó không có phúc lợi chung mà cũng không có cơ thể chính trị. Con người cưỡi cổ đó, dù là thống trị một nửa thế giới cũng vẫn là một cá nhân; quyền lợi của hắn tách rời với mọi người, luôn luôn chỉ là quyền lợi riêng tư mà thôi. Một khi hắn chết, vương quốc của hắn cũng tan rã, khác nào cây sồi bị thiêu cháy đổ mục thành đống tro tàn. Grotius nói một dân tộc có thể hiến thân cho vua. Cứ như ông nói thì dân tộc ấy phải tồn tại trước khi hiến thân. Ngay sự hiến thân ấy cũng là một điều khoản dân sự, tất nhiên phải bàn định rồi mới làm được. Trước khi người ta bàn định chọn một ông vua, người ta phải xem xét điều khoản xác định mình là một dân tộc. Điều khoản đầu tiên ấy chính là nền tảng của xã hội. Nếu không có một công ước từ trước thì làm sao có được sự phục tùng của số ít theo ý muốn của số đông; làm sao mà một trăm người ưng thuận ông vua này lại có quyền nói thay cho mười người khác không ưng vua ấy. Luật số đông trong các cuộc bầu cử tự nó là thiết chế của công ước, làm tiền đề cho sự nhất trí. 6. CÔNG ƯỚC (PACTE) XÃ HỘI Tôi giả định rằng có một lúc nào đó các trở lực gây hại cho sự sinh tồn của con người có thể lấn át sự kháng cự của từng cá nhân, lúc đó tình trạng nguyên thủy sẽ không còn nữa, loài người sẽ bị tiêu diệt nếu họ không thay đổi cách sống. Nhưng con người không thể tạo ra lực mới, mà chỉ có thể kết hợp và điều khiển những lực sẵn có; cho nên phương pháp duy nhất để con người tự bảo vệ là họ phải kết hợp lại với nhau thành một lực chung, được điều khiển bằng một động cơ chung, khiến cho mọi người đều hành động một cách hài hòa. Cái tổng lực đó là của nhiều người góp lại. Nhưng sức mạnh và tự do của mỗi người là công cụ đầu tiên để cho họ sinh tồn; nếu họ đem nó góp vào của chung thì bản thân họ có bị hủy bỏ không? Họ có lơ là mất sự quan tâm đến bản thân mình không? Qui vào chủ đề của tôi thì điều rắc rối này có thể giải thích như sau: "Tìm ra một hình thức kết liên với nhau đẽ dùng sức mạnh chung mà bảo vệ mọi thành viên. Mỗi thành viên trong khi khép mình vào tập thể, dùng sức mạnh tập thể, vẫn được tự do đầy đủ như trước, vẫn chỉ tuân theo chính bản thân mình ". Đó là vấn đề cơ bản mà khế ước (contrat) đưa ra cách giải quyết (ND). Các điều khoản trong khế ước là do bản chất của nó qui định nên chỉ cần vi phạm bản chất chút đỉnh thì nó sẽ trở thành vô hiệu. Có thể là Công ước không hề được công bố một cách hợp thức, nhưng đâu đâu nó cũng được mặc nhiên chấp nhận cho đến mức, ví phỏng Công ước xã hội (Pacte social) có bị vi phạm chăng nữa, thì mỗi thành viên sẽ sử dụng quyền nguyên thủy của mình; bởi vì một khi công ước không bảo đảm quyền tự do dân sự thì người ta từ bỏ công ước để giữ lại quyền tự do thiên nhiên vốn có. Các điều khoản của công ước sẽ qui vào một điểm duy nhất là: mỗi thành viên từ bỏ quyền riêng của mình để góp hết vào quyền chung, ai ai cũng như vậy cả, không ngoại trừ một người nào; cho nên sẽ không ai muốn cho người khác phải thiệt thòi khi tham gia công ước xã hội. Hơn nữa, khi mỗi người đã từ bỏ quyền riêng không ngần ngại, thì sự liên kết sẽ thật là hoàn hảo, không một thành viên nào phải kêu ca gì. Nếu còn giữ chút ít quyền riêng mà lại không có cái gì chung cao hơn, để nói lên quyền lợi công cộng, thì rồi mỗi người sẽ tự phán xét lấy mình và muốn phán xét cả mọi người khác, thế là sự liên kết sẽ thành vô hiệu, hoặc tất nhiên đôi chỗ võ đoán. Rốt cuộc, mỗi người tự hiến dâng cho mọi người chứ không cho riêng ai, thì sẽ không một thành viên nào giành được đặc quyền; mọi người thu về một giá trị tương đương với cái mình đã cống hiến; và họ có thêm lực để bảo toàn cái mà họ có. Vậy thực chất của công ước xã hội là: Mỗi người chúng ta đặt mình và quyền lực mình dưới sự điều khiển tối cao của ý chí chung, và chúng ta tiếp nhận mọi thành viên như một bộ phận không thể tách rời của toàn thể. Hành vi liên kết sẽ tạo nên một cơ thể tinh thần chung, gồm bao nhiêu thành viên thì có bấy nhiêu tiếng nói trong một hội đồng; mỗi thành viên nhận được sự nhất trí của mình trong hành vi liên kết đó, họ tìm thấy cái tôi tập thể tìm thấy cuộc sống và ý chí của mình trong tập thể. Con người công cộng được hình thành bằng sự liên kết với tất cả mọi người khác. Ngày xưa con người công cộng ấy được gọi là thành bang [6*] ngày nay chúng ta gọi nó là "nước cộng hòa" hoặc "cơ thể chính trị " . Mỗi thành viên ở thế thụ động thì gọi con người công cộng đó là "Nhà nước", ở thế chủ động thì gọi nó là "quyền lực tối cao". Khi đối sánh với đồng loại thì con người công cộng đó được gọi là "quyền lực". Về phần các thành viên, họ lấy một tên chung là "dân chúng"; mỗi người riêng lẻ thì gọi là "công dân" trong khi họ tham gia vào quyền lực tối cao; hoặc gọi là "thần dân" trong khi họ phục tùng luật pháp Nhà nước. Các từ ngữ về cách gọi như trên thường lẫn lộn với nhau, ta chỉ cần phân biệt khi phải nói thật chính xác. 7 . QUYỀN LỰC TỐI CAO Theo công thức nói trên, ta thấy hành động liên kết bao hàm một sự ước thúc giữa công chúng với cá nhân; và mỗi cá nhân trong khối liên kết tự thấy mình phải ước thúc trong hai mối quan hệ: anh vừa là thành viên của quyền lực tối cao liên hệ với các cá nhân khác, đồng thời anh là thành viên của quốc gia liên hệ với quyền lực tối cao. Nhưng trong dân luật có câu châm ngôn: Chẳng ai bị ràng buộc khi tự mình ước thúc mình, cho nên cần phân biệt giữa sự ước thúc đối với chính mình và sự ước thúc đối với tập thể. Lại cần nhận xét thêm rằng cuộc thảo luận công cộng có thể ràng buộc tất cả mọi thành viên vào quyền lực tối cao do hai mối quan hệ khác nhau để ước thúc họ; nhưng theo một lý do trái lại, cuộc thảo luận công cộng không thể buộc quyền lực tối cao phải ước thúc với chính bản thân nó, cho nên, nếu quyền lực tối cao tự áp đặt cho mình một luật không thể vi phạm thì thật là trái với bản chất của cơ thể chính trị. Tự đặt mình trong mối liên hệ đơn phương như vậy thì quyền lực tối cao chẳng khác gì một thành viên khoán ước tự đối đãi với mình, thế thì không có và không thể có cái gì là luật cơ bản để ước thúc tập đoàn dân chúng, mà cũng không thể có công ước xã hội. Điều nói trên không có nghĩa là cơ thể này không thể liên hệ với một cơ thể khác, không có gì trái với công ước; vì đối với cơ thể khác thì cơ thể này cũng chỉ như một cá nhân đơn thuần mà thôi. Nhưng cơ thể chính trị hay quyền lực tối cao chỉ tồn tại nhờ tính thiêng liêng của khế ước, cũng chẳng bao giờ có thể tự ràng buộc mình không vi phạm điều khoản nguyên thuỷ; như thế khác nào từ bỏ một bộ phận của cơ thể mình, hoặc tự đặt mình dưới quyền lực tối cao khác. Vi phạm điều khoản tạo sinh ra mình tức là tự xóa bỏ mình. Đã bị xóa bỏ rồi thì còn sản sinh ra được cái gì nữa! Khi nhiều người đã liên kết thành một cơ thể, nếu ai xúc phạm một thành viên tức là xúc phạm vào cơ thể, cơ thể bị xúc phạm thì các thành viên tất nhiên phải cảm biết. Như vậy nghĩa vụ và quyền lợi buộc cả hai bên giao ước phải giúp đỡ lẫn nhau; mỗi người phải tìm cách liên kết ưu thế của mình lại theo mối quan hệ hai chiều. Tuy nhiên, quyền lực tối cao được thiết lập từ những cá thể thành viên hợp lại tạo ra nó, cho nên nó không có và không thể có lợi ích nào trái ngược với các thành viên (ND). Do đó quyền lực tối cao không cần phải bảo đảm gì đối vớI các thần dân; bởi lẽ một cơ thể không bao giờ lại muốn làm hại tất cả thành viên của nó, cũng như làm hại đến một thành viên riêng lẻ. Quyền lực tối cao chỉ nhờ có tính chất như trên, mới tồn tại được, nền luôn luôn tự nó là tất cả những gì tạo ra nó (ND) . Những thần dân đối với quyền lực tối cao thì không như thế. Không có gì đáp ứng sự ràng buộc của thần dân vào quyền lực tối cao, nếu quyền lực tối cao không tìm ra những biện pháp để bảo đảm lòng trung thành của họ; mặc dầu thần dân vẫn có lợi ích chung trong cộng đồng. Thật ra mỗi cá nhân có thể có ý chí riêng không giống hoặc trái với ý chí chung (ND) mà anh ta với tư cách công dân, cũng mang ý chí chung đó. Lợi ích riêng có thể nói vớI anh ta không như tiếng nói của lợi ích chung. Không có tập thể thì cá nhân anh vẫn cứ tồn tại một cách tuyệt đối và độc lập cho nên anh ta coi nghĩa vụ của mình đối với sự nghiệp chung chỉ là đóng góp không công, chỉ tốn kém cho riêng mình mà thôi; nếu anh không đóng góp thì cũng chẳng thiệt đến ai; thế là anh ta coi nhân cách tập thể tạo thành nhà nước chỉ là một lý tính, không phải một con người. Anh ta hưởng quyền công dân mà không muốn làm nghĩa vụ thần dân. Thái độ bất công đó của cá nhân nếu phát triển mãi ra thì sẽ dẫn tới sự suy đồi của cơ thể chính trị. Muốn cho công ước xã hội không trở thành một công thức suông, nó phải ngầm bao hàm điều ràng buộc đốl với cá nhân. Chỉ có sự ràng buộc mỗi cá nhân, mới tạo ra sức mạnh cho mọi cá nhân khác, ai cưỡng lại ý chí chung liền bị toàn bộ cơ thể chống lại, cái đó có nghĩa là người ta buộc anh ta phải tự do. Khi trao một công dân cho Tổ quốc thì phải bảo đảm rằng công dân đó phụ thuộc vào Tổ quốc. Điều kiện ấy làm cho các khoản cam kết dân sự trở nên chính đáng, không có điều kiện ấy thì mọi sự cam kết sẽ thành ra mơ hồ, võ đoán, làm đà cho sự lạm dụng to lớn hơn. 8. TRẠNG THÁI DÂN SỰ Từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái dân sự, con người trải qua một chuyển biến lớn lao (ND). Trong xử sự của họ, công lý thay cho tiềm thức, trong hành vi của họ có thêm đạo nghĩa mà trước kia không có. Từ nay tiếng nói của nghĩa vụ thay thế những kích thích vật lý. Về quyền ham muốn, trước đây con người chỉ tính đến bản thân thì bây giờ họ phải hành động theo những nguyên lý khác; họ phải suy xét bằng lý trí trước khi nghe theo dục vọng. Tuy mất đi một vài lợi thế trong trạng thái tự nhiên, nhưng con ngườI thu lại những lợi thế lớn hơn; năng khiếu được vận dụng và phát triển, tư tưởng mở rộng ra, tình cảm cao quí thêm, tâm hồn được nâng lên đến mức mà ví phỏng hoàn cảnh hiện tạI có hạ anh xuống kém hơn hoàn cảnh trước kia, thì anh vẫn cứ phải cảm tạ cái thời điểm dứt anh ra khỏi giới động vật ngu muội và hạn chế để vĩnh viễn trở thành loài thông minh, thành một con người. Hãy hạch toán lại sự hơn thiệt này một cách dễ hiểu hơn. Với khế ước xã hội, con người mất đi cái tự do thiền nhiễn và cái quyền hạn chế được làm những điều muốn làm mà làm được, nhưng mặt khác con người thu lại quyền tự do dân sự và quyền sở hữu những cái mà anh ta có (ND). Cần phân biệt tự do thiên nhiên chỉ hạn chế chật hẹp trong khả năng sức lực một cá nhân với quyền tự do dân sự mà giớI hạn rộng rãi là ý chí chung của nhiều người. Lại nên phân biệt sự có được trong trạng thái tự nhiên chỉ là kết quả của sức mạnh và chỉ là cái quyền của kẻ chiếm lĩnh đầu tiền, vớI quyền sở hữu trong trạng thái dân sự được xây đựng trên một danh nghĩa tích cực. Con người dân sự còn có tự do tinh thần khiến anh ta trở thành người chủ thật sự của chính mình; vì rằng làm theo kích thích của dục vọng là nô lệ, mà tuân theo qui tắc tự mình đặt ra lại là tự do. Nhưng tôi đã nói quá nhiều về vấn đề này; chủ đề của tôi về ý nghĩa triết học của tự do không phải đặt ra ở đây. 9. LĨNH VỰC THỰC TẾ Mỗi thành viên hiến dâng cho cộng đồng tất cả sức lực và tài sản của mình; như vậy không có nghĩa là sau hành động hiến dâng này sự chiếm hữu thay đổi tính chất, khi của cải được trao từ tay cá nhân sang tay cộng đồng và biến thành sở hữu quốc gia. Nhưng sức mạnh của thành bang so với sức mạnh của một người thì lớn hơn nhiều lắm; cho nên sở hữu công cộng trong thực tế cũng lớn hơn và vững chắc hơn sở hữu cá nhân rất nhiều. Nhà nước đốI với các thành viên, theo khế ước xã hội quy định là ông chủ tài sản của mọi thành viên, khế ước xã hội là cơ sở cho mọi thứ quyền trong một nước (ND). Nhưng đối với nước ngoài thì nhà nước chỉ là ông chủ tài sản theo quyền của người chiếm hữu đầu tiên. Quyền của người chiếm hữu đầu tiên có vẻ thực tế hơn là quyền của kẻ mạnh. Tuy vậy nó chỉ trở thành một quyền thực sự sau khi đã thiết lập quyền tư hữu (ND). Trong tự nhiên, mọi người đều có quyền đối với những cái mà mình cần đến; nhưng trong dân sự thì điều khoản quy định cho anh thành người tư hữu một số của cải đã loại trừ anh đốI với những của cải khác. Một khi đã nhận phần tư hữu, anh phải nhận hạn chế mình trong phạm vi tư hữu ấy, anh không có quyền đối với những cái khác của cộng đồng. Xem đó thì rõ tại sao quyền của người chiếm hữu đầu tiên là rất yếu ớt trong trạng thái tự nhiên lại được mọI người tôn trọng trong trạng thái dân sự. Người ta tôn trọng quyền chiếm hữu đầu tiên đối với tài sản thuộc cá nhân kẻ khác hơn là đối với những tài sản không thuộc về bản thân họ. Nói chung thì khi cho phép ai làm người chiếm hữu đầu tiên trên một khoảng đất, cần có nhũng điều kiện như sau : +Một là khoảng đất chưa có ai ở; +Hai !à người chiếm hữu chỉ chiếm một phần vừa đủ cho sự sinh tồn của mình; +Ba là người chiếm hữu giữ lấy mảnh đất không phải bằng một nghi thức, mà bằng lao động và sự trồng trọt, đó là dấu hiệu duy nhất có ý nghĩa pháp lý để chứng tỏ quyền chiếm hữu khiến kẻ khác phải tôn trọng. Tuy vậy, chấp nhận quyền chiếm hữu đầu tiên theo nhu cầu và theo lao động không phải là để cho người ta muốn chiếm hữu đâu cũng được (ND) . Phải chăng cần định giới hạn cho quyền chiếm hữu này. Phải chăng cứ đặt chân lên một mảnh đất chung là đủ để tuyên bố làm ông chủ của mảnh đất ấy? Làm chủ rồi anh có đủ sức đẩy người khác ra không cho ai trở lạI mảnh đất ấy nữa không? Một người hay một dân tộc đến ở vùng đất rộng lớn, có thể nào đuổi những ngườI khác ra khỏI đất ấy mà không dùng đến thủ đoạn cưỡng đoạt đáng trừng phạt hay không? Làm như vậy, họ phải tước đoạt sinh mạng và thức ăn mà thiên nhiên đã ban chung cho mọI người. Khi chiếm hữu bờ biển và lãnh thổ vùng Nam Mỹ, Nunez Balbao (15) nhân danh vương triều Castille (16) có đủ quyền hành để tước đoạt của cải dân chúng để đuổi hết các vua chúa bản địa đi không? Ở đây, nhiều thứ lễ nghi suông đã được bày vẽ ra, và ông vua Thiên Chúa giáo chỉ cần trong phút chốc tuyên bố cả vũ trụ đều thuộc về triều đình của mình. Có điều là sau đó ông ta không loại bỏ những tài sản đã từng thuộc về quyền sở hữu các vua chúa bản đia. Người ta thấy rằng những khoảnh đất tư nhân tiếp cận nhau nhập lại thành lãnh thổ chung, thế là các người sở hữu lại bị phụ thuộc hơn của cải, sức mạnh của họ trở thành vật bảo đảm lòng trung thành đốl với nhà vua. Ngày xưa các vua chúa ở Ba Tư, ở Scythe hay ở Macédoine có cái lợi thế mà họ không thấy được một cách đầy đủ, họ tự coi mình là thủ lĩnh của những con người hơn là thủ lĩnh của một xứ sở. Ngày nay, khôn ngoan hơn, các vị hoàng đế Pháp, Tây Ban Nha, Anh, v.v... nắm vững lãnh thổ và nắm cả dân chúng trên lãnh thổ nước mình. Nét độc đáo trong trường hợp này là đáng lẽ chấp nhận thì họ lại tước đoạt tài sản của các thành viên. Họ chỉ đảm bảo cho các thành viên được có tài sản một cách hợp pháp; họ thay thế sự chiếm đoạt bằng quyền chiếm hữu thật sự, thay thế sự hưởng thụ bằng quyền sở hữu. Thế là những người chiếm hữu được coi như chủ nhân của tài sản chung; quyền của họ được mọi thành viên nhà nước chấp nhận và được bảo vệ bằng sức mạnh hiện có để chống lại người ngoài đến xâm phạm. Bằng một phiên họp có lợi cho mọi người và lợi hơn cho những kẻ chiếm hữu, họ giành được cái mà họ đã cho đi. Đó là một nghịch lý có thể giải thích dễ dàng bằng sự khác biệt của các thứ quyền mà cơ quan quyền lực tối cao và người sở hữu cùng chung vốn liếng với nhau, như chúng ta sẽ thấy sau đây. Cũng có thể có trường hợp người ta bắt đầu hợp nhau lại khi chưa có gì để chiếm hữco; và khi đã chiếm được một vùng đất đủ cho mọi người, họ cùng nhau mà hưởng, hoặc chia cho mỗi người một khoảnh bằng nhau, hay chia theo một tỉ lệ nhất định do cơ quan quyền lực tối cao qui định. Dù theo cách nào thì quyền của cá nhân đối với phần chia của mình cũng phải phụ thuộc vào quyền của cộng đồng đối với tất cả (ND) . Không có sự phụ thuộc này thì sẽ không có tình đoàn kết và sự liên đới xã hội, mà cũng không có sức mạnh thực tế để thực hiện quyền lực tối cao. Tôi kết thúc chương này và quyển thứ nhất này bằng một điều nhận xét làm nền móng cho cả hệ thống xã hội; đó là: Công ước cơ bản (pacte fondamental) không phá bỏ sự bình đẳng tự nhiên, nó xây dựng sự bình đẳng tinh thần và hợp pháp để thay thế cái mà thiên nhiên đã làm cho con người không bình đẳng về thế lực. Trên phương diện khế ước và pháp quyền, con người tuy không đồng đều nhau về thân thể và trí tuệ vẫn được hoàn toàn bình đẳng ngang nhau [7*] (ND). Chú thích [1*]. Những đoạn in chữ nghiêng có (ND) là do người dịch nhấn mạnh để nêu bật ý lớn. [2*]. Các công trình bác học nghiên cứu về công quyền thường chỉ là những câu chuyện lạm dụng ngày xua : và người ta ra sức nghiên cứu chúng chỉ tổ đau đầu vô ích" (Xem " Hiệp ước về lợi quyền nước Pháp liên quan lới các nước láng giềng " do Hầu tước d'Argenson viết, in ở Amsterdem, Nhà xuất bản Rey) . Đó chính là cách làm của Grotius. [3*]. Xem luận văn của Plutarque "Ước gì loài vật cũng có lý trí [4*]. Politie : Tiếng Hi Lạp, ngày nay không dùng nữa, có nghĩa là chính phủ. [5*]. Người La Mã tôn trọng luật chiến tranh hơn bất cứ dân tộc nào khác. Họ rất quan tâm vần đề này. Một công dân La Mã không dược tham gia chiến đấu nếu chưa đãng ký long trọng nhận lấy tư cách chiến sĩ chống quân thù. [6*]. Nghĩa chính của từ "Thành bang" đến thời nay đã bị hiểu lệch lạc mất rồi. Hầu hết mọi người coi thành bang là một thành phố và người thị dân là một công dân, Họ không hiểu rằng nhà cửa họp lại là thành phố, mà thị dân họp lạI mới là thành bang. Sai lầm này đã gây thiệt hại lớn cho người Carthagenois.. Tôi chưa từng đọc thấy ở đâu cái danh hiệu Cives (tiếng Latinh, nghĩa là công dân - ND) được dùng cho các thần dân của một vị nguyên thủ. Ngay cả đối với dân Macédonien cũng như đối với người Anh hiện nay, là nơi gần gũi với tự do hơn mọi nơi khác cũng chưa thấy danh hiệu này. Chỉ có người Pháp dùng từ "công dân" một cách thông tục, vì nó không mang ý nghĩa gì rõ rệt thật sự, như ta thường đọc thấy trong các từ điển Pháp. Không thế thì họ sẽ phạm tội bất cẩn vì xuyên tạc danh từ này. Ở Pháp từ "công dân" nói lên một phẩm cách con người chứ không nói về một quyền hạn. Khi Bodin (pháp quan và triết gia Pháp 1530-1598 - ND) nói về các công dân và các thị dân của ta, ông đã phạm một sai lầm quá đáng, lẫn lộn hai khái niệm này với nhau. Ông d'Alembert thì không lầm lẫn như vậy. Trong bài viết về Genève, ông phân biệt rõ bốn hạng người (có thể nói là năm hạng, kể cả hạng ngoại kiều) trong thành phố của ta, trong đó chỉ có hai hạng hợp thành nước cộng hoà. Ngoài ra không có ai trong các tác giả Pháp mà tôi được biết đã hiểu đúng nghĩa của chữ "Công dân". [7*] Dưới quyền cai trị của một chính phủ tồi, sự bình đẳng này chỉ là bề ngoài và giả tạo; nó chỉ là một danh hiệu để gĩư nguyên người ngèo trong đói khổ và người giàu trong bóc lột. Thực tế thì pháp luật bao giờ cũng có lợI cho kẻ có của và hại cho nguờl không có gì cả. Vì vậy một thể chế xã hội chỉ có thể là tiến bộ khi mọi người đều có một cái gì đó, và không ai được có quá nhiều. QUYỂN THỨ HAI 1. CHỦ QUYỂN TỐI CAO LÀ KHÔNG THỂ TỪ BỎ Hệ quả đầu tiên và quan trọng nhất của các nguyên tắc được trình bày ở trên là: Ý chí chung chỉ có thể điều khiển các lực lượng nhà nước theo mục đích của cơ chế nhằm phục vụ lợi ích chung (ND). Nếu như xã hội được lập ra vì có mâu thuẫn giữa các lợi ích riêng, thì một khi các lợi ích riêng được hài hòa, xã hội mới có thể tồn tại. Đó là do trong các lợi ích khác nhau vẫn có cái chung tạo thành mối liên hệ xã hội. Nếu không có một điểm chung nào để cho các lợi ích hài hòa được với nhau thì không một xã hội nào có thể tồn tại. Do đó phải dựa trên lợi ích chung để cai quản xã hội. Vậy tôi nói : Chủ quyền tối cao là sự thực hiện ý chí chung nên không thể tự nó từ bỏ nó được (ND). Cơ quan quyền lực tối cao là một con người tập thể, nên chỉ tự mình nó đại biểu được cho nó mà thôi. Quyền hành thì có thể chuyển trao được lắm, nhưng ý chí thì không. Nếu ý chí cá nhân có thể nhất trí với ý chí chung trên một số điểm thì nó cũng không thể nhất trí lâu dài và thường xuyên được; vì ý chí cá nhân, do bản chất của nó, hướng về ưu tiên bản thân, còn ý chí chung lại hướng tới sự đồng đều bình đẳng. Càng không thể bảo đảm cho sự nhất trí như thế, có bảo đảm chăng nữa thì đó không phải là tác dụng của tài nghệ mà là tác dụng của ngẫu nhiên. Quyền lực tối cao có thể nói: Bây giờ ta muốn cái mà người kia đang muốn, chứ không thể nói: Ta cũng sẽ muốn cái mà người kia ngày mai sẽ muốn. Bởi vì, nói rằng ý chí chung tự trói buộc mình vào tương lai thì thật là mơ hồ. Vả lại, chẳng cần phải tùy thuộc vào một ý chí nào để đồng tình với một điều không trái với điều mình mong muốn. Nếu dân chúng hứa hẹn một cách giản đơn là sẽ phục tùng vô điều kiện thì dân chúng không còn tính cách là dân chúng nữa; lúc đó sẽ chỉ có ông chủ chứ không còn quyền lực tối cao nữa, và toàn bộ cơ thể chính trị sẽ phải tan rã. Nói như vậy không phải là mệnh lệnh của các thủ lĩnh không thể chuyển thành ý chí chung, mặc dầu thủ lĩnh có thể chống lại ý chí chung mà họ vẫn không chống lại. Trong trường hợp này, nếu tất cả đêu lặng thinh thì có thể giả định là dân chúng đều đồng tình. Điều trên đây sẽ được giải thích thêm qua các chương sau. 2. CHỦ QUYỀN TỐI CAO LÀ KHÔNG THỂ PHÂN CHIA Chủ quyền tối cao không thể từ bỏ thì cũng không thể phân chia được; bởi vì ý chí là chung [1*] hoặc không phải là chung; nó có thể là của toàn thể dân chúng hoặc là của một bộ phận. Trường hợp thứ nhất, ý chí chung được công bố, là một điều khoản của chủ quyền tối cao, nó trở thành luật. Trường hợp thứ hai, ý chí cá nhân nếu công bố lên thì chỉ là mệnh lệnh pháp quan, cùng lắm chỉ là một nghị định mà thôi. Trong chính trị của ta, tuy về nguyên tắc thì quyền lực tối cao là không thề phân chia, nhưng trên thực tế người ta vẫn chia tách nó trong đối tượng. Họ chia nó thành lực lượng và ý chí, thành quyền lực lập pháp và quân lực hành pháp, thành quyền quan thuế, quyền tư pháp, quyền chiến tranh, thành cai trị đối nội và ứng phó đối ngoại; khi thì người ta trộn lẫn các bộ phận, khi thì người ta tách rời chúng với nhau. Họ biến quyền lực tối cao thành một thứ quái dị, ghép lại bằng nhiều mảnh, giống như họ ghép một hình người từ nhiều cơ thể; mặt của anh này, tay của chị nọ, chân của người kia. Người ta đồn rằng bọn bán thuốc rong Nhật Bản xé đứa trẻ ta nhiều mảnh trước mắt công chúng rồi tung lên trời; khi các mảnh rơi xuống thì nhập lại với nhau thành đứa bé sống hẳn hoi. Cái trò ảo thuật chính trị của ta ngày nay cũng giống như vậy; sau khi tách rời các bộ phận trong cơ thể xã hội, họ dùng uy tín tạp nham mà ghép các bộ phận ấy lại một cánh tùy tiện, chẳng ai hiểu ra làm sao cả. Có sai lầm này là vì không xuất phát từ những khái niệm đúng đắn về quyền uy tối cao mà chỉ nắm lấy những biểu hiện bề ngoài, coi đó là các bộ phận của quyền uy tối cao. Ví dụ người ta coi việc tuyên chiến hoặc giảng hòa là những điều khoản thuộc về chủ quyền tối cao. Thật ra mỗI điều khoản ấy chưa phải là luật mà chỉ là ứng dụng luật, chỉ là điều khoản cá biệt xác định tình huống cụ thể của luật. Chừng nào định nghĩa chữ luật một cách dứt khoát thì ta mới hiểu rõ vấn đê này. Theo dõi các lối phân chia khác ta cũng sẽ thấy rõ sự lầm lẫn khi người ta tưởng rằng quyền lực tối cao có thể bị phân chia. Những bộ phận quyền hành được chia tách ra đều phụ thuộc vào quyền lực tối cao, đều giả định phải có ý chí tối cao, mỗi bộ phận đều chỉ nhằn thực hiện ý chí tối cao. Có biết bao sự lầm lẫn đã phủ bóng lên quyết định của các nhà soạn thảo luật pháp chính tri, khi họ muốn phán định quyền của các ông vua và của dân chúng theo những nguyên tắc do họ vạch ra. Trong các chương III và IV quyền thứ nhất của Grotius, mọi người đều có thể thấy nhà thông thái này và dịch giả của ông là Barbayrac đã lấn lộn lung tung trong những lời ngụy biện của họ; họ sợ nói quá hoặc nói không đủ về quan điểm của mình, họ sợ các lợi ích mà họ phải điều hòa bị va chạm nhau. Grotius lưu vong ở Pháp; bất mãn với tổ quốc mình và muốn ve vãn vua Louis III (17) đã dâng cho vua cuốn sách của ông, trong đó ông không ngại gì tước hết mọi quyền của dân chúng và khoác lên mình vua tất cả mọi nghệ thuật của quyền hành. Đó cũng chính là khẩu vị của Barbayrac người đã dâng tặng bản dịch sách Grotius cho vua Anh Georges đệ nhất (Georges ler) (18). Chẳng may sự phế truất vua Jacques II (19), mà ông ta gọi là thoái vị, đã buộc ông phải dè dặt, quanh co, lần lữa, để khỏi phải gọi vua Guillaume (20) là thoán đoạt. Nếu hai tác giả này chấp nhận những nguyên lý đúng đắn thì họ đã vượt.qua được khó khăn và luôn luôn giữ được tính nhất quán. Nhưng như vậy thì buồn thay cho họ là họ phải nói lên sự chát, và họ chỉ được tán dương dân chúng mà thôi. Thế nhưng sự thật có bao giờ dắt người ta lên địa vị. Dân chúng cũng không thể phong chức đại sứ, cất nhắc học vị giáo sư và cũng chẳng có quyền tăng lương bổng. 3. NẾU Ý CHÍ CHUNG CÓ THỂ LẦM LẪN Ý chí chung bao giờ cũng thẳng và luôn luôn hướng tới lợi ích chung nhưng không phải mọi điêu luận giải của dân chúng đều là đúng đắn. Ai cũng muốn mình được tốt lành, nhưng có phải lúc nào người ta cũng nhìn thấy cái tốt lành đâu. Người ta chẳng bao giờ cố tình làm hư hỏng dán chúng, nhưng thường thường người ta vẫn lừa dối dân, đó là lúc dường như người ta mong muốn điều xấu. Cũng thường khi có sự khác nhau giữa ý chí của mọi người và ý chí chung. ý chí chung chỉ tính đến lợi ích chung; ý chí của mọi người lại nhìn vào lợi ích riêng và chỉ là tổng số những ý chí riêng lẻ. Nếu trừ đi những ý chí riêng lẻ xung khắc nhau quá quắt [2*] thì số dư sẽ là ý chí chung. Nếu dân chúng được thông tin một cách đầy đủ, khi họ luận giải vấn đê, dù cho là không ai trao đổi riêng với ai, thì qua rất nhiều sự khác biệt nhỏ, cuộc luận giải vẫn cứ dẫn tới ý chí chung, kết quả sẽ luôn luôn tốt đẹp. Nhưng khi có những âm mưu, những nhóm nhỏ dựa đẫm vào tập thể lớn, thì ý chí chung của mỗi nhóm lẻ chỉ là ý chí riêng đối với cả quốc gia; lúc đó không thể nói ràng mỗi người là một cử tri, mà phải nói mỗi nhóm nhỏ là một cử tri, và kết quả sẽ ít gần với ý chí chung hơn. Cuối cùng, khi một nhóm nào to phình lên trùm lợp tất cả các nhóm khác, ta sẽ không có được tổng số eủa nhiễu sự khác biệt nhỏ , mà chỉ có một sự khác biệt duy nhất, lúc đó sẽ không còn ý chí chung nữa, và ý kiến quyết đinh chỉ là ý kiến riêng. Muốn cho ý chí chung được bày tỏ rõ rệt thì trong một Nhà nước không nên có các phe nhóm riêng, để cho mỗi công dân được quan niệm theo ý họ [3*]. Đó là thể chế tuyệt vời duy nhất của Lycurgue (21) vĩ đại. Ví như có những phe nhóm riêng lẻ thì nên nâng số lượng các nhóm lên, và ngăn tránh sự không đồng đều giữa các phe nhóm,như Solon (22), Numa (23), Servius (24) đã từng làm. Đó là cách đề phòng tốt nhất để bảo đảm ý chí chung được soi sáng và dân chúng không bị lầm lẫn. 4. GIỚI HẠN CỦA QUYỀN LỰC TỐI CAO Nếu Nhà nước và thành bang chỉ là một con người tinh thần nhờ sự đoàn kết của các thành viên mà tồn tại, và nếu điều quan tâm chủ yếu, bậc nhất của Nhà nước là tồn tại, thì phải có một lực lượng chung có tính chất cưỡng chế để động viên và xếp đặt cho mỗi bộ phận đều được thỏa đáng với toàn bộ. Thiên nhiên đã ban cho con người cái quyền tuyệt đối sử dụng tứ chi, thì công ước xã hội cũng phải trao cho cơ thể chính trị cái quyền tuyệt đối đối với các thành viên của nó. Chính cái quyền tuyệt đối ấy được điều hành bằng chí chung, mang tên là quyền lực tối cao. Nhưng ngoài con người công cộng (tức là quyền lực tối cao) đó, ta phải xem xét đến những con người riêng lẻ, thành viên của xã hội, mà cuộc sống và tự do của họ tất yếu phải phụ thuộc vào xã hội. Vậy phải phân biệt quyền của các công dân và quyền của cơ quan quyền lực tối cao [4*], đồng thời phân biệt nghĩa vụ của thần dân với quyến tự nhiên mà con người được hưởng. Cái mà mỗi người hy sinh về quyền năng, tài sản, tự do của họ theo Công ước xã hội chỉ là một phần của quyền năng, tài sản và tự do chung mà cộng đồng người được sử dụng. Nhưng ta cũng phải nhận rằng chỉ có cơ quan quyền lực tôi cao là người phán xét về cách sử dụng chung đó. Một công dân phải làm những gì cho quốc gia do cơ quan quyền lực tối cao yêu cầu. Nhưng cơ quan tối cao cũng không thể yêu cầu, hoặc mong muốn công dân làm điều vô ích cho cộng đồng; vì theo qui luật lý tính cũng như qui luật tự nhiên, việc vô ích không có nguyên nhân thì không thể xảy ra được. Những mối dây ràng buộc chúng ta vào cơ thể xã hội chỉ là cưỡng chế khi nào nó là sự ràng buộc cả hai phía, có đi có lại. Tính chất của nó là trong khi thực hiện sự ràng buộc, người ta vừa làm cho kẻ khác lại vừa làm cho chính mình. Vì sao ý chí chung bao giờ cũng thẳng thắn, mà mọi người thì luôn luôn quan tâm đến hạnh phúc cho mỗi một cá nhân mình ? Chỉ tại không ai là không nắm vững từ ngữ "mỗi người". Trong khi tán thành với mọi người họ cũng chỉ nghĩ đến bản thân họ thôi. Điều này chứng minh rằng sự bình đắng về quyền, và khái niệm công lý do đó nảy sinh đều phát tích từ bản chất của con người, ai cũng muốn giành ưu tiên về phần mình. Ý chí chung thuôn thật sự là ý chí chung,thì phải là ý chí chung từ trong đối tượng và trong bản chất của nó, phải từ tất cả và ứng dụng cho tất cả. Ý chí chúng sẽ nhất sự đúng đắn tự nhiên khi nó thiên về nhột đối tượng riêng lẻ nhất định (ND), bởi vì lúc đó ta sẽ không có được những nguyên tắc chỉ đạo chính xác khi phải phán đoán một điều xa lạ. Gặp một trường hợp phải xử trí việc tư, mà công ước chung xưa nay chưa nói tới thì thật là khó phán xét.' Đây là vụ án mà một bên là những cá nhân eo liên đới và bên kia là công chúng, nhưng ta luiullg tìm ra luật mà cũng chẳng thấy quan tòa để tuyên xử. Trường hợp này ta không thể dựa vào lời phán quyết dứt khoát của ý chí chung được. Lời phán quyết ấy chỉ có thể là thiên về bên này hoặc thiên về bên kia nếu bên này cho là đúng đắn thì bên kia cho là xa lạ, thiên lệch; do đó dẫn tới bất công và sai lầm. Nếu như ý chí cá nhân không thể nào đại biểu cho ý chí chung,thì ý chí chung một khi đã thiên về đối tượng cá nhân sẽ mất hết bản sắc không thể phán xét đúng đắn về một người hay một việc nào nữa. Ví dụ, khi dân chúng thành Athène bầu lên hay bãi miễn thủ lĩnh của họ, họ gắn vinh quang cho người bầu và xử phạt người bị truất. Bằng nhiều nghị định cụ th, họ thực hiện tất cả luật lệ của Nhà nước, không phân biệt đối xử với một ai. Lúc đó dân chúng không hành động với tư cách quyền lực tối cao mà với tư cách quan tòa. Điều trên đây có vẻ trái với ý kiến chung nhưng xin hãy để cho tôi trình bày tiếp ý kiến của mình. Như trên, ta thấy rằng cái tổng quát mọi ý chí là ít hơn tổng số tiếng nói mà lợi ích chung bao gồm lại; bởi vì trong cơ chế này, mỗi người tất nhiên phải theo những điều kiện mà họ muốn áp đặt cho kẻ khác. Khi người ta bàn cãi về công việc tư nhân, nếu quyền lợi và công lý phù hợp nhau thì cuộc luận giải chung sẽ đúng đắn, đó là do quyền lợi chung đã dung hợp và đồng nhất qui tắc của quan tòa với lý lẽ của phe phái. Từ khía cạnh nào lần lên tới nguyên lý ta cũng đều đi đến một kết luận như nhau. Nhớ rằng công ước xã hội qui định sự bình đẳng giữa các công dân; mọi người đều phải cam kết những điều kiện như nhau và được hưởng quyền ngang nhau. Do bản chất của công ước mà mọi điều khoản chính thức của ý chí chung đều ràng buộc hoặc tạo ra thuận lợi cho mọi công dân, đến mức mà cơ quan quyền lực tối cao chỉ cần biết dân tộc nói chung, không cần phân biệt bất cứ một thành viên riêng lẻ nào. Vậy điều khoản về quyền lực tố cao là gì ? Đó không phải một bản công ước giữa cấp trên với cấp dưới, mà là công ước giữa cơ thể với tứ chi. Bản công ước này thật chính đáng vì có khoán ước xã hội làm cơ sở; thật công bằng hợp lý vì có tác dụng chung cho tất cả, thật hữu ích vì nó chỉ nhằm một đối tượng duy nhất là mưu lợi ích cho mọi người, thật vững chắc vì nó được bảo đảm bằng lực lượng công chúng và quyền năng tố cao. Chừng nào các công dân chỉ phục tùng những công ước như vậy thì họ chẳng phải cúi đầu tuân lệnh người nào, mà chỉ tuân theo ý chí của mình thôi. Hỏi quyền của cơ quan quyền lực tối cao và quyền của công dân tương ứng với nhau sẽ lấy đâu làm giới hạn, tức là hỏi rằng quyền lực tối cao và quyền của công dân có thể ràng buộc lẫn nhau đến mức nào, ở điểm nào: Mỗi người ràng buộc với tất cả vì tất cả ràng buộc với mỗi người. Như vậy quyền của cơ quan tối cao đều là tuyệt đối, là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, cũng không và không thể vượt qua giới hạn của các công ước tổng quát; mọi người có thể sử dụng thoải mái quyền tự do và phúc lợi mà các công ước đã dành cho mình; đến mức quyền lực tối cao không thể trao trách nhiệm cho người này nặng nề hơn người khác, vì như thế sẽ là thiên vi, và không xứng đáng với quyền lực tối cao nữa. Ví phỏng những điều thiên vị, phân biệt đôi xử như trên được chấp nhận, thì trong công. ước xã hội sẽ không có một sự hy sinh chân thật nào của cá nhân. Nếu có hy sinh chẳng qua là họ đổi cảnh ngộ trước kia mà lấy cảnh ngộ hiện tại mà họ thích thú hơn. Đó không phải là hy sinh mà chỉ là đổi chác vụ lợi, đổi cái bập bênh chưa chắc chắn để lấy cái tất hơn và ăn chắc hơn; như đổi sự độc lập tự nhiên để lấy tự do, đổi cái quyền dược làm hại người khác để lấy quyền an ninh cho bản thân, đổi sức lực có hạn của mình mà nhiều người có thể đánh bại để lấy quyền bất khả xâm phạm được cộng đồng xã hội bảo lĩnh. Ngay khi người công dân hiến dâng sinh mệnh cho Nhà nước thì bản thân họ cũng được bảo vệ thường xuyên; còn như dùng sinh mệnh mình để bảo vệ chính mình thì có lợi ích gì ? Lấy gì bù lại cái sinh mạng bị mất đi? Trong trạng thái tự nhiên, một khi buộc phải lao vào cuộn xâu xé, con người ném cả sinh mạng vào chỗ nguy nan để tự bảo vệ. Vậy là chỉ mất mạng đê được sinh tồn hay sao ? Mọi người phải chiến đấu vì Tổ quốc, điều đó là đúng; nhưng chiến đấu và hy sinh tính mạng vì mình thì có ích gì? Bỏ chạy để được an toàn có phải là hơn không? Bỏ chạy ít nhất cũng đỡ nguy hiểm cho tính mạng hơn là xông vào đánh nhau để mất mạng. 5. QUYỀN SINH TỬ Hỏi rằng các cá nhân không có quyền sử dụng sinh mạng của mình, sao lại có thể trao cho cơ quan tối cao cái quyền mà mình không có ấy? Câu hỏi này có vẻ khó giải đáp chỉ vì cách đặt vấn đề không đúng. Mọi người có quyền liều mình để tự bảo vệ mình chứ! Một người bị chết vì nhảy qua cửa sổ để thoát nạn cháy nhà, có ai kết tội anh ta là tự sát? Có ai kết tội những người chết đuối khi chèo thuyền vào bờ để tránh cơn bão ? Mục đích của công ước (traité) xã hội là bảo vệ những người ký kết công ước. Ai muốn tới đích thì cũng muốn có phương tiện; mà phương tiện thì không tránh khỏi đôi khi không may bị sứt mẻ. Ai muốn dựa vào kẻ khác để bảo vệ sinh mạng mình thì cũng phải đưa sinh mạng mình ra khi mọi người cần đến. Người công lân không thể cân nhắc trước tai họa mà luật nước đã yêu cầu anh phải đương đầu. Khi nguyên thủ quốc gia bảo Nước nhà cần đến cái chết của anh,thì người công dân phải chết. Cái chết đó chẳng qua là điều kiện đổi lấy sự sống an toàn mà anh ta được hưởng từ trước tới đó. Lúc này sinh mạng anh không còn là một công trình sáng tạo của thiên nhiên nữa, mà là một cống vật có điều kiện cho quốc gia. Tội tử hình đối với phạm nhân có lẽ cũng theo một quan điểm tương tự. Không muốn làm nạn nhân của bọn sát nhân, người ta đành chịu tội chết nếu tự mình lại phạm tội giết người. Trong sự thoả thuận này người ta chỉ nghĩ đến bảo đảm tính mệnh mà không nghĩ đến sử dụng tính mệnh; cả hai bên thỏa thuận không có ai là kẻ tính đến chuyện để cho mình bị treo cổ. Một người làm bậy, vi phạm quyền xã hội, trở thành kẻ loạn nghịch và phản bội tố quốc, hắn phá hoại pháp luật quốc gia, không còn là thành viên quốc gia, mà là kẻ tuyên chiến với quốc gia. Sự sinh tồn của quốc gia không thể dung hợp với sự sinh tồn của hắn; một trong hai bên phải bị tiêu diệt; và khi người ta xử tử hắn không phải là xử một công dân, mà là xử một kẻ thù. Các thủ tục tố tụng, tuyên án đều chứng minh hắn đã phá hoại hiệp ước xã hội nên không còn là thành viên xã hội nữa. Một khi hắn bị bắt giữ và nhân tội, hắn phải bị loại trừ như một kẻ vi phạm công ước, hoặc bằng án tử hình như một kẻ thù của tất cả mọi người. Một kẻ thù như thế không còn là con người tinh thần nói chung mà là con người cụ thể phải vận dụng luật chiến tranh với hắn: giết kẻ bại trận. Nhưng người ta sẽ nói: xử tội một người là điều khoản cá biệt. Phải, xử tội như vậy không dính gì đến cơ quan quyền lực tối cao; đó là quyền mà cơ quan tối cao có thể tham chiến nhưng không ứng dụng cho bản thân nó. Hay dùng hình phạt bao giờ cũng là biểu hiện của yếu đuối và lười biếng trong việc cai trị. Không có cái ác nào mà lại không thể cải thiện được trong một việc nào đó. Chỉ có quyền xử tử để răn đe chung khi ta không thể giữ kẻ tội phạm nhột cách yên ổn. Quyền ân xá hoặc miễn tội cho kẻ đã bị tuyên án là thuộc về kẻ đứng trên quan tòa và luật pháp. Quyền này cũng chỉ nên dùng một cách họa hoằn thôi: Trong một nước khéo cai trị, ít dùng hình phạt không phải vì thủ lĩnh có tính khoan dung mà vì ít người phạm tội. Khi Nhà nước suy thoái, tội phạm quá nhiều thì khó trừng phạt. Dưới chế độ cộng hòa La Mã, Viện nguyên lão, quan chấp chính không hay khoan hồng, mà dân chúng cũng không thích khoan hồng, mặc dầu nhiều khi họ thay đổi sự phán xét của chính mình. Hay khoan hồng tức là báo hiệu rằng sự trừng phạt sẽ không cần nữa; mọi người thấy như thế hoặc tự nó sẽ dẫn đến chỗ đó. Nhưng tôi nghe trái tim mình đang thì thầm và giữ ngòi bút tôi lại: ta hãy trao đổi những vấn đề này với một người chưa hề phạm tội và không cần đến lượng khoan hồng. 6. BÀN VỀ LUẬT Với công ước xã hội, chúng ta làm cho cơ thể chính trị tồn tại và có một đời sống. Ta lại phải lấy việc lập pháp để làm cho cơ thể chính trị có vận động và có ý chí; vì điều khoản đầu tiên làm cho cơ thể chính trị hình thành và cố kết chưa phải là điều khoản làm cho nó được bảo toàn. Sự vật tốt lành và hợp với trật tự là do bản chất của nó, chứ không phụ thuộc vào các công ước giữa người với người.Tất cả công lý là tự Trời mà ra. Trời là nguồn gốc của công lý. Nhưng nếu ta, biết tiếp nhận công lý từ Trời thì ta chẳng cần đến Chính phủ và luật pháp nữa. Tất nhiên là có một công lý phổ thông toát ra từ lý trí; nhưng công lý đó muốn được chấp nhận nhận phải có đi có lại. Xem xét các sự vật một cách phàm tục, ta thấy dường như thiên nhiên đã qui đinh rằng luật công bằng không ăn nhằm gì với con người. Pháp luật chỉ làm tốt cho kẻ ác và làm xấu cho người đứng đắn. Anh ta tôn trọng luật pháp đối với mọi người, nhưng mọi người lại không tôn trọng luật pháp với anh ta. Vậy phải có những công ước và những đạo luật để gắn liền quyền hạn và nghĩa vụ, đưa công lý về với đối tượng của nó. Trong trạng thái tự nhiên, mọi cái đều là chung cho mọi người, tôi chẳng phải làm gì cho những người mà tôi không hứa hẹn gì với họ. Tôi chỉ nhận làm cho người khác cái gì mà tôi thấy bổ ích cho tôi. Trong trạng thái dân sự thì không thể, ở đây mọi quyền đều do luật qui đinh. Vậy rốt cuộc luật lệ là gì ? Chừng nào người ta còn gắn cho chữ luật những ý niệm siêu hình thì người ta cứ việc luận giải mà không cần phải hiểu thấu; và khi người ta nói về qui luật tự nhiên thi người ta chẳng biết gì hơn về luật của Nhà nước. Trên kia tôi đã nói không có gì là ý chí chung trên một đối tượng cá nhân. Đối tượng cá nhân ấy có thể là trong Nhà nước hoặc ngoài Nhà nước. Nếu ở ngoài Nhà nước thì một ý chí khác với cá nhân anh không thể lấy chí chung đối với anh được. Nếu đối tượng cá nhân đó là ở trong Nhà nước, thì y chí chung dẫu là khác với ý riêng của anh, vẫn là ý chí chung đối với anh. Lúc đó hình thành một quan hệ giữa một bên là cá nhân, bên kia là toàn thể trừ cá nhân ấy. Nhưng toàn thể bớt đi một cá nhân thì không còn là toàn thế nữa, và mối quan hệ trên đây chỉ là giữa hai bên không đều nhau; ý chí bên này không thể là ý chí chung cho cả bên kia được. Khi toàn dân qui định một điều gì cho toàn dân thì họ chỉ xem xét đến toàn thể, nếu hình thành mối quan hệ thì phải là quan hệ giữa toàn thể trên một cách nhìn này với toàn thể trên một cách nhìn khác; cái toàn thể không hề bị chia tách ra. Như vậy chất liệu để xây dựng là chất liệu chung, cũng như ý chí xây dựng là ý chí chung. Cái đó tôi gọi là luật. Khi tôi nói luật bao giờ cũng là tổng quát chung cho mọi người (ND), tôi hiểu rằng luật coi tất cả thần dân là một cơ thể, mà trừu tượng hóa các hành động, không coi con người như một cá nhân hoặc như một hành động riêng lẻ. Luật có thể qui đinh rằng sẽ có một số đặc quyền, nhưng không nói rõ đặc quyền cho một cá nhân cụ thể nào. Luật cũng có thể chia công dân làm nhiều hạng, nhưng không chỉ định cụ thể người nọ người kia là thuộc hạng này hay hạng khác. Luật có thể qui đinh việc thành lập chính phủ và hệ thống cấp bậc, nhưng không cử ra một ông vua hay chỉ định ra một gia tộc nào là hoàng gia. Tóm lại mọi chức năng liên quan đến đối tượng cá nhân không phải là chức năng của quyền lực lập pháp. Trên tư tưởng này ta sẽ thấy rằng không nên hỏi ai là người làm ra luật, vì luật là những điều khoản của ý chí chung. Cũng không nên hỏi vị nguyên thủ có đứng trên luật không, vì ông ta cũng chỉ là một thành viên của Nhà nước. Cũng không nên hỏi luật có thể nào bất công chăng, vì không ai lại bất công với chính bản thân mình. Cũng không nên hỏi ta được tự do và phải tuân theo luật như thế nào, vì luật chỉ là ghi lại ý chí của ta mà thôi. Ta cũng lấy rằng luật lệ thống nhất cái tổng thể của ý chí với tổng thể của đối tượng. Cái mà một người, vô luận chức tước gì, ra lệnh cho lột cá nhân làm, không phải là luật. Ngay cái mà cơ quan quyền lực tối cao ra lệnh cho một đối tượng cá nhân cũng không phải luật, mà chỉ là một nghị định. Nó không phải việc của cơ quan tối cao mà của cá nhân pháp quan. Vậy nước cộng hòa là tất cả những nước nào do luật trị vì bất kể trị vì dưới hình thức nào. Luật trị vì tức là lợi ích chung trị vì. Cái chung là một cái gì đó khá quan trọng.Tất cả những chính phủ chính đáng đều là chính phủ cộng hòa [5*]. Sau đây tôi sẽ giải thích chính phủ là gì. Luật chỉ là những điều kiện chính thức của việc tập hợp dân sự. Dân chúng tuân theo luật phải là người làm ra luật (ND) . Chỉ những người họp thành xã hội mới có quyền xử lý các điều kiện xã hội. Nhưng người ta xử lý nó như thế nào? Phải chăng đó là một cuộc thảo luận chung, theo một sáng kiến nhất thời ? Cơ thể chính tri có một bộ máy nào để công bố ý chí chung hay không ? Ai sẽ làm cho cơ quan đó có được sự nhìn xa cần thiết để soạn thành các luật và cồng bố 7. BÀN VỀ NGƯỜI LẬP PHÁP Muốn tìm ra chung quy tắc xã hội tốt nhất thích hợp với quốc gia thì phải có một trí tuệ ưu việt. Trí tuệ ấy thấy rõ mọi ham muốn của con người mà không thiên về một ham muốn nào. Trí tuệ ấy không dính líu tới bản chất của từng người nhưng am hiểu nó thật tường tận. Hạnh phúc của trí tuệ ấy không phụ thuộc vào chúng ta, nhưng vẫn muốn chăm lo hạnh phúc cho ta. Trí tuệ ấy xây dựng một sự nghiệp cao cả, lâu dài, có thể phải làm trong một thế kỷ và hưởng thụ ở thế kỷ sau [6*] Nếu thế thì phải là thần thánh mới đem lại luật pháp cho con người được. Trên đây là cách luận giải của Caligula trong hành động thực tế của ông. Còn Platon (25) thì ứng dụng điều trên đây vào luật học để đinh nghĩa con người dân sự và con người vương giả trong cuốn sách "Bàn về trị vì" (du Règne) của ông. Nhưng nếu một ông vua lớn là người hiếm có, thi nhà lập pháp lớn sẽ là người như thế nào nữa kia. Ông vua chỉ làm theo mô hình của nhà lập pháp. Nhà lập pháp là kĩ sư sáng chế ra máy; ông vua chỉ là người thợ dựng máy lên và vận hành máy. Montesquieu (26) nói : "Khi xã hội mới hình thành, thủ lĩnh các nước cộng hòa tạo nên thể chế và sau đó chính thể chế lại đào tạo nên các thủ lĩnh của nền cộng hòa" . Ai dám đứng ra xây dựng chế độ cho cả một dân tộc. Người đó phải cảm thấy mình ở tư thế làm biến đổi tính chất con người, cải tạo được từng cá nhân, còn bản thân ông ta là một tổng thể hoàn chỉnh và đơn độc, là bộ phận của một tổng thể lớn hơn; người đó phải cảm thấy mình ở tư thế cải biến cấu trúc loài người để tăng cường nó, thay đổi sự tồn tại chỉ có ý nghĩa tinh thần và cục bộ bằng một sự tồn tại vật chất độc lập, mà mỗi người chúng ta đều được thiên nhiên ban cho. Tóm lại, người lập pháp đó rút đi sức mạnh vốn có trong mỗi người, rồi thay nó bằng một sức mạnh khác, sức mạnh mới này mỗi khi vận đụng nó thì phải có sự giúp đỡ của người đồng loại. Như vậy, sức mạnh tự nhiên bi mất đi, bị hủy bỏ đi bao nhiêu thì sức mạnh mới thu được càng lớn lên và lâu bền bấy nhiêu, cơ chế xã hội càng vững chắc và hoàn chỉnh bấy nhiêu. Nếu mỗi công dân không là gì cả, và chỉ có thể là một cái gì nhờ tất cả mọi người mà tồn tại, thì sức mạnh thu được của tất cả mọi người phải bằng hoặc lớn hơn tổng số sức mạnh tự nhiên của mọi cá nhân cộng lại. Có thể nói rằng lập pháp là đỉnh cao nhất của sự hoàn thiện mà sức thạnh tập thể có thể đạt tới (ND). Người lập pháp, về tất cả mọi phương diện là một người phi thường trong quốc gia; phi thường chẳng những do thiên tài mà chính là do được sử dụng nữa. Người lập pháp quyết không phải một vị pháp quan hay một quốc vương. Việc sử dụng nhà lập pháp không đưa vào trong hiến pháp, nhưng việc sử dụng đó lại tạo lập ra nền cộng hòa. Đó là một chức năng đặc biệt và cao cả, không giống với chức năng của một con người cụ thể, bởi vì ai đã truyền lệnh cho người thì không được truyền lệnh cho pháp luật. Và kẻ đã truyền lệnh cho pháp luật cũng không nên truyền lệnh cho người. Không như thế thì luật pháp vốn là công cụ chế ngự tham vọng sẽ trở thành công cụ để duy trì bất công, sẽ không tránh khỏi tình trạng các quan điểm cá nhân làm mờnhạt sự trong sáng của tác phẩm. Khi Lycurgue đưa pháp luật về cho tổ quốc, việc đầu tiên là ông xóa bỏ ngôi vua. Điều đó đã thành một tập quán lớn của các thành bang Hi Lạp khi họ trao quyền lập pháp cho một người ngoại lai. Các nước cộng hòa hiện đại trên đất Ý thường học theo tập quán này. Nước Cộng hòa Genève cũng làm thế, và thấy thế là tốt [7*]. La Mã đến thời cực thịnh thì bắt đầu quy vào cho một số người có quyền lập pháp và quyền cai trị tối cao; từ đó nảy sinh các tệ nạn độc đoán chuyên quyền và Nhà nước La Mã cổ đại bước dần vào chỗ suy vong. Tuy nhiên, các vị trong hàng thập đại pháp quan La Mã không được phép thông qua một đạo luật nào quy đinh quyền hạn của họ. Họ nói với dân chúng rộng: "Những điều chúng tôi đề nghị chỉ biến thành luật chừng nào dân chúng đồng ý. Hỡi công dân La Mã, các bạn hãy làm ra luật để bảo đảm lấy hạnh phúc của mình. Vậy người chấp pháp không nền có quyền lập pháp (ND) và dân chúng dầu muốn cũ ng không thể trao quyền lập pháp cho người chấp pháp. Vì theo như Công ước cơ bản thì chỉ có ý chí chung buộc các cá nhãn phải theo nó. Người ta không bao giờ chắc rằng ý chí cá nhân tự nó phù hợp với với ý chí chung. Chỉ có thể tin như thế sau khi đã đặt ý chí cá nhân dưới cuộc đầu phiếu tự do của dân chúng. Tôi đã nói điều trên đây, nhưng nhắc lại cũng không thừa. Như vậy ta thấy trong công trình lập pháp có hai điều dường như mâu thuẫn nhau. Một thiết chế vượt lên trên sức mạnh con người, và thực hiện thiết chế đó là một quyền uy không là cái gì hết. Còn một điều rắc rối nữa đáng được lưu ý: Các nhà thông thái muốn nói với người tầm thường bằng ngôn ngữ bình dân cũng chưa chực được người ta hiểu mình. Có hàng ngàn thứ tư tưởng không thể diễn đạt bằng ngôn ngữ bình dân. Những vấn đề quá khái quát, những đối tượng quá xa xôi đều ở ngoài tầm nhận thức của con người bình dân là những người thường chỉ thích thú những vấn đề liên quan tới quyền lợi là những người riêng của mình, khó mà nhận ra các điều lợi do các luật đúng đắn mang lại, thông qua sự tước bỏ những quyền cá nhân của họ. Muốn cho một dân tộc đang hình thành được hưởng những phương châm chính trị tốt đẹp và tuân theo luật cơ bản của lý trí quốc gia thì phải lộn ngược kết quả làm nguyên nhân: Đầu óc xã hội là do thể chế tạo ra đã chủ trì thể chế đó. Con người trước khi làm ra luật đã phải là con người đo luật đào tạo nên. Vậy thì người lập pháp không thể dùng sức mạnh cũng như lý lẽ; ông ta phải nhờ đến một thứ quyền uy khác, có thể chinh phục người ta mà không dùng đến bạo lực, có thể thuyết phục người ta mà không cần phải nói lý lẽ. Cho nên ta thấy rằng qua mọi thời đại thủ lĩnh quốc gia đều phải nhờ đến sự can thiệp của Trời. Họ gắn cho Trời sự thông thái của chính họ, để dân chúng phải phục tùng luật pháp Nhà nước y như phục tùng các quy luật tự nhiên vậy. Trong khi thừa nhận quyền lực của Trời để tạo ra con người, tạo ra thành bang và tuân thần Trời một cách tự do, thì dân chúng cũng tự nguyện mang lấy cái tròng phúc lợi công cộng của luật pháp. Cái lý lẽ cao siêu ấy vượt lên trên tầm của con người bình thường, chính là lý lẽ mà người lập pháp gán cho thần thánh để dùng quyền lực siêu nhân lung lạc trì tuệ dân chúng [8*]. Nhưng không phải ai cũng có thể làm cho thần thánh lên tiếng và được tin theo trong khi họ tuyên xưng mình là kẻ diễn đạt ý Trời. Tâm hồn cao cả của người lập pháp chính là điều kỳ diệu xác nhận chức năng của ông ta. Để ép dân chúng, người khắc mệnh lệnh lên đó, hoặc mượn lời sấm truyền, hoặc vờ vĩnh làm chuyện mua bán bí mật với thần thánh; hoặc dựng lên những con vật biết nói vào tai dân, hoặc tìm ra những biện pháp thô bạo khác. Những kẻ ấy chỉ biết tập hợp một cách ngẫu nhiên những người không phương hướng, chứ không thể nào xây dựng được một đất nước vững bền. Sự nghiệp rởm của họ sẽ tiêu tan sau khi họ chết. Mọi thứ uy tín giả tạo chỉ làm ra những mối liên hệ tạm thời; chỉ có trí tuệ uyên bác mới tạo nên những mối liên hệ vững bền. Luật Do Thái (28) luôn có thể bị thay thế, luật của con trai Ismael (29) thì đã trị vì phân nửa thế giới trong mười thế kỷ, cho đến nay còn được các bậc vĩ nhân truyền tụng. Những đầu óc bè phái mù quáng, kiêu căng coi các bậc vĩ nhân như bọn bịp đời, còn các nhà chính khánh đúng đắn thì thán phục tài năng lớn lao và thể chế vững bền mà các vĩ nhân đã dựng nên. Qua những điều được trình bày trên đây, xin chớ kết luận như Warburton ( 30 ) rằng chính trị và tôn giáo có chung một đối tượng; mà nên kết luận rằng trong nguồn gốc dân tộc, tôn giáo là công cụ của chính trị và chính trị cũng là công cụ của tôn giáo. 8. DÂN CHÚNG Trước khi dựng lâu đài lớn, nhà kiến trúc thăm dò xem đất có chịu nổi trọng lượng của lâu đài hay không. Nhà lập hiến thông minh không bắt tay ngay vào việc soạn luật, trước đó ông xem xét dân chúng là người tiếp nhận luật có thích ứng được với luật không (ND) : Vì thế mà Platon đã từ chối không soạn thảo luật cho dân Arcadie (31) và dân Cyrène (32) , vì biết họ là dân giàu có, không thể chịu nổi sự bình đẳng. Cũng do vậy mà ở Crète (33) có luật tốt mà lại có nhiều người ác, vì vua (Minos) (34) chỉ đưa một dân tộc tội lỗi vào trật tự. Trên trái đất có hàng ngàn dân tộc đã nổi bật lên, nhưng chưa bao giờ có được luật pháp tốt. Một số dân tộc khác đã từng có luật pháp tốt nhưng chỉ được một thời gian ngắn. Phần lớn các dân tộc cũng như con người, chỉ dễ bảo khi còn trẻ tuổi,về già càng khó uốn nắn. Một khi phong tục tập quán đã bắt rễ sâu, muốn thay đổi nó thì thật nguy hiểm và vô hiệu; dân chúng không chịu nổi ngay khi người ta động đến những cái xấu xa của họ để giúp cho họ tiễu trừ cál xấu ấy, chẳng khác gì những con bệnh đần độn và nhút nhát thường sợ hãi khi trông thấy bác sĩ. Nói như thế không có nghĩa là các dân tộc không thể có lúc trẻ lại. Người ta đôi khi vì mắc bệnh mà quên hết quá khứ. Các dân tộc cũng có thời kỳ cách mạng sôi động, khủng hoảng dữ dội gây ra kinh hoàng, nhưng rồi người ta quên đi. Được kích thích bằng những cuộc nội chiến, Nhà nước thoát khỏi tay thần chết lại phục hưng từ đống tro tàn, lấy lại sức
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan