Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bước đầu khảo sát những đặc điểm ngôn ngữ văn hóa hai dân tộc hán việt qua c...

Tài liệu Bước đầu khảo sát những đặc điểm ngôn ngữ văn hóa hai dân tộc hán việt qua các hình ảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt trong những bài thơ đỗ phủ ( trung quốc ) và nguyễn trãi ( việt nam )

.PDF
95
7
126

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------- TRẦN OANH (CHEN YING) BƯỚC ĐẦU KHẢO SÁT NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ VĂN HOÁ HAI DÂN TỘC HÁN - VIỆT QUA CÁC HÌNH ẢNH PHONG, HOA, TUYẾT, NGUYỆT TRONG NHỮNG BÀI THƠ ĐỖ PHỦ (TRUNG QUỐC) VÀ NGUYỄN TRÃI (VIỆT NAM) Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Người hướng dẫn khoa học:GS. TS. Trần Trí Dõi Hà Nội – 2010 1 MỞ ĐẦU 1. L{ do chọn đề tài. Trên thế giới, có vạn sự vạn vật giống nhau. Tư duy con người để phản ánh sự vật cũng tương đồng. Chẳng hạn nhìn thấy mặt trời, ai cũng biết là mặt trời, nhưng khi đi vào ngôn ngữ khác thì nó sẽ khác. Chẳng hạn người Trung Quốc gọi mặt trời là tài yáng, người Anh lại gọi là sun. Về mặt ngôn ngữ - văn hóa, Việt Nam và Trung Quốc có rất nhiều nét tương đồng và khác biệt mà nếu tìm hiểu kỹ, chúng ta sẽ nhận biết được nhiều điều bổ ích và thích thú. Chẳng hạn như trong những bài thơ cổ của tiếng Hán và Hán Việt, thường thấy xuất hiện những khái niệm như rượu, thơ. Nhưng cái sự vật liên tưởng đến nó thì không hoàn toàn giống nhau. Chính nhờ sự không hoàn toàn giống nhau áy mà qua sự nghiên cứu ngôn ngữ, chúng ta có thể thấy văn hóa truyền thống của hai nước có nhiều nét khác. Luận văn của chúng tôi, từ điểm xuất phát ấy, sẽ bước đầu tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ văn hóa hai dân tộc Hán - Việt qua hình ảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt trong những bài thơ của nhà thơ Đỗ Phủ (Trung Quốc) và Nguyễn Trãi (Việt Nam). 2 Sở dĩ chúng tôi chỉ khuôn lại ở các từ chỉ phong, hoa, tuyết, nguyệt để Bước đầu khảo sát những đặc điểm ngôn ngữ - văn hóa hai dân tộc Hán Việt qua các hình ảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt trong những bài thơ Đỗ Phủ (Trung Quốc) và Nguyễn Trãi (Việt Nam) là vì những từ nói trên là một trong những hình ảnh tiêu biểu nhất của những bài thơ cổ của tiếng Hán và Hán Việt. Với khuôn khổ một luận văn Thạc sỹ, dung lượng của nó không cho phép nói tới nhiều hình ảnh khác nhau. Đồng thời, với trình độ có hạn chúng tôi cũng hy vọng từ bước đầu khảo sát này sẽ rút ra bài học cho những khảo sát khác nhau khi có điều kiện trong tương lai. 2. Đối tượng, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Đối tượng Đối tượng khoa học mà luận văn tự xác định cho mình là những từ Hán và Hán Việt chỉ hình ảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt trong một số bài thơ của Đỗ Phủ (Trung Quốc) và Nguyễn Trãi (Việt Nam). Một số bài thơ của Đỗ Phủ được chúng tôi lấy từ cuốn Thơ Đỗ Phủ do ông Nhượng Tống dịch, Nhà xuất bản Thông tin ấn hành năm 1995 . Còn thơ của Nguyễn Trãi, chúng tôi thu thập theo cuốn sách Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 1999. 2.2. Mục đích 3 Thông qua việc tìm hiểu từ ngữ diễn tả các hình ảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt của hai tác giả, chúng ta sẽ bước đầu nhận ra những đặc điểm ngôn ngữ - văn hoá của tiếng Hán và Hán Việt. Từ đó chúng ta có thể tiến hành so sánh để tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt của ngôn ngữ - văn hóa hai nước. 2.3. Nhiệm vụ Thế giới tư duy của mỗi người đều giống nhau nhưng sau khi qua ngôn ngữ dân tộc riêng của mình diễn tả nó sẽ khác nhau. Trung Quốc và Việt Nam tuy có nét văn hóa tương đồng, thói quen tương cận, nhưng trong những bài thơ, bài văn mà hai dân tộc này diễn tả, tuy là miêu tả cùng một sự vật nhưng nó cũng có thể liên tưởng đến những sự vật khác. Qua tìm hiểu những sự khác biệt trong ngôn ngữ của hai dân tộc, có thể nhận thấy được ít nhiều sư khác nhau về nền văn hóa. Trong luận văn này chúng tôi sẽ thông qua việc tìm hiểu cách dùng những hình ảnh của các từ phong, hoa, tuyết, nguyệt trong thơ Đỗ Phủ, trong thơ Nguyễn Trãi để từ đó so sánh đặc trưng từ ngữ, đặc điểm văn hóa của hai dân tộc Trung - Việt. 3. Phương pháp nghiên cứu 4 Để thực hiện đề tài này, luận văn sẽ sử dụng kết hợp một số thủ pháp và phương pháp được coi trọng trong nghiên cứu ngôn ngữ. Đó là các thủ pháp và phương pháp sau đây: - Phương pháp miêu tả. Phương pháp này là để miêu tả tư liệu thu thập được. Trên cơ sở miêu tả ấy, chúng tôi tiến hành phân loại, phân tích để rút ra những nhận xét của mình. - Thủ pháp thống kê với nhiệm vụ thu thập tư liệu phục vụ cho việc miêu tả phân tích. - Thủ pháp so sánh để nhận biết sự giống nhau và khác nhau trong việc sử dụng từ ngữ ở tiếng Hán của Đỗ Phủ và tiếng Hán Việt của Nguyễn Trãi. 4. Kết cấu của khoá luận Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, tài liệu tham khảo, sẽ bao gồm ba chương như sau: Chương 1: Một cái nhìn định hướng cho việc miêu tả. Trong chương này luận văn sẽ trình bày một số nội dung l{ thuyết liên quan đến luận văn. Cụ thể: - Giới thiệu về hai nhà thơ Đỗ Phủ và Nguyễn Trãi và { thức cũng như ảnh hưởng của Nho giáo trong hai ông. Trên cơ sở đó tiến hành tìm ra sự 5 giống nhau và khác nhau có thể có giữa hai nhà thơ. Việc giới thiệu này là nhằm giúp chúng ta tìm nguyên nhân xã hội của sự giống nhau và khác nhau trong việc sử dụng ngôn ngữ của hai nhà thơ. Chương 2: Miêu tả tình hình sử dụng các từ Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt trong thơ Đỗ Phủ và Nguyễn Trãi. Trong chương này luận văn sẽ thu thập những câu thơ có các hình ảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt trong thơ Đỗ Phủ và Nguyễn Trãi rồi so sánh về các hình ảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt đó. Qua việc kết hợp với các từ hoặc nhóm từ với 5 loại hình thức khác nhau của phong, hoa, tuyết, nguyệt trong đó có một số là trường hợp thường gặp, chúng ta có thể nhìn nhận được phong cách sáng tác và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của hai tác giả. Chương 3: Miêu tả các từ Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt trong thơ Đỗ Phủ và Nguyễn Trãi theo giai đoạn cuộc đời. Về mặt ngữ nghĩa học, mỗi một hình ảnh trong thơ có thể coi là một “{ tượng”. “Ý tượng” này gồm hai mặt, một mặt là “{”, tức là tư tưởng thẩm mỹ và tình cảm thẩm mỹ chủ quan của tác giả. Một mặc là “tượng”, tức là cái chỉ sự vật bản thân của nó (có thể là cảnh quan, sự vật, tiếng giọng, màu sắc, những sự vật do tưởng tượng do con người sáng tạo ra) Trong 6 việc sáng tác thơ, theo thói quen thông thường, tác giả thường thông qua miêu tả những hình ảnh để biểu đạt tình cảm của mình. Chương này phân ra từng giai đoạn trong cuộc đời, từng vấn đề cụ thể của hai tác giả để khảo sát và phân tích các hình ảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt trong các bài thơ. Từ đó để so sánh và đối chiếu sự tương đồng cũng như khác biệt về mặt ngôn ngữ nghệ thuật cũng như nỗi lòng của tác giả bị cuộc sống và xã hội tác động. Chương 1 MỘT CÁI NHÌN ĐỊNH HƯỚNG CHO VIỆC MIÊU TẢ 7 Trong chương này, chúng tôi sẽ tìm hiểu về xã hội, hoàn cảnh cuộc sống của hai ông để giúp cho việc miêu tả và nhận xét tiếp theo. 1.1. Giới thiệu sơ lược về Đỗ Phủ và Nguyễn Trãi 1.1.1 Đỗ Phủ Trong li ̣ch sử văn họ c Trung Quốc , mọi người thường nói đến “L{ Đỗ” là đại diện cao nhất về thành tựu của thơ ca đời Đường (618-907). Trong đó “Lý” là “Thi Tiên” (nhà thơ tiên, ở đây chỉ L{ Bạch). Ông Lý Bạch nổi tiếng thế giớ i. Còn “Đỗ” là “Thi Thánh” (nhà thơ thánh, ở đây chỉ Đỗ Phủ). Đỗ Phủ cũng nổi tiếng thế giớ i như ông Lý Bạch. Đỗ Phủ sinh vào n ăm 712 sau công nguyên, là cháu của nhà thơ rất nổi tiế ng Đỗ Thẩm Ngôn . Từ thuở nhỏ Đỗ Phủ đã rất thông minh và chịu khó học tập. Sinh ra trong gia đình có truyền thống v ăn hóa văn học , từ 7 tuổ i, Đỗ Phủ đã biết làm thơ . Sau khi trưởng thành ông thông tha ̣o thư pháp , hô ̣i họa, âm nha ̣c , cưỡi ngựa và chơi gươm . Thật là một người được dạy dỗ trong nhà danh gia vọng tộc. Thời thanh niên, Đỗ Phủ cho r ằng miǹ h có tài ba lỗi la ̣c và chí hướng to lớn hơn người nên n ăm 19 tuổ i, ông bắt đầu ngao du khắp thiên ha ̣, số ng cuô ̣c số ng lañ g ma ̣n , ăn chơi lông bông . Quãng thời gian đó chính là thời kỳ phồn vinh hưng thịnh nhất của đời Đường. Đỗ Phủ đã thăm nhiề u danh lam th ắng cảnh , nhờ đó kiế n thức của ông ngày càng 8 rô ̣ng lớn . Cũng nhờ đó ông viế t ra những câu thơ nổ i tiế ng cho tới hàng nghìn năm như là “Hội đương lăng tuyê ̣t đỉnh, nhấ t lãm chúng sơn tiểu”. Giố ng như nhiề u nhà thơ cổ văn khác ở Trung Quốc, Đỗ Phủ cũng mong đi lên theo con đường làm quan. Ông không ngừng làm thơ và tham gia hoa ̣t động giao lưu với giới quyền quý , tham gia khoa cử , nhưng bi ̣thấ t ba ̣i nhiề u lầ n. Khi về trung niên, Đỗ Phủ sống cuộc sống nghèo khó ở Trường An , thủ đô nhà Đường lúc bấy giờ. Ông tâ ̣n mắt nhìn thấ y tình hình kẻ quyề n quý ăn chơi xa xỉ và cảnh thê thảm người nghèo chiụ rét , chế t đói trên đường phố Trường An. Ông viế t ra lời r ăn “Chu môn tửu nhục xú , Lộ hữu đống tử cốt”. Trải qua sự ngã lòng trầm luân trên con đường mong mỏi làm quan và cuộc số ng đói rét khổ cực , Đỗ Phủ nhận thức được sự hủ bại của kẻ thống trị và nỗi đau khổ của nhân dân lao động . Điều đó khiế n ông dầ n dầ n trở thành mô ̣t nhà thơ lo viê ̣c nước lo viê ̣c dân. Năm 755 sau công nguyên, Đỗ Phủ 43 tuổ i và cũng được nhậm một chức quan nhưng chỉ mô ̣t tháng sau, đời Đường xảy ra phiến loạn chiến tranh. Sau đó, phiế n loa ̣n chiế n tranh xảy ra không ngừng . Trong thời kỳ này , Đỗ Phủ trôi da ̣t đó đây, trải qua nhiều gian nan , có nhận thức tỉnh táo hơn đối với hiê ̣n thực xã hội . Ông đã viế t các bài thơ nổ i tiế ng như “ Thạch Hào lại ”, “Đồng Quan lại”, “Tân An lại”, “Tân Hôn biê ̣t”, “Thùy Lão biệt” và “Vô Gia 9 biê ̣t”, bày tỏ lòng đồng tình sâu s ắc đối với nhân dân lao động và bày tỏ sự phẫn nô ̣ của nhà thơ đối với chiế n tranh. Năm 759 sau công nguyên, Đỗ Phủ thất vọng sâu sắc đối với chính trị nên từ quan về vườn . Lúc bấy giờ , Trường An đang bi ̣ha ̣n hán , Đỗ Phủ nghèo đến nỗi không thể sống nổi , bèn dẫn người nhà lưu vong đến Thành Đô ở miề n tây nam Trung Quố c bây giờ . Được sự cứu tế của bạn bè, Đỗ Phủ số ng cuô ̣c số ng ở ẩ n trong bốn năm. Trong tình hình nghèo khó, Đỗ Phủ viết ra bài thơ “Lề u tranh bi ̣ cơn gió mùa thu phá hoại ”, miêu tả hoàn cảnh kh ốn khổ của cả gia đình và từ sự từng trải thiết thân của mình nghĩ đến cảnh ngộ của người khác , khát khao có hàng chục triệu c ăn nhà để giúp mọi người nghèo chịu rét chịu đói trong thiên hạ được thoát khỏi nỗi đau khổ . Thâ ̣m chí ông muố n hy sinh cá nhân để đổi lấy nụ cười của mọi người nghèo trong thiên ha ̣. Những bài thơ ông viết vào giai đoạn này có tình cảm sâu thẳm, thể hiê ̣n tinh thầ n cao cả của nhà thơ đối với nhân dân. Năm 770 sau công nguyên, Đỗ Phủ 59 tuổ i và mấ t trên đường lưu vong phiêu bạt bởi bầ n cùng và bê ̣nh tâ ̣t . Đỗ Phủ để lại hơn 1400 bài thơ , phản ánh sâu s ắc, toàn diện diện mạo xã hội nhà Đường trong hơn 20 năm phiế n loạn chiến tranh , từ thời kỳ phồn vinh đến thời kỳ suy sụp . Các áng v ăn hoành tráng như sử thi . Thơ của Đỗ Phủ có kết cấu đa da ̣ng. Ông ho ̣c tâ ̣p ưu điể m của người khác , dung hơ ̣p hiǹ h thức kể chuyê ̣n , ký sự, trữ tiǹ h và biǹ h 10 luâ ̣n. Thơ ông có nô ̣i dun g sâu rô ̣ng, tình cảm chân thành nồng nàn . Về mặt nghê ̣ thuâ ̣t, ông không những thu góp la ̣i cái hay của thơ ca cổ điể n, mà còn sáng tạo và phát triển , đã mở rộng lĩnh vực thơ ca về m ặt nô ̣i dung và hin ̀ h thức, ảnh hưởng sâu rô ̣ng tới nhiều đời sau. 1.1.2 Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi (1380-19.9.1442), hiệu Ức Trai, quê ở xã Chi Ngại, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương); sau dời đến làng Ngọc Ôỉ, xứ Sơn Nam Thượng, huyện Thượng Phúc (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây cũ). Ông cũng xuất thân trong một gia đình Nho học: cha là Nguyễn Ứng Long, tức Nguyễn Phi Khanh (1356-1429); ông ngoại của ông là ông Trần Nguyên Đán (1325-1390) là tiến sĩ, nhà thơ và Tể tướng cuối triều Trần. Hơn nữa, ông vốn là người tài trí, thi đậu Thái học sinh (Tiến sĩ) vào năm Canh Thìn (1400) và được triều Hồ trao giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng khi mới tròn 20 tuổi. Nguyễn Trãi hội đủ điều kiện để có thể dấn thân gánh vác những trọng trách lớn lao và góp phần giải quyết những thách thức đang đặt ra đối với toàn dân tộc Việt Nam. Trải qua nhiều năm tháng tìm đường cứu nước, bước chân trải khắp dặm dài xứ sở, đặc biệt là quãng đời mười năm gian khổ “nếm mật năm gai” gắn bó với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cho đến ngày toàn thắng, Nguyễn Trãi đã tỏ rõ bản lĩnh, khí phách và tinh 11 thần Đại Việt, trở thành nguồn sáng phẩm chất và tinh hoa của dân tộc Việt Nam. Nguyễn Trãi là nhà văn hóa xuất sắc của Việt Nam trên các tư cách khác nhau: anh hùng dân tộc, nhà văn, nhà tư tưởng, nhà chính trị - quan chức, nhà ngoại giao, nhà sử học và địa l{ học. Về hoạt động xã hội, ông là bậc khai quốc công thần một lòng đắp xây vương triều Lê trong buổi ban đầu. Sau đại thắng Mậu Thân, Nguyễn Trãi đã viết một số tác phẩm trong đó có “Bình Ngô đại cáo”, “Phú núi Chí Linh”, “Lam Sơn Vĩnh Lăng Thần đạo bi” và “Băng Hồ di sự lục” v.v rất nổi tiếng. Thơ ca của ông có lẽ được sáng tác chủ yếu vào thời gian sau chiến tranh. Tập thơ chữ Hán Ức Trai thi tập gồm 105 bài nằm trong dòng chảy thơ Đường truyền thống và trong hệ quy chiếu chung của mỹ học thời đại phong kiến Nho giáo. Riêng ông còn có tập thơ Quốc âm thi tập bằng chữ Nôm gồm 254 bài nữa. Quốc âm thi tập còn có { nghĩa là sự phá cách, cách tân, khắc phục khuynh hướng quy phạm, mở rộng cảm quan sáng tạo thi ca, đặc biệt trong cách diễn tả thế giới thiên nhiên và nội tâm con người bằng ngôn ngữ và âm điệu tâm hồn dân tộc. Cũng vào thời kz hậu chiến, Nguyễn Trãi đã được ban họ vua, được phong tước Quan Phục hầu và giữ chức Nhập nội Hành khiển kiêm Lại bộ Thượng thư. Ông tiếp tục soạn thảo nhiều chế, chiếu ban bố trong nước và các thư, biểu bang giao với nhà Minh. Ngoài ra, ông còn biên soạn bộ sách 12 Dư địa chí và Luật thư, nêu một số { kiến tranh luận về luật hình, âm nhạc và quan niệm về nền văn hiến dân tộc. Theo nhiều nguồn tư liệu khác nhau, người ta còn nói rằng Nguyễn Trãi còn là tác giả của Lam Sơn thực lục, Ngọc đường di cảo, Gia huấn ca v.v. Đáng tiếc rằng vụ án Lệ Chi Viên oan khiên với hình thức tru di tam tộc mà Nguyễn Trãi phải gánh chịu đã làm mất đi những tác phẩm này. Vụ án chính là hệ quả tất yếu của những cuộc tranh giành ngôi thứ, bè phái nảy sinh vào thời hậu chiến trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể lúc bấy giờ. Đó cũng chính là hậu quả, là nghịch l{ khôn lường của tấm lòng ngay thẳng, của tinh thần dấn thân cho đất nước, dám nói thẳng nói thật, thể hiện một nhân cách lịch sử sáng soi kim cổ ngàn đời của ông. 1. 2. Một vài nét chính của tư tưởng nhà Nho Để hiểu về thơ Đỗ Phủ và Nguyễn Trãi, xin nhắc lại một vài nét chính về tư tưởng nhà Nho. Trong tư tưởng nhà Nho, được người ta coi trọng là làm người quân tử, làm người chính danh nên người ta kiên trì nhân chính tu thân. Quân tử muốn tu thân thì phải hiếu học. Ham học hỏi nghiên cứu thì sẽ khôn ngoan hiểu biết. Hễ học thì phải thực hành. Cái việc học tập của 13 người quân tử cũng giống như công việc của người thợ làm ngọc, luôn luôn mài dũa trau chuốt mới có ngọc quí. Làm người quân tử là phải đem ra giúp dân giúp nước, kinh bang tế thế. Cho nên khi người quân tử cầm quyền thì tôn chỉ phải là sửa đổi con người và sửa đổi xã hội. Sửa đổi con người để xã hội hoàn thiện hơn, đồng thời sửa đổi xã hội để con nguời được hạnh phúc hơn. Đó là hai công việc song hành và phải được tôn trọng như nhau, không được xem nhẹ bên nào. Cho nên bậc cai trị phải luôn tu thân mới đủ tư cách dẫn đạo dân chúng. Nhờ tu thân mà tâm hồn trong sạch, tác phong hợp lễ giáo, đạo đức tràn đầy. Nhà cai trị lẫn nhân dân đều phải xem việc tu thân làm gốc. Bậc cai trị phải có lòng nhân, tức là phải yêu thương dân, vui cái vui của dân và lo cái lo của dân. Thực ra là phải lo trước cái lo của dân và vui sau cái vui của dân. Bậc cai trị phải lấy dân làm gốc và phải tâm niệm rằng: qu{ nhất là dân, sau đó là quốc gia, và thấp nhất là nguời cai trị (民為貴社稷次之君為輕Dân vi qu{, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Cho nên người cai trị trước hết phải mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Muốn vậy, phải biết trọng hiền tài, vời họ ra giúp dân giúp nước. Nếu không tin vào bậc hiền tài thì nước trống không, nếu không có lễ nghĩa thì nước sẽ loạn. Nhờ chính sách chiêu hiền đãi sĩ, kẻ sĩ trong nước không bỏ nước mà đi, kẻ 14 hiền tài ở xa xôi hâm mộ mà quy phục. Như vậy quốc gia mới mau phú cường, nhân dân mới chóng hạnh phúc. Một chính quyền tốt phải áp dụng nhân trị (仁治, dùng nhân đức để thu phục người dân), nếu dùng bạo lực cường quyền thì dân bất đắc dĩ phải tuân theo nhưng lòng dân chẳng phục. Như vậy, Nho giáo quan niệm rất rõ ràng về con người xã hội. Mỗi cá nhân chính là phần tử bất khả phân của xã hội. Cho nên mỗi cá nhân phải có trách nhiệm với xã hội. Rõ ràng cuộc sống con người đâu phải là rỗng tuếch vô vị. Một mặt, con người phải tự sửa đổi mình (tu thân). Chính sự tự sửa đổi đó đưa con người đến một giá trị tôn quí siêu việt hơn giống cầm thú. Và chính sự sửa đổi đó là nguồn gốc của văn minh của tiến bộ. Nhưng mặt khác, con người phải sửa đổi xã hội, bằng cách sửa đổi lẫn nhau, sao cho những con người chỉ biết sống bằng bản năng (tiểu nhân) tiến hóa lên con người văn minh (quân tử). Nếu được vậy thì thiên hạ mới thái bình. Cả Đỗ Phủ và Nguyễn Trãi đều là nhà Nho. Cho nên hai ông đều lấy đạo quân tử làm gốc. Nhưng đạo quân tử của ông Đỗ Phủ là đạo quân tử Trung Hoa đời Đường, một triều đại vừa có thịnh vừa có suy. Còn đạo quân tử của Nguyễn Trãi là đạo quân tử của người Đại Việt, đạo quân tử của một người muốn xây dựng vương triều vững mạnh sau một cuộc chiến tranh. 15 1.3. Sự xuất hiện của chữ “Phong”, “Hoa”, “Tuyết”, “Nguyệt” trong thơ của Đỗ Phủ và Nguyễn Trãi. Phong, hoa, tuyết, nguyệt là bốn chữ hay bốn từ chỉ bốn hình ảnh thường gặp nhất trong tự nhiên. Chính vì thế chúng được các nhà thơ dù là nhà thơ cổ hay nhà thơ hiện nay ưa thích sử dụng trong sáng tác. Trong quá trình sáng tác, những nhà thơ nhất là nhà thơ quân tử thường gắn hình ảnh này với tình cảm riêng của mình. Hơn thế nữa, khi phong, hoa, tuyết, nguyệt gắn liền với từ khác thành một từ thì { nghĩa của nó lại khác. Xuất xứ ban đầu của phong, hoa, tuyết, nguyệt là như sau. Trong cuốn sách "Doãn xuyên kích nương tập" của Thiệu Ung nhà Tống có câu đại thể: dù sống chết vinh nhục, chuyển chiến dư tiền, từng chưa đi vào lòng, mà chẳng khác gì nháy qua một mắt về phong hoa tuyết. Giải thích: Trước đây chuyên chỉ cảnh vật tự nhiên. Sau đó hình dung bài thơ thiếu nội dung, đơn giản lập lại các từ. Cũng chỉ chuyện tình yêu hoặc cuộc sống hoang dâm với sắc rượu hàng ngày. Như vậy, { nghĩa của phong, hoa, tuyết, nguyệt thực chất rất đa dạng. Chính vì thế, trong luận văn này, chúng ta chọn chúng để thử phân tích và nghiên cứu những đặc trưng hay đặc điểm nổi bật trong tác phẩm thơ của Đỗ Phủ và Nguyễn Trãi - hai nhà thơ vĩ đại lại mang đậm tư tưởng nhà Nho 16 của Trung Quốc và Việt Nam. Thông qua tác phẩm của hai ông, chúng ta có thể thấy sự đa dạng của những từ này như thế nào. Trong cuộc đời của ông Đỗ Phủ, ông đã sáng tác được hơn 1000 bài thơ. Nội dung và hình thức thơ của ông phong phú và đa dạng, rất được người dân đời sau ca ngợi và bắt chước. Ở đây, chúng tôi chỉ chọn cuốn “Thơ Đỗ Phủ toàn tập” do ông Phương Chu Tử biên soạn gồm 463 bài thơ thường gặp của Đỗ Phủ để nghiên cứu miêu tả. Cuốn sách này tính theo niên đại để biên soạn, gồm 20 tập. Theo thông kê, trong 436 bài thơ ở đây, chữ Phong có xuất hiện 210 lượt, chữ Hoa xuất hiện 115 lượt, chữ Tuyết xuất hiện 59 lượt, còn chữ Nguyệt xuất hiện 101 lượt. Về thơ Nguyễn Trãi, “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ, được chia nhiều loại, nhiều thể tài khác nhau: Ngôn chí (21 bài), Thuật hứng (25 bài), Tự thán (41 bài), Báo kính cảnh giới (61 bài) .v.v… . Các bài thơ trong “Bảo kính cảnh giới” hàm chứa nội dung giáo huấn trực tiếp, nhưng rất đậm chất trữ tình, cho ta nhiều thú vị. Phần lớn các bài thơ trong “Quốc âm thi tập” không có nhan đề. Ở đây chúng tôi chỉ nghiên cứu 105 bài thơ chữ Hán trong cuốn sách “Nguyễn Trãi toàn tập tân biên” gồm hai phần Ức trai thi tập và phần Tồn nghi. Trong 105 bài này, chữ Phong xuất hiện 35 lượt, chữ Hoa xuất hiện 25 lượt, chữ Tuyết xuất hiện 10 lượt, và chữ Nguyệt xuất hiện 35 lượt. 17 Về từ Phong. Trong các bài thơ Đỗ Phủ phong nghĩa là gió của tự nhiên đồng thời cũng được hình dung chỉ phong tục, phong nhã, có khi được nâng lên thành một phẩm chất. Khi là gió, nó có hướng đi, có lúc ào ạt, lúc hiu hiu, lại có lúc mang tình cảm thấm sâu. Khi là phong tục, phẩm chất, nó mang tính cao cả, cũng như tính đau thương về xã hội lúc bấy giờ. Trong thơ Nguyễn Trãi, phong cũng là con gió với hình thức đa dạng, là phong tục cao thấp của xã hội, là phong tình lãng mạn của tài tử, thậm chí nó cũng ẩn chứa những biến động, thay đổi của xã hội. Về từ Hoa. Trong thơ Đỗ Phủ, hoa là hoa tươi, là vẻ đẹp của những cô nàng, là tình yêu thương của tác giả. Hoa mang trong mình muôn màu muôn sắc tràn đầy tình cảm phong phú. Còn trong thơ Nguyễn Trãi, hoa là hoa Cúc, hoa Lan, hoa Mai... Muôn dạng hoa muôn dáng người nhưng đều thường chỉ phẩm chất “ quân tử” mà ông ca ngợi. Về từ Tuyết. Mùa đông lạnh rét, tuyết phủ tràn đỉnh núi, phủ tràn vạn vật.... Tuyết cũng là cảm hứng giúp Đỗ Phủ tăng thêm nguồn cảm hứng để sáng tác tác phẩm của mình. Có khi tuyết là một bức tranh hoành tráng, có khi lại là một vẻ đẹp yên lặng. Trong thơ Nguyễn Trãi, tuy Đại Việt không có tuyết, nhưng thơ ông vẫn có tuyết và tuyết thường gắn liền với Mai, là một loại phẩm chất qua diễn tả của hoa Mai được thể hiện vô cùng rõ rệt. 18 Về từ Nguyệt. Trong một tháng, mặt trăng khi tròn khi lại khuyết. Đây đã là một quy luật tự nhiên ai chẳng biết. Thế nhưng dưới bút của Đỗ Phủ và Nguyễn Trãi, nguyệt (trăng) thể hiện biết bao tình cảm: tình yêu đất nước, yêu gia đình, có tưởng nhớ những ngày xưa, nhớ về người thân... Từ đó, mặt trăng hình như đã không chỉ còn là một hình ảnh tự nhiên nữa, nó đã mang được quá nhiều bi, hoan, ly, hợp. Nó thể hiện được nỗi lòng của người quân tử. Trong những bài thơ của Đỗ Phủ phong, hoa, tuyết, nguyệt được hình dung miêu tả như thế nào và trong thơ của Nguyễn Trãi, một nhà thơ vĩ đại của Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Nho giáo và của các thành tựu rực rỡ của nhà thơ Đường Trung Quốc đã kế thừa và sáng tác mới như thế nào, dưới đây, chúng tôi sẽ phân tích cụ thể. 19 Chương 2 KHẢ NĂNG KẾT HỢP CỦA CÁC TỪ PHONG, HOA, TUYẾT, NGUYỆT TRONG THƠ ĐỖ PHỦ VÀ NGUYỄN TRÃI Hình ảnh là một yếu tố trọng yếu trong sáng tác nghệ thuật của thơ ca cổ điển. Sở dĩ gọi là “ hình ảnh”, là vì đó là hình tượng thường được xuất hiện trong thơ ca. Những hình tượng này vốn đều thuộc về thiên nhiên (gió, hoa, tuyết, trăng) những giờ lại được nhập vào yếu tố nhân văn và văn hóa sâu sắc. Những hình ảnh vốn thuộc về thiên nhiên ấy được diễn tả trong thơ Đỗ Phủ và Nguyễn Trãi dưới dạng các từ “Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt”. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan