Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố hà nội những vấn đề lý luậ...

Tài liệu Hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố hà nội những vấn đề lý luận và thực tiễn

.PDF
110
40
58

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN HUY HẢI HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN HUY HẢI HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Thị Kim Quế Hµ néi - 2009 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP 8 LUẬTTRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. Tổng quan về hoạt động phổ biến pháp luật 8 1.1.1. Khái niệm phổ biến pháp luật 8 1.1.2. Mục đích của hoạt động phổ biến pháp luật 14 1.1.3. Chủ thể, khách thể, đối tượng của hoạt động phổ biến pháp luật 16 1.1.3.1. Chủ thể hoạt động phổ biến pháp luật 16 1.1.3.2. Khách thể (đối tượng) của hoạt động phổ biến pháp luật 17 1.2. Nội dung, hình thức, phương pháp phổ biến pháp luật 18 1.2.1. Nội dung phổ biến pháp luật 18 1.2.2. Hình thức phổ biến pháp luật 25 1.2.3. Phương pháp phổ biến pháp luật 29 1.2.4. Một số đặc điểm cần lưu ý trong hoạt động phổ biến pháp luật 30 1.3 Mối quan hệ giữa hoạt động phổ biến pháp luật với các dạng giáo dục ý thức khác 35 1.3.1. Hệ thống những văn bản pháp quy về hoạt động phổ biến pháp luật 35 1 1.3.2. Mối quan hệ giữa hoạt động phổ biến pháp luật với các dạng giáo dục ý thức khác 36 Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT 39 TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Vài nét khái quát về thành phố Hà Nội 39 2.2. Hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội 42 2.2.1. Sự cần thiết của hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội 42 2.2.2. Nội dung hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua 45 2.2.2.1. Trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động phổ biến pháp luật 45 2.2.2.2. Trong kiện toàn tổ chức, bộ máy làm công tác tuyên truyền pháp luật 49 2.2.2.3. Trong công tác giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ tuyên truyền pháp luật từ thành phố đến cơ sở 51 2.2.2.4. Hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật trong các tầng lớp nhân dân 52 2.2.2.5. Hoạt động phổ biến pháp luật cho cán bộ, công chức, chính quyền cơ sở 54 2.2.2.6. Hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật trong lực lượng vũ trang 55 Hoạt động phổ biến pháp luật cho thanh thiếu niên 56 2.2.2.8. Hoạt động phổ biến pháp luật cho người lao động, nhà quản lý và cán bộ công đoàn trong doanh nghiệp 57 Những hình thức phổ biến pháp luật chủ yếu trên địa bàn thành phố Hà Nội 57 2.2.3.1. Phổ biến pháp luật thông qua hội nghị, hội thảo, tọa đàm, nói chuyện chuyên đề 57 2.2.2.7 2.2.3. 2 2.2.3.2. Phổ biến thông qua các phương tiện thông tin đại chúng 59 2.2.3.3. Hoạt động phổ biến pháp luật thông qua các cuộc thi, hội thi tìm hiểu pháp luật 62 Hoạt động phổ biến pháp luật thông qua các tài liệu, sách báo, khai thác tủ sách pháp luật 63 2.2.3.5. Hoạt động phổ biến pháp luật thông qua công tác tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý 65 2.2.3.6. Hoạt động phổ biến giáo dục thông qua công tác hòa giải ở cơ sở 67 Những ưu điểm, các mặt hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong công tác phổ biến pháp trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian qua 69 2.2.3.4. 2.2.4. 2.2.4.1. Những ưu điểm 69 2.2.4.2. Những hạn chế trong hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội 71 2.2.4.3. Nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế và những bài học kinh nghiệm trong hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội 72 Chương 3: TĂNG CƢỜNG HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT 75 TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI - PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN 3.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về phổ biến pháp luật 75 3.2. Các giải pháp cơ bản nhằm tăng cường hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội 77 3.2.1. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về pháp luật cho chủ thể tiến hành hoạt động phổ biến pháp luật 77 3 3.2.2. Kết hợp phổ biến pháp luật với các lĩnh vực giáo dục đào tạo khác trên địa bàn thành phố Hà Nội 82 3.2.3. Xây dựng hệ thống thông tin pháp luật, tạo điều kiện để quần chúng nhân dân tiếp cận với pháp luật một cách kịp thời, chính xác 84 3.2.4. Tăng cường hình thức phổ biến pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tham gia phổ biến pháp luật 87 3.2.5. Đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội 91 3.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm những vi phạm kỷ luật, pháp luật 95 3.2.7. Bảo đảm kinh phí trong công tác phổ biến pháp luật cho cán bộ, công chức trên địa bàn 96 KẾT LUẬN 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 4 101 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới ở nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo trong hơn 20 năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng, tạo tiền đề vững chắc đưa đất nước ta bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực tiễn đổi mới đất nước đã chỉ rõ mối quan hệ biện chứng rằng: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hỏi tất yếu phải xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nhà nước quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật, phát huy dân chủ và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là phương thức không chỉ để xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền mà còn là phương thức chủ yếu để nhà nước quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc hiến định thể hiện trong Hiến pháp của Nhà nước ta. Để thiết lập một nền pháp chế thống nhất và vững chắc trên phạm vi cả nước; để thiết lập trật tự pháp luật, kỷ cương phép nước được nghiêm minh, dân chủ và công bằng, có rất nhiều con đường với nhiều giải pháp phong phú. Trong đó, phải kể đến giải pháp trước mắt và lâu dài đảm bảo việc thực hiện pháp luật trở thành lối sống, thói quen của Nhà nước và nhân dân - đó là đẩy mạnh hoạt động phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức về pháp luật cho nhân dân. Chính vì vậy, Chính phủ đã ra Chỉ thị số 02/CT-TTg năm 1998 và Quyết định số 03/QĐ-TTg ngày 7/1/1998 về việc ban hành kế hoạch triển khai công tác phổ biến phổ biến pháp luật. Thực hiện Chỉ thị số 32/CT-TW ngày 9/12/2003 của Ban Bí thư, Năm 2003 Chính phủ đề ra Chương trình Phổ biến giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007 (ban hành kèm theo Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17/-1/2003 của Thủ tướng Chính phủ), Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định số 36/2003/QĐ-UB ngày 5 27/02/2003 về Chương trình Phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2003 đến năm 2007. Theo Nghị quyết 61/2007/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 7/12/2007, phổ biến pháp luật là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Công tác này sẽ được tiến hành thường xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn nhằm làm cho cán bộ, nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nêu rõ: "Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch địh và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước" [20, tr. 44]. Với nhận thức trên có thể khẳng định rằng: nếu sự nghiệp giáo dục là quốc sách hàng đầu thì hoạt động phổ biến pháp luật có vị trí đặc biệt quan trọng ở nước ta hiện nay. Thực tiễn vừa qua, hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Pháp luật và tình hình thực hiện pháp luật của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nói chung còn rất hạn chế nhất là trong bối cảnh Hà Nội được mở rộng, khi xen lẫn vùng đô thị hóa vẫn còn những vùng sâu, vùng xa, vùng có các dân tộc ít người đang sinh sống. Các điều kiện để tiếp nhận thông tin pháp lý nhất là các văn bản pháp luật của Nhà nước đối với đa số quần chúng nhân dân bị hạn chế. Bối cảnh đó càng cho thấy hoạt động phổ biến pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống ở đây là vấn đề lớn đòi hỏi cần được đáp ứng kịp thời. Với những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài: "Hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" là rất cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn thiết thực. 6 2. Tình hình và phạm vi nghiên cứu của luận văn 2.1. Tình hình nghiên cứu Hoạt động phổ biến pháp luật với tư cách là một phạm trù pháp lý là một dạng hoạt động của Nhà nước trong tổ chức thực hiện pháp luật, biện pháp tăng cường pháp chế, vấn đề này đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều cơ quan và các nhà khoa học từ trước đến nay đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới đất nước, đổi mới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. + Ở trong nước việc nghiên cứu phổ biến pháp luật được nhiều tác giả đề cập đến những khía cạnh và mức độ khác nhau, thể hiện trong các công trình nghiên cứu, bài viết đăng trên các báo, tạp chí và phổ biến pháp luật đã là đề tài của nhiều luận án, luận văn luật học, các công trình nghiên cứu đó có thể kể đến như: - "Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa", Luận án tiến sĩ luật của Trần Ngọc Đường. - "Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và giáo dục pháp luật cho nhân dân lao động ở Việt Nam", Luận án phó tiến sĩ luật của Nguyễn Đình Lộc. - "Phổ biến pháp luật cho nhân dân", của Nguyễn Ngọc Minh, Tạp chí Cộng sản, số 10, 1983; - "Giáo dục ý thức pháp luật để tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng con người mới", của Phùng Văn Tửu, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4, 1985; - "Giáo dục ý thức pháp luật", của Nguyễn Trọng Bích, (Tạp chí Xây dựng Đảng, số 4, 1989; - "Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật", Đề tài khoa học cấp Nhà nước, mã số 07-17, do Viện Nhà nước - pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn chủ trì; 7 - "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong công cuộc đổi mới", đề tài khoa học cấp Bộ, mã số 92-98, 223 ĐT của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp; - "Tìm kiếm mô hình phổ biến phổ biến pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người", đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý; - "Phổ biến pháp luật trong các trường Đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề không chuyên luật ở nước ta hiện nay", Luận án Phó tiến sĩ của Đinh Xuân Thắng; - "Phổ biến pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam", Luận án phó tiến sĩ của Dương Thị Thanh Mai; - "Phổ biến pháp luật cho dân tộc Khơme Nam Bộ (qua thực tiễn An Giang)", Luận văn thạc sĩ của Lê Văn Bền; - "Bàn về phổ biến pháp luật", của phó tiến sĩ Trần Ngọc Đường Dương Thị Thanh Mai, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; - "Một số vấn đề về phổ biến phổ biến pháp luật trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Đặng Ngọc Hoàng. + Một số bài viết của các tác giả đã đăng trên Tạp chí thời gian gần đây: - "Nhìn lại một năm công tác phổ biến, phổ biến pháp luật ở Gia Lai", của Trần Xuân Thiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2000. - "Xã hội hóa công tác phổ biến phổ biến pháp luật trong tình hình mới" của Hồ Viết Hiệp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9/2000. - "Bàn về ý thức pháp luật", TS Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Luật Học, số 1/2003. - "Văn hóa pháp lý - dòng riêng giữa nguồn chung của dân tộc Việt Nam", PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10/2004. 8 - "Đa dạng hành vi pháp luật và xây dựng môi trường xã hội - pháp lý cho những hành vi hợp pháp", PGS TS Hoàng Thị Kim Quế, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2005 v.v... Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học của tập thể và cá nhân, các bài viết từ trước đến nay về phổ biến pháp luật đã có những đóng góp quan trọng về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, có thể nói rằng cho đến nay chưa có một công trình luận án, luận văn nào nghiên cứu về hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. Với vị trí là trung tâm chính trị hành chính và kinh tế lớn của cả nước, là thành phố vì hòa bình, Hà Nội cần phải chú trọng đúng mức tính cấp thiết của hoạt động phổ biến pháp luật và coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng để góp phần vào việc ổn định trật tự an ninh và phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô. 2.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài - Luận văn nghiên cứu hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu kể từ khi có đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) mà đặc biệt là 2 nhiệm kỳ Đại hội gần đây đến nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích của luận văn Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng, đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây: Một là, phân tích làm rõ cơ sở lý luận của hoạt động phổ biến pháp luật. Hai là, đánh giá, phân tích thực trạng hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. 9 Ba là, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật Nhà nước ta về hoạt động phổ biến pháp luật nói chung và hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng. - Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử - cụ thể, phân tích tổng hợp, thống kê so sánh, điều tra xã hội học v.v... 5. Những đóng góp mới của luận văn - Đây là công trình chuyên khảo, nghiên cứu tương đối có hệ thống những vấn đề lý luận về hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động phổ biến pháp luật, đồng thời rút ra những kinh nghiệm về hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và tăng cường hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. 6. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần vào việc nhận thức rõ tính đặc thù và thực trạng hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của các cơ quan Đảng và nhà nước trong hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Các giải pháp được đề ra trong luận văn có thể được áp dụng trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội. 10 - Luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy tại các trường, lớp, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp lý trên địa bàn thành phố Hà Nội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội Chương 2: Thực trạng hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội Chương 3: Tăng cường hoạt động phổ biến pháp luật trên địa bàn thành phố Hà Nội - phương hướng và giải pháp cơ bản 11 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT 1.1.1. Khái niệm phổ biến pháp luật Đến nay, khái niệm về phổ biến pháp luật ở nước ta vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống. Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm phổ biến pháp luật. Về cơ bản có các quan niệm sau đây: Trước hết, quan niệm cho rằng, pháp luật là qui tắc xử sự có tính bắt buộc chung. Mọi công dân đều phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, do đó không cần đặt vấn đề phổ biến pháp luật. Pháp luật không thể là cái thuộc tính tuyên truyền vận động, ngược lại, bản thân pháp luật sẽ tự thực hiện chức năng của mình bằng các quy định về quyền và nghĩa vụ thông qua các chế tài đối với những người tham gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh. Quan niệm thứ hai, đồng nhất hoặc coi phổ biến pháp luật là một bộ phận của giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức. Chỉ cần thực hiện tốt quá trình giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức là mọi người đã có ý thức pháp luật cao, có sự tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Quan niệm này đã từng tồn tại trong một thời gian khá dài ở nước ta. Vì vậy, việc đào tạo chuyên ngành luật không được Nhà nước chú ý, dẫn đến hậu quả là các cơ sở đào tạo của ngành luật hầu như không có. Mãi đến năm 1979 mới có cơ sở chuyên ngành đào tạo các luật gia ở bậc đại học và đến những năm 19871988, việc phổ biến pháp luật mới bắt đầu đưa vào chương trình giáo dục ở bậc phổ thông. Quan niệm thứ ba, coi phổ biến pháp luật đồng nhất với việc giáo dục các văn bản pháp luật. Theo quan niệm này, việc phổ biến pháp luật thực chất 12 chỉ là các đợt tuyên truyền, cổ động khi có văn bản pháp luật quan trọng mới ban hành như: Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự hoặc trước các kỳ bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Các quan niệm nói trên có phần mang tính phiến diện, một chiều, chưa thấy hết đặc thù, sự tác động của phổ biến pháp luật, nên đã vô tình hoặc cố ý hạ thấp vai trò, giá trị xã hội của hoạt động phổ biến pháp luật. Bởi vì, bản thân pháp luật mới chỉ là văn bản qui phạm pháp luật, là mô hình ở dạng "tiềm năng". Pháp luật chỉ thực sự đi vào cuộc sống thông qua cơ chế điều chỉnh bao gồm các giai đoạn: Ban hành, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát. Khi tham gia vào các quan hệ pháp luật, con người phải suy nghĩ, lựa chọn cách xử sự thể hiện qua hành vi. Đây là một quá trình tâm lý phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Ở giai đoạn này, qui phạm pháp luật có khả năng tác động lên ý thức của cá nhân như khuyến khích hành vi hợp pháp hoặc kìm chế hành vi bất hợp pháp. Do đó, việc phổ biến văn bản pháp luật mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa đủ để cá nhân hành động phù hợp theo yêu cầu của pháp luật. Điều kiện đủ ở đây là cá nhân phải có ý thức pháp luật đúng đắn, ý thức đó phải được hình thành dưới sự tác động liên tục, thường xuyên của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan dẫn đến hành vi hợp pháp của cá nhân "cho nên công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn phải tuyên truyền, giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt" [37, tr. 244. Để xác định đúng đắn khái niệm phổ biến pháp luật, trước hết cần là rõ các khái niệm có liên quan. - Về hoạt động tuyên truyền Hoạt động phổ biến pháp luật có liên quan chặt chẽ tới khái niệm về hoạt động tuyên truyền. Theo Đại từ điển Tiếng Việt do tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên nêu ra khái niệm tuyên truyền như sau: "Tuyên truyền là giải thích rộng rãi để thuyết phục, vận động mọi người làm theo" [53]. 13 Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa về tuyên truyền như sau: "Tuyên truyền là đem một việc gì nói để cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó là tuyên truyền thất bại" [38, tr. 162] - Quan niệm về giáo dục: Theo nghĩa rộng, giáo dục là quá trình ảnh hưởng của nhiều điều kiện khách quan như: Môi trường sống, chế độ xã hội, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, phong tục tập quán... và sự tác động của nhân tố chủ quan như: Sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch và định hướng của con người lên việc hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục. Theo nghĩa hẹp, giáo dục là hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể giáo dục tác động lên khách thể giáo dục, nhằm đạt được các mục tiêu nhất định như: Truyền bá những kinh nghiệm trong sản xuất, trong đấu tranh; những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy để khách thể (hay đối tượng) có đủ khả năng tham gia vào đời sống xã hội. Trong thực tiễn, tuy thừa nhận ảnh hưởng của các điều kiện khách quan là to lớn đối với việc hình thành ý thức cá nhân con người, các nhà lý luận vẫn nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu, cực kỳ quan trọng, thậm chí mang yếu tố quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì thế, khái niệm giáo dục hiện nay thường được hiểu theo nghĩa hẹp. Từ những quan niệm trên, phổ biến pháp luật trước hết là một hoạt động mang đầy đủ tính chất chung của giáo dục, có nhiều nét tương đồng với hoạt động tuyên truyền nhưng nó cũng có những nét đặc thù riêng, phạm vi riêng để tác động lên ý thức con người. Theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, phổ biến pháp luật được hiểu là: Con người nói chung là khách thể (hay đối tượng) chịu ảnh hưởng và tác động của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành nên ý thức, tình cảm và hành vi pháp luật. Cơ sở của việc xây dựng khái niệm phổ biến pháp luật được xác định qua các yếu tố sau đây: 14 - Mặc dù, sự hình thành ý thức con người là quá trình ảnh hưởng tác động thống nhất của các điều kiện khách quan và các nhân tố chủ quan, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin và cả những nhà lý luận giáo dục đều phân biệt hai mặt của quá trình ấy. Tuy vậy, trong sự tác động, nhân tố của các điều kiện khách quan chỉ là những nhân tố ảnh hưởng còn nhân tố chủ quan là nhân tố tích cực mang tính tác động. Nhân tố ảnh hưởng có thể tác động theo chiều này hay chiều khác, còn nhân tố "tác động" bao giờ cũng là tự giác, có ý thức, có định hướng rõ ràng, cụ thể mà hoạt động giáo dục định hướng, có tổ chức, có chủ định của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội là yếu tố hàng đầu. - Khái niệm phổ biến pháp luật theo nghĩa hẹp còn có ý nghĩa trong việc phân biệt phạm trù phổ biến pháp luật với phạm trù ý thức pháp luật. Hai phạm trù này có quan hệ mật thiết với nhau nhưng không phải là một. Hoạt động phổ biến pháp luật, đó chính là sự tác động của nhân tố chủ quan mà trước hết là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định thành một hệ thống của nhiều chủ thể. Còn sự hình thành ý thức pháp luật là sản phẩm của điều kiện khách quan. Sự phân biệt hai phạm trù này có ý nghĩa quan trọng ở chỗ tạo ra khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn của hoạt động phổ biến pháp luật. Thực tiễn đã chỉ ra rằng nếu buông trôi, thả lỏng việc phổ biến pháp luật thì các nhân tố tiêu cực như: hiện tượng vi phạm pháp luật, phạm tội chưa được xử lý nghiêm minh; hiện tượng nhận hối lộ, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, công chức sẽ có điều kiện tác động phản giáo dục rất mạnh lên nhận thức, tình cảm, lòng tin vào pháp luật của công dân. Từ đó, có thể hình thành loại ý thức pháp luật ngược với mục tiêu của nền pháp chế và là cơ sở cho các hành vi vi phạm pháp luật tăng lên. Ngược lại, nếu xác định đúng đắn các yếu tố của phổ biến pháp luật như nội dung, hình thức, phương pháp... và định hướng chúng ngay trong các hoạt động của thực tiễn pháp luật phù hợp với yêu cầu từng giai đoạn, từng thời kỳ thì sẽ giảm bớt được tác động của các tiêu cực, giúp cho đối tượng được phổ biến có ý thức pháp luật vững 15 vàng, có khả năng phân tích, phê phán một cách đúng đắn về hiện thực pháp luật trong quá trình vận động của nó. Từ đó, mọi người có thái độ và hành động phù hợp với pháp luật. - Phổ biến pháp luật vừa mang những đặc điểm chung của hoạt động tuyên truyền, giáo dục, sử dụng các hình thức phương pháp của tuyên truyền, giáo dục nói chung, vừa thể hiện những nét đặc thù riêng có của mình trong mối liên hệ chặt chẽ với các loại hình giáo dục khác như giáo dục chính trị, đạo đức... Tính đặc thù của phổ biến pháp luật thể hiện ở cả mục đích, nội dung và ở cả hình thức, phương pháp. Nét đặc thù của phổ biến pháp luật khác tương đối với các dạng giáo dục khác ở chỗ: + Phổ biến pháp luật có mục đích riêng của mình, đó là hoạt động nhằm hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. + Phổ biến pháp luật có nội dung riêng, đó là sự tác động định hướng với nội dung cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói chung, của một nhà nước nói riêng về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật. Trong đó, pháp luật thực định hiện hành của Nhà nước là bộ phận vô cùng quan trọng. + Xét trên các yếu tố chủ thể, khách thể, đối tượng, hình thức và phương pháp giáo dục cũng có thể chỉ ra các nét đặc thù của phổ biến pháp luật. Chẳng hạn, phổ biến pháp luật so với các dạng giáo dục khác, đó là quá trình tác động liên tục, thường xuyên, lâu dài chứ không phải là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Vì thế, phổ biến pháp luật trở thành sợi chỉ đỏ xuyên nối qua gia đình, nhà trường, các tập thể lao động, các tổ chức Đảng, Nhà nước, các đoàn thể xã hội. Nhân tố con người với hành vi hợp pháp đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động qua lại giữa người giáo dục (chủ thể) với người được giáo dục (đối tượng). Người được giáo dục là người chịu sự tác động có tổ chức, có định hướng các thông tin pháp luật. 16 Vì vậy, sự hiểu biết về trình độ, đặc điểm nhân thân của người được giáo dục là đòi hỏi hàng đầu đối với người giáo dục. Đồng thời, người phổ biến pháp luật cần phải nắm vững tri thức pháp luật, biết cách chuyển tải nó và hơn thế nữa phải là tấm gương, phải là hình mẫu trong việc tuân theo pháp luật. Bởi vì, trong phổ biến pháp luật thì nguyên tắc "làm gương", "làm mẫu", "anh hãy làm như tôi làm" có ảnh hưởng to lớn đối với người được phổ biến. Tóm lại, khái niệm phổ biến pháp luật được hiểu: là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể tác động lên đối tượng phổ biến nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành. Với khái niệm phổ biến pháp luật như đã nêu trên, trong điều kiện hiện nay ở nước ta, việc trang bị tri thức pháp luật, xây dựng tình cảm và thói quen pháp luật cho mọi công dân là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Trong đó trước hết thuộc về hệ thống các cơ quan có chức năng giáo dục đào tạo nói chung và các cơ quan có chức năng phổ biến pháp luật của Nhà nước nói riêng. Phổ biến pháp luật là một trong những mắt xích quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, phổ biến pháp luật là nhằm hình thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công dân, nhằm phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: "Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước" [20, tr. 44], chúng ta đang từng bước phấn đấu nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong phương hướng đó, phổ biến pháp luật giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, vì đó là khâu đầu tiên để tạo ra 17 tiền đề ý thức cho phương hướng có khả năng trở thành hiện thực trong đời sống xã hội. Thực tế trong thời gian qua cho thấy, sự coi nhẹ và thiếu năng động trong hoạt động phổ biến pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ý thức pháp luật của cán bộ công chức và nhân dân còn thấp, pháp luật và kỷ cương của Nhà nước bị vi phạm ngày càng phổ biến. Điều đó đặt ra cho chúng ta sự cần thiết phải nhận thức ý nghĩa mang tầm chiến lược của hoạt động phổ biến pháp luật trong suốt cả quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nó là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. 1.1.2. Mục đích của hoạt động phổ biến pháp luật Mục đích của hoạt động phổ biến pháp luật là một trong những yếu tố tạo nên cấu trúc bên trong của phổ biến pháp luật. Việc xác định đúng đắn các mục đích xã hội cần phải đạt được trong quá trình phổ biến pháp luật có vai trò quan trọng trong lý luận và thực tiễn phổ biến pháp luật. Bởi vì, các phạm trù, nội dung, hình thức, phương pháp phổ biến pháp luật phần lớn phụ thuộc vào việc xác định những mục đích xã hội nào được đặt ra trước quá trình giáo dục. Mục đích của hoạt động phổ biến pháp luật phải đáp ứng được các yêu cầu cụ thể của xã hội đối với phổ biến pháp luật ở từng giai đoạn, trong các điều kiện lịch sử cụ thể. Theo quan điểm chung của nhiều nhà khoa học, hoạt động phổ biến pháp luật bao gồm các mục đích cơ bản sau đây: Mục đích thứ nhất: Cung cấp để hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật của công dân (mục đích nhận thức). Đây là mục đích hàng đầu, bởi vì, chính sự am hiểu pháp luật, sự nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật sẽ là điều kiện cần thiết để hình thành tình cảm và lòng tin vào pháp luật ở mỗi công dân. Hơn nữa, tri thức pháp luật còn giúp cho con người tổ chức một cách có ý thức hoạt động của mình và tự đánh giá kiểm tra, đối chiếu hành vi với các chuẩn 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan