ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN MẠNH QUÂN
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰỞ VIỆT
NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI -2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN MẠNH QUÂN
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰỞ VIỆT
NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01
luận văn thạc sĩ luật học
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế
HÀ NỘI-2013
MỤC LỤCTrang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa thi hành án dân sự 8
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án dân sự 8
1.1.2. Vaitrò, ý nghĩa của thi hành án dân sự 21
1.2. Nội dung cơbản của pháp luật thi hành án dân sự 25
1.2.1. Đối tượng điều chỉnh của luật thi hành án dân sự Việt Nam 25
1.2.2. Phương pháp điều chỉnh 28
1.2.3. Phạm vi điều chỉnh 29
1.3. Các tiêuchí đánh giá sự hoàn thiện của pháp luật thi hành án dân
sự 30
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của thi hành án dân sự Việt
Nam37
1.4.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1989 37
1.4.2. Giai đoạn từ 01/01/1990 đến 30/6/1993 41
1.4.3. Giai đoạn từ 1993 đến đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án
dân sự năm 2004 42
1.4.4. Giai đoạn từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
2004 đến trước khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008 43
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
HIỆN HÀNH VÀ TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT NÓI CHUNG51
2.1. Thực trạng pháp luật thi hành án dân sự51
2.1.1. Về hệ thống tổ chức thi hành án dân sự 51
2.1.2. Ngạch, thi tuyển, nhiệm kỳ bổ nhiệm Chấp hành viên (Điều 17,
Điều 18) 52
2.1.3. Về thời hiệu yêu cầu thi hành án (Điều 30) 52
2.1.4. Về điều kiện xem xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với
khoản thu nộp Ngân sách nhà nước(Điều 61) 53
2.1.5. Về các biện pháp bảo đảm thi hành án (từ Điều 66 đến Điều 69)
53
2.1.6. Về biện pháp và thủ tục cưỡng chế thi hành án (Chương IV) 54
2.1.7. Về định giá, định giá lại, bán đấu giá tài sản kê biên (Điều 98,
99 và Điều 101) 542.1.8. Về thi hành nghĩa vụ buộc nhận người lao
động trở lại làm việc (Điều 121) 55
2.1.9. Về thi hành án đối với một số trường hợp cụ thể (từ Điều
122đến Điều 149) 55
2.1.10. Về nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong thi hành án
dân sự(Chương VIII) 55
2.2. Pháp luật thi hành án dân sự hiện hành trong mối quan hệ với hệ
thống pháp luật nói chung 58
2.2.1. Mô hình quản lý nhà nước về công tác thi hành án chưa hoàn
chỉnh60
2.2.2. Các văn bản pháp luật về thi hành án và các văn bản pháp luật
thuộc các lĩnh vực khác trong hệ thống pháp luật còn mâu thuẫn, thiếu
đồng bộ, thống nhất 62
2.2.3. Hệ thống pháp luật còn có những "khoảng trống" làm ảnh
hưởng đến hiệu quả công tác thi hành án 69
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
VIỆT NAM
3.1. Giải pháp hoàn thiện 74
3.1.1. Tăng cườngviệc nghiên cứu, triển khai chủ trương của Đảng về
xây dựng văn bản pháp luật chung điều chỉnh hoạt động Thi hành án
và chủ trương thống nhất đầu mối quản lý công tác thi hành án 74
3.1.2. Hoàn thiện việc thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn
thihành 75
3.2. Những đề xuất, kiến nghị 81
KẾT LUẬN 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọnđề tàiThi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong
hoạt động tư pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng.
Bản án, quyếtđịnh của Tòaán chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành
trên thực tế. Hoạt động thi hành án có ý nghĩa vô cùng quan trọng và
là công đoạn cuối cùng bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòaán
được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp
luật,củng cốpháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa; bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần
giữ vững ổn định chính trị -xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của
bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ:
"Cácbản án và quyết định của Tòaán nhân dân có hiệu lực pháp luật
phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và
đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành"[36].Nhận thức tầm
quan trọng của công tác thi hành án, từ khi thực hiện đường lối đổi
mới đến nay, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về thi
hành án dân sự, như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóaVII (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóaVIII (1997), Nghị quyết số
08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết Hội nghị
lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóaIX (2004) và nhất
là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Namđến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49/NQTW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020. Thể chế hóađường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng
nhà nước trước đây, nay là Ủyban Thường vụ Quốc hội đã ban hành
Pháp lệnh Thi hành án dân sựnăm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân
sựnăm 1993 và gần đây là Pháp lệnh Thi hành án dân sựnăm 2004.
Kết quả sau hơn ba năm thực hiện Pháp lệnh Thi hành án dân sựnăm
2004 cho thấy, nhiều quy định về thủ tục thi hành án đã thể hiện được
quan điểm cải cách tư pháp, cải cách hành chính, phù hợp với sự
chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, tháo gỡ
kịp thời một số tồn tại, vướng mắc trong công tác thi hành án dân sự,
góp phần từng bước nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án. Tuy
nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới thì Pháp lệnh năm 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập,
nhất là quy định về trình tự, thủ tục; trách nhiệm, cơ chế phối hợp của
các cơ quan, tổ chức có liên quan trong thi hành án; cơ chế quản lý,
mô hình tổ chức cơ quan thi hành án chưa ngang tầm với chức năng,
nhiệm vụ, tính chất công việc được giao; quyền hạn của cơ quan thi
hành án, của Chấp hành viên chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ;
chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa thi hành án dân sự với thi hành
án phạt tù, đặc biệt là các vụ án hình sự có bồi thường thiệt hại; chưa
tạo ra cơ sở pháp lý để thực hiện xã hội hóahoạt động thi hành án dân
sự, v.v... Các hạn chế, bất cập này là một trong những nguyên nhân
chính dẫn đến tình trạng án dân sự tồn đọng, tuy có giảm dần, nhưng
hiện nay vẫn còn lớn (năm 2005 có 327.658 vụ việc tồn đọng chiếm
58.38%; năm 2006 có 331.092 vụ việc tồn đọng chiếm 54.99%;
năm 2007 có 311.443 vụ việc tồn đọng chiếm 48.04%; năm 2008 có
313.428 vụ việc tồn đọng), làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước, tính nghiêm minh của pháp luật; quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức và Nhà nước theo bản án, quyết định của Tòaán chưa
được bảo đảm, nhiều việc gây bức xúc trong xã hội. Từ những vấn
đềtrên cho thấyPháp lệnh Thi hành án dân sựnăm 2004 bộc lộ
nhiềubất cập, hạn chế,vì vậy cần phải tiếp tụchoàn thiện các quy định
về thi hành án dân sự. Ngày 14/11/2008, Quốc hội khóaXII tại kỳ họp
thứ tư đã thông qua Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 và
Nghị quyết về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự số
24/2008/QH12. Đây là hai văn bản pháp lý có ý nghĩa quan trọng, góp
phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Để thi hành Luật
Thi hành án dân sự, Chính phủ, các Bộ,ngànhđã ban hành hơn 20 văn
bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, một
số văn bản quan trọngnhư: Nghị định 58/2009/NĐ-CP hướng dẫn thi
hành Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự; Nghịđịnh
số 61/2009/NĐ-CP ngày 27tháng 4năm 2009 quy định về tổ chức và
hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm ở Thành phố Hồ Chí
Minh; Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án
dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân
sựvà công chức làm công tác thi hành án dân sự...Luật Thi hành án
dân sựcó hiệu lực kể từ ngày 01/7/2009,đến nayqua hơn hai năm thực
hiện đã có sự chuyển biến tích cực, công tác thi hành án dân sựđãđạt
được một số kết quả đáng kể, cụ thể: Kết quả thi hành án dân sự từ
ngày 01/10/2010 đến ngày 30/9/2011 của cả nước như sau:-Tổng số
việcphải thi hành là 632.545 việc, tăng 17.134 việc(2,78%) so với
năm 2010. Qua phân loại thì có: 431.979 việc có điều kiện thi
hành(chiếm 68,29%); chưa có điều kiện thi hành là 200.566 việc
(chiếm 31,71%). Đã thi hành xong 379.990 việc đạt tỷ lệ 88% (vượt
chỉ tiêu 7%), tăng 28.617 việc (1,65%) so với năm 2010 [9, tr. 3].Tổng số tiềnphải thi hành là 35.416 tỷ 341 triệu 736 nghìn đồng, tăng
4.718 tỷ 241 triệu 624 nghìn đồng (16,14%) so với năm 2010. Kết quả
phân loại số có điều kiện thi hànhlà 13.366 tỷ 290 triệu 661 nghìn
đồng (chiếm 37,74%), số chưa có điều kiện thi hànhlà 22.050 tỷ 51
triệu 75 nghìn đồng (chiếm 62,26%). Đã thi hànhđược 10.167 tỷ 712
triệu 899 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 76,1% so số tiền có điều kiện thi hành
(vượt chỉ tiêu 15,1%), tăng 1.866 tỷ 392 triệu 338 nghìn đồng so với
năm 2010[9, tr. 3].
Bên cạnh những chuyển biếntích cực, Luật Thi hành án dân sự và các
văn bản hướng dẫn thi hành cũngbộc lộ nhiều khiếm khuyết ở chỗ các
quy định"chưa cụ thể, chưa phù hợp với thực tế, thiếu thống nhất với
pháp luật có liên quan"[8, tr. 13]. Đó cũng chính là những khó khăn
vướng mắc trong thực tiễn thi hành án làm ảnh hưởng nhiều đến kết
quả thi hành án, là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến lượng
án tồn đọng. Công tác thi hành án dân sựhiện nay vẫn đang đứng
trước những khó khăn, thử thách to lớn với nhiều vấn đề tồn tại,bất
cập đang đặt ra cần được giải quyết. Hiệu quả công tác thi hành án
dân sựchưa thực sự đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, và sự quan tâm,
mong mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân; hoạt động thi hành án
chưa thật sự đảm bảo được tính công bằng và nghiêm minh của pháp
luật.Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các
quy định pháp luật thi hành án dân sự làhết sức cần thiết nhằm khắc
phục những hạn chế trong công tác ban hành văn bản pháp luật về thi
hành án dân sựnhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thi hành án,
đảm bảo quyền và nghĩa vụ hợp pháp của công dân.Với những lý do
nêu trên, tôi đã chọn đề tài "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở
Việt Namhiện nay"làm luận văn thạc sĩ luật học, đây là một vấn đề
cấp thiết và có ý nghĩathực tiễnsâu sắcđối vớilĩnh vực thi hành án dân
sự nhằmxây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật thi hành
án dân sự góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân và Nhà nước, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tàiNhững năm gần đây,
trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân sự, đã
có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân
sự, cụ thể là: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Những cơ sở lý
luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do
Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý -Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp
Thành phố HồChí Minh chủ trì thực hiện; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ:
"Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số 96-98027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự -Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Đề
tài cấp Nhà nước đang thực hiện: "Luận cứ khoa học của việc đổi mới
tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Namtrong giai đoạn mới"do
Bộ Tư pháp chủ trì; Đề tài: "Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng
hoàn thiện của Dự án VIE/98/001"do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự
án. Một số luận án và công trình nghiên cứu khác như: Luận văn thạc
sĩ luật học: "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp
dụng và hướnghoàn thiện"của tác giả Nguyễn Công Long; Luận văn
thạc sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự"của Nguyễn
Thanh Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học của Lê Xuân Hồng về "Xã hội
hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học của
Nguyễn Quang Thái về "Đổi mớitổ chức và hoạt động thi hành án dân
sự ở Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ luật học của Lê Anh Tuấn về "Đổi
mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam"... Bên cạnh đó là Giáo
trình môn Luật tố tụng dân sựcủa Trường Đại học Luật Hà Nội và các
trường đại học có chuyên ngành luật; một số bài viết đăng trên các tạp
chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật...Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi
hành án dân sựở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Ở
một số công trình cũng đã đềcập đến vấn đề thực trạng và giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định về thi hành án dân sự, nhưng kể từ khi
Luật Thi hành án dân sựnăm2008 được ban hành cho tới nay thì chưa
có công trình nghiên cứu vấn đề "Hoàn thiện pháp luật thi hành án
dân sự ở Việt Namhiện nay"một cách toàn diện, chuyên sâu.
3. Mục đíchvà nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đíchTrên cơ sở các vấn đề lý luận về thi hành án dân sự, tác
giả đặt ra mục đíchcủa đề tài là chỉ ra những bất cập, hạn chế của
pháp luật thi hành án dân sự trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật
nói chung để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành
án dân sự góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sựở
nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụĐể đạt được mục đíchlớn đó cần phải thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể sau:-Làm rõ những cơ sở lý luận về thi hành án dân
sự.-Đánh giá đúng đắn về thực trạng pháp luật thi hành án dân sự.Đưa ra những giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện pháp luật thi hành
án dân sự.
4. Phạm vi nghiên cứu"Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt
Namhiện nay"là một đề tài có tính khái quát cao, nội dung phong phú
và phức tạp. Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ luật học, tác giả
tập trung nghiên cứu cơ sở lý luậnvề thi hành án dân sự; thực
trạngpháp luật thi hành án dân sự Việt Namhiện nay;những bất cập
của pháp luật thi hành án dân sự trong mối quan hệ với hệ thống pháp
luật nói chung, từ đó đưa ra những giải pháp,kiến nghị nhằmhoàn
thiện pháp luật thi hànhán dân sự nước tahiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu-Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề
tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện
chứng của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật.-Các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh, phương pháptổng hợp.
6. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn-Ý nghĩa của luận văn:+ Luận
văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái
niệm thi hành án dân sự, tìm hiểu đặc điểm, bản chất của thi hành án
dân sự, góp phần bổ sung, làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên
cứu khoa học về pháp luật thi hành án.+ Luận văn có thể dùng làm tài
liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy trong lĩnh vực thi hành
án dân sự ở bậc Đại học và Cao đẳngvà tham khảo để xây dựng, hoàn
thiện pháp luật thi hành án dân sự.-Điểm mới của luận văn:+ Đưa ra
một số tiêu chí đánh giá sựhoàn thiện củapháp luật thi hành án dân sự;
+ Chỉ ra đượcnhững điểm tồn tại bất cập, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ
củacác văn bản pháp luật thi hành án dân sự kể từ khi Luật Thi hành
án dân sựnăm2008 được ban hành trong mối quan hệ với hệ thống
pháp luật nói chung làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác
thi hành án dân sự.
7. Kết cấu của luận vănNgoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo,nội dung củaluận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật thi hành án dân sựhiện hànhvà
trongmối quan hệ với hệ thống pháp luật nói chung.
Chương 3: Những giải phápvà đề xuấtkiến nghịnhằm hoàn thiện pháp
luậtthi hành án dân sựViệt Nam
Chương 1CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨATHI HÀNH
ÁN DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm, đặc điểmthi hành ándân sự
1.1.1.1.Khái niệm thi hành án dân sựKể từ khi hoạt động thi hành án
dân sự được chuyển giao từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ
quan của Chính phủ thì khái niệm thi hành án (nhất là thi hành án dân
sự) trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trên diễn đàn khoa học pháp lý.
Có nhiều quan điểm khác nhau dựa trên những lập luận và cách tiếp
cận khác nhau về thi hành án nhưng trong đó nổi lên hai quan điểm cơ
bản, đó là quan điểm coi thi hành án là giai đoạntố tụng và quan điểm
coi thi hành án là hoạt động hành chính -tư pháp. Quan điểm thứ
nhấtcho rằng, thi hành án là một giai đoạn tố tụng: Bởi nếu tách ra thì
sẽ không thực hiện được mục tiêu chung của toàn bộ quá trình tố
tụng. Khi chân lý được làm sáng tỏ thể hiện trong bản án, quyết định
của Tòa án, thì mới dừng lại ở việc làm rõ đúng hay sai, phải hay trái
trên văn bản giấy tờ. Muốn nó được thực hiện trên thực tế, cần phải
chờ ở hiệu quả của công tác thi hành án. Vì vậy, thi hành án là giai
đoạn tiếptheo của quá trình xét xử. Ở giai đoạn này, cơ quan thi hành
án áp dụng các biện pháp được pháp luật quy định để đưa chân lý trở
thành hiện thực trong đời sống thực tế. Hoạt động thi hành án gắn liền
với quá trình xét xử, tiếp theo quá trìnhxét xử. Thi hành án là hoạt
động bảo vệ pháp luật khác về bản chất với cáchoạt động hành chính
là tổ chức và quản lý. Thi hành án là nhằm mục đích thực thi các phán
quyết của Tòa án, đảm bảo các phán quyết của Tòa án được thi hành
và thi hành có hiệu quả trên thực tế. Hoạt động thi hành án này gắn
liền với quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử [54,
tr.8].Theo quan điểm này thì thi hành án là giai đoạn nằm trong quá
trình giải quyết vụ án, theo đó giai đoạn tố tụng trước của giai đoạn
xét xử là giai đoạn chuẩn bị xét xử, còn thi hành án là giai đoạn kế
tiếp của giai đoạn xét xử, giai đoạn thực thi các phán quyết của Tòa
án trên thực tế. Căn cứ duy nhất để thi hành án là bản án, quyết định
của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật. Tính lệ thuộc của thi
hành án vào công tác xét xử được thể hiện ở việc khẳng định xét xử là
tiền để của thi hành án. Trong quá trình thi hành án, vai trò và
tráchnhiệm của Tòa án gắn chặt với hoạt động thi hành án, thể hiện ở
trách nhiệm của Tòa án trong việc "giải thích những điểm chưa rõ, có
sai sót hoặc sai lầm về số liệu"trong bản án, quyết định khi cơ quan
thi hành án yêu cầu, hoặc thẩm quyền của Tòa án trong việc hoãn thi
hành án theo thời gian luật định, hay "xem xét, kháng nghị để xét xử
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án quyết định có vi
phạm thủ tục tố tụng"khi cơ quan thi hành án kiến nghị. Hậu quả pháp
lý của việc xem xét theo trình tự này có thể làm thay đổi kết quả thi
hành án hay cách thức tiến hành thi hành án của cơ quan thi hành
án.Với quan điểm này, thi hành án được hiểu là giai đoạn kết thúc
trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử làm
cho phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật.Quan điểm thứ hai
coi thi hành án là hoạt động hành chính -tư pháp. Theo quan điểm
này, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án chấm
dứt khi Tòa án ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Tòa án đã
xác định quyền, nghĩa vụ các bên, còn việc thi hành phán quyết đó là
giai đoạn khác, không thuộc quá trình tố tụng. Thi hành án không phải
là giai đoạn tố tụng, bởi vì:
Thi hành án có mục đích khác với mục đích tố tụng, tố tụng là quá
trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở
đó đưa ra phương án giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp
luật, còn thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực
hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật [38,
tr.21].Cùng quan điểm trênPGS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: Không
thể đồngnhất hoạt động thi hành án với hoạtđộng tố tụng, bởi lẽ hoạt
động thi hành án có tính chất chính trị, pháp lý, xã hội của nó. Nghiên
cứu hoạt động thi hành án hiện nay cần đặt trong vấn đề xây dựng nhà
nướcpháp quyền. Về bản chất, hoạt động thi hành án được thể hiện ở
ba phương diện chủ yếu sau đây:-Xác định quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể tham gia quá trình thihành án;-Tính đặc thù trong tổ chức và
hoạt động của các cơ quan thi hành án;-Đặc thù trong các quan hệ về
thủ tục thi hành án (đây là một vấn đề có thể dẫn đến sự nhầm lẫnvới
quan hệ tố tụng). Quan hệ thủ tục thi hành án có thể bao gồm cả quan
hệ tố tụng và quan hệ khác mang tính hành chính -tư pháp. Nhưng cần
khẳng định rằng, các quan hệ mang tính hành chính tư pháp chủ yếu
hơn. Thi hành án là hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, ở
một số lĩnh vực, một số công việc Nhà nước có thể xây dựng hành
lang pháp lý để thực hiện xã hội hóa hoạt động này. Đây là điểm khác
so với hoạt độngtố tụng, hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư
pháp, không thể xã hội hóa[54, tr.10-11].Cùng quan điểm, TS. Đinh
Trung Tụngcũng cho rằng: Thi hành án khôngmang tính tố tụng thuần
túy mà có nhiều tính chất của giai đoạn mang tính hànhchính -tư
pháp. Ở đây có nhiều điểm khác nhau giữa tố tụng và quá trình thực
hiện thi hành án. Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc thù mà chủ
thể thực thi không phải là Tòa án. Các thủ tục trong quá trình thi hành
án mang nặng tính hành chính -tư pháp hơn (đặc biệt là trong thi hành
án kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động và một phần
củathi hành án hình sự đối với loại hình phạt không phải là hình phạt
tù...) [54, tr.12].Ngoài hai quan điểm cơ bản nêu trên, còn có quan
điểm khác về thi hành án:Quan điểm thứ ba khẳng định, thi hành án là
hoạt động tư pháp [43, tr. 8].Bởi vì, gốc của hoạt động thi hành án là
bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định theo quy định của
pháp luật. Khi thực hiện nhiệm vụ, Cơ quan thi hành án phải thi hành
theo đúng quyết định của Tòa án chứ không phải theo mệnh lệnh hành
chính. Thi hành án phần lớn thông qua vai trò hoạt động của các cá
nhân những người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản
án, quyết định như Chấp hành viên, Giám thị viên hoặc các cơ quan tổ
chức và người có thẩm quyền khác. Hoạt động hành chính trong lĩnh
vực thi hành án chẳng qua cũng chỉ để đảm bảo phục vụ cho chức
năng chính của cơ quan thi hành án là tổ chức thi hành án theo quy
định của pháp luật. Nếu cho rằng thi hành án (nhất là thi hành án dân
sự) là giai đoạn độc lập có tính hành chính-tư pháp vì hoạt động thi
hànhán được thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan của Chính phủ là
không hợp lý vì một hoạt động mang bản chất như thế nào không thể
phụ thuộc nhiều vào chủ thể thực hiện nó.Quan điểm thứ tư, coi thi
hành án là thủ tục tố tụng tư pháp.Quan điểm này cho rằngkhông
nên hiểu "tố tụng"chỉ là "thưa kiện tại Tòa án nói chung", là hoạt
động của cơ quan Tòa án xét xử để đi tìm "chân lý", mà cần xem xét
đến bản chất của tố tụng. Đó là việc thực hiện các quy định của pháp
luật hình thức theo thủ tục nhất định để giải quyết các quan hệ xã hội
theo đúng sự điều chỉnh của pháp luật nội dung nhằm đảm bảo lợi ích
của Nhànước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tố tụng được
thực hiện bởi nhiều cơ quan, hoạt động nào tuân theo thủ tục do pháp
luật hình thức quy địnhlà hoạt động tố tụng. Do đó có nhiều loại tố
tụng: tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, tố tụng thi
hành án. Ngoài ra, khi xem xét về tính chất của việc thi hành án, thì
tất cả các bản án, quyết định của Tòa án và của Trọng tài đều có tính
chất tư pháp hiểu theo nghĩa rộng, tức không chỉ là việc xét xử mà
bao gồm cả lĩnh vực bổ trợ tư pháp. Vì tất cả những lý do nêu trên thi
hành án được hiểu theo nghĩa rộng là thủ tục tố tụng tư pháp. Để có
thể xem xét thi hành án dân sự có phải là hoạt động tố tụng hay
không, mang bản chất hành chính hay tư pháp, theo chúng tôi cần
phải xem xét một số vấn đề sau:Thứ nhất, mục đích của thi hành án
dân sựTrong quá trình tố tụng, cũng như sau khi đã kết thúc quá trình
tố tụng, Tòa án đưa ra một bản án hoặc quyết định giải quyết một
cách tổng thể về nội dung vụ án (trường hợp vụ án được đưa ra xét
xử). Bằng bản án, quyết định của mình Tòa án nhân danh Nhà nước
xác định rõ sự thật khách quan của vụ án; xác định rõ quyền, nghĩa vụ
của các bên tham gia vào quá trình tố tụng. Tuy nhiên, lúc này quyền
và nghĩa vụ của các bên mới chỉ xác định được về mặt lý thuyết, trên
cơ sở áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan để giải quyết
vụ việc và còn nằm trên giấy. Tương tự như vậy, khi giải quyết các
tranh chấp, Trọng tài thương mạicũng mới chỉ vận dụng các quy định
của pháp luật để giải quyết vụ việc và kết quả của quá trình giải quyết
tranh chấp đó cũng vẫn chỉ nằm trên giấy. Để các quyền, nghĩa vụ này
được thực thi trên thực tế, cần thiết phải có một hoạt động tiếp theo để
tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã được xác định trong bản
án, quyết định đó.Do đó, cóthể thấy, mục đích của thi hành án dân sự
là tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và Trọng tài
thương mại, biến các quyền, nghĩa vụ về mặt lý thuyết thành các
quyền, nghĩa vụ thực tế. Thông qua thi hành án dân sự, trật tự pháp
luật, tình trạng ban đầu của cácquan hệ do bị hành vi vi phạm xâm hại
được khôi phục. Như vậy, nếu coi mục đích
của tố tụng là khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị xâm hại, đưa nó trở
về trạng thái ban đầu như trước khi bị vi phạm, thì thi hành án dân sự
là một giai đoạn của tố tụng. Có thể nói, mục đích của quá trình tố
tụng bao trùm lên mục đích của thi hành án dân sự. Mục đích của thi
hành án dân sự là nhằm củng cố thêm mục đích của tố tụng.Thứ hai,
tính chất công việc mà cơ quan thi hành án phải thực hiệnTheo quy
định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, thì cơ quan thi hành án
dân sựcó trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lựcpháp luật (bản án, quyết định hoặc phần bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm; bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; bản án, quyết
định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước
ngoài đã được Tòa án Việt Namcông nhận và cho thi hành tại Việt
Nam; quyết định của Trọng tài thương mạiViệt Namcó hiệu lực thi
hành) và những bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp
luật nhưng được thi hành ngay (bản án, quyết định sơ thẩm về cấp
dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm
xã hội hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe; nhận người
lao động trở lại làm việc; quyết định khẩn cấp tạm thời đểbảo đảm lợi
ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án...)
đều là kết quả của quá trình giải quyết tranh chấp, nhưng tính chất lại
khác nhau. Bản án, quyết định của Tòa án là kết quả của quá trình tố
tụng, nên nó mang bản chất tư pháp. Còn quyết định của Trọng tài
thương mại, là kết của quá trình giải quyết tranh chấp thông thường,
nên nó không mang bản chất tư pháp.Thứ ba, tính chất các hoạt động
cơ bản do cơ quan thi hành án tiến hành để tổ chức thi hành một bản
án, quyết định vềdân sựNếu coi xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá
trình tố tụng và bản án, quyết định là điểm nút kết thúc giai đoạn đó
và đồng thời kết thúc quá trình tố tụng, thì thi hành án dân sự là một
giai đoạn sau của giai đoạn xét xử, mang tính chấp hành. Lúc này sự
thật khách quan về vụ án đã được sáng tỏ, các quyền và nghĩa vụ của
các bên đã được xác định rõ, cơ quan thi hành án dân sựsẽ căn cứ vào
đó để tổ chức thi hành theo đúng các trình tự đã được quyđịnh trong
Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cơ quan
thi hành án dân sựphải tổ chức thi hành đúng nội dung phần quyết
định của bản án (trường hợp chủ động thi hành án); thi hành đúng nội
dung bản án và đơn yêu cầu thi hành án (trường hợp thi hành án theo
đơn yêu cầu). Cơ quan thi hành án không được tổ chức thi hành án
trái với nội dung quyết định của bản án. Đồng thời, trong quá trình tổ
chức thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự, sử dụng quyền lực nhà
nước trực tiếp tác động đến các bên có liên quan đến việc thi hành án.
Mặc dù, trong quá trình thi hành án, quyền định đoạt của các bên
đương sự vẫn được tôn trọng, người được thi hành án, người phải thi
hành án có quyền thỏa thuận với nhau về cách thức thi hành án. Tuy
nhiên, nếu như các bên không thỏa thuận được về phương thức thi
hành án, hoặc đã thỏa thuận nhưng bên phải thi hành án không tự
nguyện thực hiện đúng, thì cơ quan thi hành án dân sựsử dụng quyền
lực nhà nước thông qua việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần
thiết để tổ chức thi hành dứt điểm bản án,quyết định của Tòa án,
quyết định của Trọng tài thương mại. Đây là một trong những dấu
hiệu rất đặc trưng thể hiện bản chất hành chính của thi hành án dân
sự. Tất cả các trường hợp, nếu như đương sự có điều kiện thi hành án,
nhưng không tự nguyện thi hành, đều dẫn tới việc ápdụng biện pháp
cưỡng chế để thi hành dứt điểm bản án, quyết định của Tòa án và
quyết định của Trọng tài thương mại. Mặt khác, mặc dù trong quá
trình tổ chức thi hành bản án, quyết định, chấp hành viên -người được
Nhà nước giao nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thi hành án, chịu trách
nhiệm trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của mình. Tuy nhiên, với
tư cách là người thừa hành nhiệm vụ, chấp hành viên vẫn phải tuân
theo sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của cơ quan quản lý thi hành án dân
sự, cơ quan thi hành án dân sựvà của thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự. Trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu như chấp hành viên
có vi phạm về mặt thủ tục thi hành án dẫn tới việc khiếu nại của
đương sự, thì việc giải quyết khiếu nại được thực hiện thông qua thủ
tục hành chính. Người có thẩm quyền sẽ giải quyết khiếu nại bằng
một quyết định giải quyết khiếu nại. Trong quyết định giải quyết
khiếu nại sẽ chấp nhận, không chấp nhận, chấp nhận một phần hay
chấp nhận toàn bộ khiếu nại của đương sự. Trường hợp chấp nhận
khiếu nại củađương sự, người có thẩm quyền sẽ hủy bỏ các quyết
định có vi phạm của chấp hành viên và yêu cầu chấp hành viên tổ
chức thi hành lại theo đúng trình tự thủ tục đã được quy định trong
pháp luật thi hành án dân sựmà không trực tiếp rút lên để giải quyết
theo một trình tự, thủ tục khác như trong tố tụng. Như vậy, có thể thấy
rằng, thi hành án dân sự là hoạt động mang đậm tính chấp hành và
điều hành.Thứ tư, mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sựvới
các cơ quan khác trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định
về dân sựKhác với các hoạt động tố tụng khác như hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử, mối quan hệ giữa cơ quan điều tra, truy tố, xét xử
được quy định chặt chẽ trong luật tố tụng, quan hệ trên cơ sở luật tố
tụng, thì trong hoạt động thi hànhán dân sự, mối quan hệ giữa cơ quan
thi hành án dân sựvới các cơ quan chức năng khác chủ yếu dựa trên
cơ sở của Pháp lệnh Thi hành án dân sựvà các luật, pháp lệnh, nghị
định quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức có
liên quan. Do đó, các quan hệ của cơ quan thi hành án với các cơ quan
khác chủ yếu là các quan hệ mang bản chất hành chính, có tính chấp
hành và điều hành. Thậm chí ngay cả các quan hệ với cơ quan tố tụng
như Tòa án, Công an, thì các quan hệ này cũng hầu như khôngđược
quy định cụ thể trong luật tố tụng.Mỗi quan điểm trên đều có những
lập luận và cơ sở khoa học riêng. Tuy nhiên từ những phân tích trên,
theo tôi quan điểm thứ hai coi thi hành án là hoạt động hành chính-tư
pháp là có nhiều điểm hợp lý hơn cả. Bởi vì, thi hànhán không chỉ
đơn thuần là hoạt động mang tính tư pháp, hay là giai đoạn cuối cùng
của hoạt động tố tụng, cũng không nên hiểu tố tụng theo một nghĩa
không truyền thống như quan điểm thứ tư để coi thi hành án là hoạt
động tố tụng tư pháp. Mà bản chất thi hành án thể hiện cả hai đặc
điểm rất rõ đó là tính hành chính và tính tư pháp trong hoạt động của
mình. Ngoài ra, khác với các hoạt động tố tụng khác đòi hỏi thủ tục
rất chặt chẽ và chỉ do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện, thì việc
thi hành bản án, trong một số trường hợp có thể để người dân tự chịu
trách nhiệm, tức là có thể tiến hành xã hội hóa một số hoạt động thi
hành án.Vì thế nên coi thi hành án là hoạt động hành chính -tư pháp.
Có thể đưa ra khái niệm về thi hành án dân sựnhư sau: Thi hành án
dân sự là hoạt động hành chính -tư pháp của Nhà nước, do cơ quan thi
hành án tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm bảo
thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc quyết định
khác của cơ quan có thẩm quyền.Trong khái niệm này, vấn đề cần tiếp
tục làm rõ là phải hiểu như thế nào về "dân sự"trong thi hành án?Theo
ý kiến thứ nhất thì "dân sự"được hiểu theo nghĩa hẹp. Cơ sở để đưa ra
ý kiến này xuất phát từ quy định của Điều 1 Bộ luật Dân sựnăm 1995
cho rằng, quan hệ dânsự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân thân phi
tài sản phát sinh trong giao lưu dân sự. Vì vậy, những bản án, quyết
định dân sự trongthi hành án bao gồm bản án, quyết định liên quan
đến quan hệ tài sản và nhân thân phi tài sản (như bản án, quyết định
về tranh chấp các loại hợp đồng dân sự, về hôn nhân gia đình và một
số loại bản án, quyết định có tính chất dân sự). Ý kiến thứ hai hiểu
"dân sự"theo nghĩa rộng. Theo pháp luật của nhiềunước trên thế giới,
việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc phápluật về nội dung là
luật tư (luật dân sự, luật kinh doanh, thương mại, lao động) được thực
hiện theo một thủ tục chung qui định trọng Bộ luật Tố tụng dân
sự[31].
Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai. Tuy nhiên, theo pháp luật
Việt Namthì "dân sự"trong thi hành án cần được hiểu một cách cụ thể.
Đó là: Những bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài
sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án
phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài
sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án
của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài
thương mại(Điều 1 Luật Thi hành án dân sự năm 2008).
1.1.1.2. Đặc điểmcủa thi hành án dân sựTừ góc độ tiếp cận về khái
niệm của thi hành án dân sựnhư đã phân tích ở trên, theo chúng tôi,
thi hành án dân sựcó những đặc điểm cơ bản sau đây.-Thi hành án dân
sự là hoạt động mang bản chất hành chính -tư pháp, thể hiện tính chấp
hành và điều hành.Thi hành án dân sự là một dạng hoạt động mang
tính hành chính -tư pháp của Nhà nước nhằm thực hiện quyền lực nhà
nước trong lĩnh vực tư pháp, bảo đảm hiệu lực thực tế của các bản án
của Tòa án. Hoạt động này do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (bao
gồm các cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án và cơ quan trực tiếp
thi hành án) thực hiện.Như đã phân tích ở trên, căn cứ để cơ quan thi
hành án dân sựtổ chức thi hành án là các bản án, quyết định về dân sự
của Tòaán và quyết định của Trọng tài thương mạicó hiệu lực thi
hành. Sau khi bản án, quyết định có hiệu lực, cơ quan thi hành án sẽ
căn cứ vào nội dung của bản án, quyết định (trườnghợp cơ quan thi
hành án chủ động thi hành án), căn cứ vào đơn yêu cầu thi hànhán và
bản án, quyết định (trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu của
người được thi hành án, người phải thi hành án) để thi hành án.
Cơquan thi hành án có trách nhiệm tổ chức thi hành đúng nội dung
của bản án, quyếtđịnh; người được thi hành án, người phải thi hành
án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án phải
nghiêm chỉnh thi hành, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị -xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế, đơn vị vũ trang và cá nhân tôn trọng [50]. Chính vì vậy,
ở đây thể hiện rất rõ tính chấp hành trong hoạt động thi hành án dân
sự. Đồng thời, chấp hành viên với tư cách là người được Nhà nước
trao quyền và chịu trách nhiệm điều hành quá trình tổ chức thi hành
án, chấp hành viên căn cứ vào các quy định của pháp luật về thi hành
án chủ động phối hợp với các cơ quan hữu quan để giải quyết các vấn
đề có liên quan đến thi hành án. Đặc biệt, trong nhiều trường hợp
chấp hành viên còn chịu trách nhiệm và điều hành cả các thành viên
thuộc các cơ quan, tổ chức khác có tham gia vàoquá trình thi hành án.
Ví dụ: làm Chủ tịch Hội đồng cưỡng chế, Chủ tịch Hội đồng định giá
tài sản, tiêu hủy tài sản...Mặt khác, hầu hết các hoạt động thi hành án
đều hướng đến việc thực hiện cácnghĩa vụ về tài sản, trực tiếp tác
động đến tài sản của các đương sự. Theo quy định tại Điều 1 và Điều
2 Luật Thi hành án dân sự, thì cơ quan thi hành án chịu trách nhiệm tổ
chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án về dân sự, hôn nhân
và gia đình, lao động, kinh tế; bản án, quyết định dân sự của Tòa án
nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt
Namcông nhận và cho thi hành tại Việt Nam; quyết định về dân sự,
phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài sản
thu lợi bấtchính, án phí trong bản án, quyết định của Tòa án về hình
sự; quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định về hành chính;
quyết định tuyên bố phá sản, quyết định của Trọng tài thương mạiViệt
- Xem thêm -