ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ THU QUỲNH
HỢP ĐỒNG DÂN SỰ CÓ ĐIỀU KIỆN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ THU QUỲNH
HỢP ĐỒNG DÂN SỰ CÓ ĐIỀU KIỆN
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số
: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Trung Tập
HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các sơ đồ
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÀ HỢP
6
ĐỒNG DÂN SỰ CÓ ĐIỀU KIỆN
1.1.
Khái niệm hợp đồng dân sự
6
1.1.1. Hợp đồng là hành vi pháp lý song phương
13
1.1.2. Hợp đồng là nguồn chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ
15
1.2.
Khái niệm hợp đồng dân sự có điều kiện và đặc điểm của hợp
đồng dân sự có điều kiện
17
1.2.1. Khái niệm hợp đồng dân sự có điều kiện
17
1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng dân sự có điều kiện
21
1.3.
Nguyên tắc xác lập hợp đồng dân sự có điều kiện
28
1.3.1. Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái
pháp luật, đạo đức xã hội
28
1.3.2. Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung
thực và ngay thẳng
31
Chương 2:
CÁC YẾU TỐ CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ CÓ ĐIỀU
33
KIỆN VÀ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ CÓ
ĐIỀU KIỆN
Điều kiện của hợp đồng dân sự có điều kiện
33
2.1.1. Chủ thể trong hợp đồng dân sự có điều kiện
33
2.1.2. Điều kiện về mục đích, nội dung của hợp đồng dân sự có
điều kiện
40
2.1.
2.1.3. Điều kiện về sự tự nguyện của người tham gia hợp đồng dân
sự có điều kiện
43
2.1.4. Điều kiện về hình thức của hợp đồng dân sự có điều kiện
47
2.2.
Sự kiện làm điều kiện xác lập hợp đồng
51
2.3.
Sự kiện làm điều kiện hủy bỏ hợp đồng
54
2.4.
Mối tương quan giữa giao dịch dân sự có điều kiện với hành
vi pháp lí đơn phương (hứa thưởng, thi có giải) và hợp đồng
dân sự có điều kiện
60
Chương 3:
65
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ CÓ
ĐIỀU KIỆN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
QUY ĐỊNH VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ CÓ ĐIỀU KIỆN
Thực trạng pháp luật về hợp đồng dân sự có điều kiện
65
3.1.1. Thiếu sót lớn nhất của pháp luật hợp đồng ở Việt Nam là có
sự trùng lặp, thiếu nhất quán và không đồng bộ
65
3.1.2. Vấn đề về điều kiện trong hợp đồng dân sự có điều kiện
67
3.1.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật quy định về hợp đồng dân sự
có điều kiện
68
3.2.1. Cầ n hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t dân s ự điều chỉnh chế định hợp
đồng và hợp đồng dân sự có điều kiện
68
3.2.2. Cần phân biệt giữa "điều kiện" trong hợp đồng dân sự có điều
kiện và "điều kiện" trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
69
3.2.3. Án lệ đối với việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp
đồng dân sự có điều kiện
75
3.2.4. Cần có các tiêu chí về điều kiện mà các bên thỏa thuận trong
hợp đồng dân sự có điều kiện
76
3.2.5. Quy định thêm các điều kiện làm điều kiện thay đổi hợp đồng
dân sự có điều kiện
78
3.2.6. Đối với hành vi pháp lí đơn phương hứa thưởng, thi có giải
79
3.2.
KẾT LUẬN
81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
84
Danh môc c¸c S¥ §å
Sè hiÖu
b¶ng
2.1
Tªn b¶ng
Các hình thức thể hiện của dịch dân sự có điều kiện
Trang
62
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp đồng dân sự là một chế định pháp luật vô cùng quan trọng, là một
trong những chế định pháp lí cổ xưa nhất, xuất hiện sớm nhất trong nội dung
luật dân sự. Hợp đồng dân sự là sự khái quát một cách toàn diện các hình thức
giao lưu dân sự phong phú của con người, là một trong những phương thức
hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình. Từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới một loạt
các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng đã ra đời như: Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế (1989); Pháp lệnh hợp đồng dân sự (1991) và hai pháp lệnh
về chuyển giao công nghệ và sở hữu trí tuệ cũng có phần quy định về vấn đề
hợp đồng. Đến khi Bộ luật dân sự năm 1995 ra đời có thể coi là bước đi quan
trọng về mặt lập pháp nhằm khẳng định vai trò và ý nghĩa đặc biệt của chế
định hợp đồng trong đời sống xã hội cũng như quyết tâm của Việt Nam trên
con đường xây dựng nền kinh tế thị trường có điều tiết. Trải qua hơn 10 năm
thi hành Bộ luật dân sự năm 1995 mặc dù cơ bản đã đi vào đời sống xã hội
nước ta nhưng chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự năm 1995 vẫn còn
nhiều hạn chế. Vì vậy, Bộ luật dân sự năm 2005 được Quốc hội thông qua
ngày 14/06/2005 có hiệu lực ngày 01/01/2006 đã tạo ra một hành lang pháp lí
quan trọng trong giao lưu dân sự, thể hiện một bước tiến cao hơn trong tư duy
lập pháp, hành pháp và tư pháp của những nhà làm luật. Các nhà lập pháp
Việt Nam đã có sự tiếp thu, học hỏi những quy định pháp luật từ thực tiễn
cũng như luật pháp của các nước trên thế giới, cân nhắc chúng cùng với hoàn
cảnh thực tế tại Việt Nam để đưa ra một văn bản có tính chuẩn mực pháp lí
cao trong hệ thống pháp luật dân sự. Bộ luật dân sự 2005 đã tập trung sửa đổi,
bổ sung cơ bản và toàn diện hơn chế định hợp đồng, đã thể hiện tương đối đầy
đủ các nguyên tắc tiến bộ, dựa trên triết lí sâu xa và cơ bản nhất của hợp đồng
1
là tự do khế ước và bảo đảm quyền bình đẳng của các bên. Chế định hợp đồng
chiếm tới hơn 200 điều trong tổng số 777 điều của Bộ luật dân sự. Bên cạnh
những quy định mang tính khái quát về hợp đồng, Bộ luật dân sự cũng có
những quy định riêng về 16 loại hợp đồng thông dụng tạo cơ sở pháp lí cho
việc áp dụng và giải quyết tranh chấp dân sự liên quan đến vấn đề hợp đồng.
Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình xây dựng và phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội. Hơn nữa, đã hơn 4 năm Việt Nam gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đang trên đà hội nhập nền kinh tế
toàn cầu, quá trình hội nhập mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng có nhiều thách
thức. Chừng nào pháp luật nói chung và những quy định về hợp đồng dân sự
nói riêng chưa trở thành công cụ cơ bản để điều chỉnh quan hệ xã hội thì
chừng đó Việt Nam vẫn nằm ngoài sự phát triển chung của thế giới. Các tranh
chấp về hợp đồng dân sự cũng ngày một gia tăng và mức độ phức tạp ngày
càng cao đòi hỏi pháp luật về hợp đồng dân sự phải hoàn thiện hơn để giải
quyết một cách triệt để. Có rất nhiều loại hợp đồng được quy định trong Bộ
luật dân sự năm 2005 tạo điều kiện cho các chủ thể có thể tùy ý lựa chọn các
hình thức tham gia giao kết hợp đồng. Điều 406 Bộ luật dân sự năm 2005 quy
định các loại hợp đồng trong đó có Hợp đồng dân sự có điều kiện là dạng hợp
đồng đặc biệt cần có sự điều chỉnh để tránh tình trạng các bên tham gia giao
kết hợp đồng xảy ra tranh chấp về xác định thời điểm phát sinh hiệu lực của
hợp đồng, thời điểm hợp đồng phát sinh hoặc hủy bỏ. Để giải quyết tranh
chấp đó một câu hỏi được đặt ra: "Liệu có tồn tại hợp đồng hay không?" và
"Hợp đồng dân sự có điều kiện thì điều kiện trong hợp đồng đó có làm phát
sinh hiệu lực của hợp đồng không?" để từ đó xác định quyền và nghĩa vụ của
các bên. Vì vậy, những quy định về hợp đồng dân sự có điều kiện có vai trò
quan trọng trong việc điều chỉnh những quan hệ dân sự của nền kinh tế thị
trường. Các quy định này không tồn tại độc lập mà có sự liên hệ chặt chẽ với
các quy định khác trong Bộ luật dân sự năm 2005. Vì thế việc nghiên cứu
2
các quy định về hợp đồng dân sự có điều kiện trong Bộ luật dân sự năm
2005 là một vấn đề mang tính cấp thiết nhằm góp phần làm sáng tỏ những
quy định này, đưa ra một số phân tích, bình luận, chỉ ra những vướng mắc,
bất cập trong quá trình thực hiện các quy định này và đề ra một số các giải
pháp khắc phục.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Tính đến thời điểm hiện nay, ở nước ta nghiên cứu về hợp đồng dân sự
có nói chung đã có nhiều công trình khoa học cụ thể là công trình của TS. Nguyễn
Mạnh Bách "Luật dân sự Việt Nam lược giải - các hợp đồng dân sự thông
dụng", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1997. Công trình này chủ yếu tập
trung nghiên cứu về các hợp đồng dân sự thông dụng như hợp đồng mua bán
tài sản, hợp đồng tặng cho tài sản, hợp đồng thuê tài sản theo các quy định
của Bộ luật dân sự năm 1995. Công trình của ThS. Đinh Thị Mai Phương về
"Thống nhất pháp luật hợp đồng ở Việt Nam", Nhà xuất bản Tư pháp, 2005;
công trình của TS. Nguyễn Ngọc Khánh về "Chế định hợp đồng trong Bộ luật
dân sự 2005", Nhà xuất bản Tư pháp, 2007; các bài viết về hợp đồng đăng
trên các tạp chí Luật học… Tuy nhiên, những công trình nói trên chỉ tập trung
nghiên cứu về khái niệm, chức năng, vị trí của hợp đồng; ý chí, tự do ý chí
trong hợp đồng; giao kết, thực hiện hợp đồng; trách nhiệm hợp đồng… nhưng
ít có công trình nghiên cứu riêng về loại hợp đồng dân sự có điều kiện. Học
viên chọn đề tài "Hợp đồng dân sự có điều kiện" để làm luận văn cao học
luật và đề tài này cũng mang tính cấp thiết. Vì vậy, đề tài và nội dung luận
văn không hề có sự trùng lặp với bất kì công trình khoa học nào khác đã
công bố.
3. Phạm vi của việc nghiên cứu đề tài
Căn cứ vào những quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 về các
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự để làm nổi bật tính hiện đại và
3
độc lập của pháp luật Việt Nam quy định về vấn đề này. Phạm vi nghiên cứu
đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các quan hệ hợp đồng ở Việt Nam tuy có sự
so sánh với pháp luật nước ngoài để làm nổi bật tính hiện đại của pháp luật
Việt Nam.
4. Tính mới của luận văn
Luận văn có những điểm mới sau đây:
- Hệ thống hóa được những quy định của pháp luật hiện hành về hợp
đồng dân sự có điều kiện.
- Phân tích những quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự có điều
kiện để làm nổi bật tính hiện đại, tính độc lập của pháp luật Việt Nam về hợp
đồng dân sự có điều kiện.
- Cũng qua phân tích hợp đồng dân sự có điều kiện đặt trong sự so
sánh với luật của một số nước quy định về vấn đề này để đánh giá hiệu quả
điều chỉnh của pháp luật Việt Nam về loại hợp đồng này.
- Qua nghiên cứu đề tài học viên đã đưa ra những kiến nghị có cơ sở
để nhằm hoàn thiện những quy định về hợp đồng dân sự có điều kiện.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của nền
tảng triết học Mác- Lênin và những vấn đề khoa học về nhà nước và pháp luật.
Ngoài ra, phương pháp nghiên cứu lý thuyết, phương pháp phân tích quy
phạm, chứng minh, luật học so sánh, thống kê, tổng hợp được sử dụng nhằm
giải quyết vấn đề một cách hợp lý và rõ ràng nhất.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
4
Chương 1: Khái niệm chung về hợp đồng dân sự và hợp đồng dân sự
có điều kiện.
Chương 2: Các yếu tố của hợp đồng dân sự có điều kiện và hiệu lực
của hợp đồng dân sự có điều kiện
Chương 3: Thực trạng pháp luật về hợp đồng dân sự có điều kiện và
giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự có điều kiện.
5
Chương 1
KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
VÀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ CÓ ĐIỀU KIỆN
1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự
Hợp đồng được coi là một trong những chế định pháp lí cổ xưa nhất,
đối với giới luật gia, hợp đồng là một trong những khái niệm trung tâm của
luật dân sự, một trong những đối tượng điều chỉnh của khoa học pháp lí. Ở
những nước Châu Âu bộ môn lí thuyết về hợp đồng đã có bề dày lịch sử hàng
ngàn năm nhưng ở Việt Nam cho đến những năm cuối của thế kỷ XIX và
những năm đầu của thế kỷ XX thì thuật ngữ "khế ước" hay " hợp đồng" mới
bắt đầu được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của nhà nước. Trước tiên
phải kể đến Bộ dân luật giản yếu Nam Kỳ (1883); Bộ dân luật Bắc Kỳ (1931)
và Bộ dân luật Trung Kỳ (1936). Vậy hợp đồng trong Bộ luật dân sự được
hình thành từ đâu? Chúng ta hãy xem xét sự hình thành và phát triển của hợp
đồng trên thế giới và tại Việt Nam.
Trong lịch sử văn minh thế giới, sự hình thành chế định hợp đồng gần
như xuất hiện cùng các nhu cầu giao lưu mang tính tài sản trong xã hội. Trước
hết và quan trọng nhất là nhu cầu giao lưu giữa mọi người với nhau nhằm
hướng tới một kết quả vật chất nhất định phù hợp với lợi ích của tất cả các
bên. Theo thời gian do sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng các hình thức giao
lưu đó, một nhu cầu mới nảy sinh đó là nhu cầu cần thiết phải có các mô hình
xử sự chung do nhà nước quy định để các bên tùy ý lựa chọn hoặc có thể do
chính các bên tự thiết lập. Các mô hình xử sự đó được pháp luật định danh
với tên gọi "khế ước" hay "hợp đồng".
Ở Châu Âu, sự khởi đầu của chế định hợp đồng gắn liền với Luật La
Mã cổ đại. Ngày từ thế kỷ V - IV trước Công nguyên, người La Mã đã biết
6
đến và xây dựng hệ thống những thuật ngữ, khái niệm, phạm trù pháp lý có giá
trị phổ biến toàn nhân loại về các vấn đề cơ bản nhất của chế định hợp đồng như:
hợp đồng (contractus), và mục đích, căn cứ hợp đồng (causa), hợp đồng miệng
và hợp đồng viết, hợp đồng thực tế và hợp đồng ưng thuận (res và consensus),
ý chí và thể hiện ý chí (id quod actum est và id quod dictum est)…
Nó đã thật sự là khuôn mẫu để điều chỉnh toàn diện những quan hệ
hợp đồng theo quan điểm hiện nay và nhờ vào những giá trị phổ biến mang
tính thời đại ấy mà chế định hợp đồng khởi nguồn từ Luật La Mã đã được du
nhập một cách tự giác vào Châu Âu cùng với phong trào Phục Hưng diễn ra
vào thế kỷ XII- XIII và sau đó phát triển mạnh mẽ tại lãnh thổ nhiều nước
như: Pháp, Đức, Hà Lan. Đến thể kỷ XVIII, XIX, XX, với sự tỏa sáng của
ngành khoa học pháp lý có hàng ngàn năm bề dày lịch sử và do tác động của
sự phát triển các quan hệ kinh tế - xã hội, chế định hợp đồng đã lần lượt được
các nước Châu Âu pháp điển hóa khi xây dựng những Bộ luật dân sự đầu tiên
của mình. Chính vì vậy khi bàn đến xu hướng phát triển của luật dân sự, một
nhà triết học và xã hội học nổi tiếng người Pháp đã dự đoán "hợp đồng chiếm
9/10 dung lượng các bộ luật dân sự hiện hành và đến một lúc nào đó tất cả các
điều khoản của bộ luật, từ điều khoản thứ nhất đến điều khoản cuối cùng đều
quy định về hợp đồng" [Dẫn theo 11].
Khác với những gì diễn ra ở Châu Âu, sự hình thành và phát triển
pháp luật hợp đồng ở Việt Nam cho đến thế kỷ XIX chưa thật sự tồn tại theo
đúng nghĩa khoa học của thuật ngữ này. Chúng ta hãy cùng xem xét lịch sử
pháp luật hợp đồng tại Việt Nam để thấy được sự khác biệt.
Trong suốt quá trình phát triển lịch sử của mình, xã hội phong kiến
Việt Nam trên nhiều phương diện được xây dựng rập khuôn theo mô hình của
xã hội phong kiến Trung Quốc. Các triều đại phong kiến Việt Nam luôn dựa
vào Nho giáo như một hệ tư tưởng chính thống để xây dựng và quản lý xã hội.
Ý muốn đặt mình vào hệ thống và đạo lý Nho giáo được biểu hiện rõ nét
7
trong những cố gắng của các triều đại phong kiến nhằm duy trì một xã hội ổn
định với 4 tầng lớp (tứ dân) từ cao đến thấp: sĩ, nông, công, thương. Các hoạt
động luôn bị kìm hãm bởi chính sách " ức thương" chủ yếu mang tính tự cung,
tự cấp. Tình trạng đó tồn tại trong suốt một thời kỳ dài cho đến những năm
cuối của triều đình nhà Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
Chính vì lẽ đó mà quan hệ hợp đồng ở thời kỳ đầu của xã hội phong kiến
không có cơ hội phát triển, một sự cách tân hay cải cách thực sự. Về phía
người dân là thái độ thờ ơ, không coi trọng pháp luật. Cuối thế kỷ XVII, đại
đa số dân cư rất nghèo và điều này có thể hiểu được nếu nhìn vào nền thương
mại ở Việt Nam thời đó. Nền thương mại biển rất yếu và gần như không tồn
tại, ngoại trừ sự giao thương của một vài loại lương thực và thực phẩm như
gạo và cá. Nền thương mại chính của đất nước lại do người Trung Hoa, người
Anh, Hà Lan và những thương nhân ngoại quốc khác nắm giữ - những người
đặt thương điếm cư trú tại Đàng Ngoài buôn bán theo mùa. Người Việt Nam
bị nghiêm cấm không được buôn bán ở Trung Hoa. Tất nhiên, đó không phải
là nguyên nhân quan trọng nhất cản trở sự phát triển của chế định hợp đồng ở
Việt Nam bên thềm thế kỷ XX. Một nguyên nhân quan trọng là thái độ của
người dân đối với pháp luật.
Khác với những nước phương Tây và những nước Châu Á khác, pháp
luật thành văn ở Việt Nam còn xa lạ với nhận thức của người dân và chủ yếu
là luật hành chính, luật hình sự, luật tư thành văn tuy có nhưng chỉ đóng vai
trò không đáng kể. Ngay cả đến bộ luật nổi tiếng dưới thời vua Lê Thánh
Tông là Quốc Triều Hình Luật các quan hệ liên quan đến sinh hoạt, cuộc sống
hàng ngày của người dân đều được bảo vệ bằng các chế định nặng nề vẫn
được gọi là Ngũ hình. Mặt khác, đông đảo dân cư chỉ sống theo phong tục,
tập quán của mình với tư tưởng "phép vua thua lệ làng". Nguyên nhân là do
nền kinh tế - xã hội của nước ta trong thời kỳ đó kém phát triển, kinh tế nông
nghiệp là chính, công thương nghiệp kém phát triển nên yêu cầu đòi hỏi phải
8
có một hệ thống pháp luật đa dạng phong phú và tương đối hoàn chỉnh với
nhiều chuyên ngành khác nhau để điều chỉnh nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc
biệt là các quan hệ kinh tế không xuất hiện rõ nét, tất cả các quan hệ trong đời
sống xã hội đều quy định trong một bộ luật, còn lại do các quy phạm thuộc
các lĩnh vực khác điều chỉnh như đạo đức, tập quán. Chính thái độ thiếu quan
tâm đến pháp luật cùng với sự hạn chế về điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội
lúc bấy giờ giúp ta lý giải tại sao chúng ta không tìm thấy thuật ngữ "hợp
đồng" hay một thuật ngữ nào tương đương trong bất kì một văn bản chính
thức nào của nhà nước phong kiến. Ngay trong các bộ cổ luật được đánh giá
như là đỉnh cao của thành tựu lập pháp phong kiến như Bộ luật Hồng Đức, Bộ
luật Gia Long, khái niệm hợp đồng hay khế ước với tư cách là một thuật ngữ
pháp lý độc lập và hoàn chỉnh hầu như không được biết đến. Chế định hợp
đồng chỉ được biểu hiện không thật rõ nét qua các tình huống mua bán cụ thể
như: việc mua bán, thuê mướn, vay nợ, cầm cố, bảo lãnh… không có tính
khái quát cao và không thể áp dụng chung cho mọi trường hợp. Các bộ cổ luật
còn chứa đựng nhiều các quy định mang tính chất bất bình đẳng trong giao
lưu dân sự, các chế tài vi phạm khế ước còn mang nặng tính chất pháp luật
hình sự, không phù hợp với bản chất của các quan hệ dân sự.
Tình hình trên đã có sự thay đổi rõ nét kể từ khi người Pháp đặt chân
vào Việt Nam mang theo một nền khoa học pháp lý khác biệt, rộng lớn và
đang trên đà phát triển rực rỡ. Dựa trên thành quả của hệ thống pháp luật La
Mã cổ đại vốn đã rất phát triển về lĩnh vực luật tư, người Pháp đã phát triển
thành nhiều chuyên ngành khoa học pháp lý riêng với nhiều đạo luật cụ thể,
mà nổi tiếng nhất chính là Bộ luật dân sự Pháp năm 1804. Do đó ngay sau
khi xác lập sự thống trị của mình ở Việt Nam, người Pháp đã đem ngay các
kết quả đó áp dụng vào tình hình thực tế của Việt Nam rồi từ đó ban hành ra
ba bộ dân luật riêng biệt áp dụng cho ba xứ với ba chế độ cai trị khác nhau
đó là: Bộ dân luật giản yếu ban hành năm 1883 áp dụng cho xứ thuộc địa
9
Nam Kỳ và ba khu vực nhượng địa là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng; Bộ
dân luật Bắc Kỳ năm 1931 áp dụng cho xứ Bắc Kỳ và Bộ dân luật Trung Kỳ
ban hành năm 1936 áp dụng cho Trung phần. Về cơ bản ba bộ luật đã căn cứ
trên Bộ luật dân sự Pháp 1804 có tính đến điều kiện đặc thù ở Việt Nam, do
vậy nó đã được áp dụng tại Việt Nam kể cả sau Cách mạng tháng Tám năm
1945 với việc thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, xây dựng nền độc
lập tự chủ toàn vẹn cho tới những năm 1960 và năm 1972 ở miền Nam dưới
chính thể Việt Nam cộng hòa mới bị bãi bỏ. Nền luật pháp ấy như đánh giá
của GS.TS Phạm Duy Nghĩa chỉ như: 80 năm trôi qua như một cơn mưa bụi,
nền dân luật thực dân tan rã, mà dường như chẳng để lại một di sản đáng kể
nào trong nền quan chế và tâm thức người dân nước ta bởi những bộ luật
dân sự và thương sự đó, những hệ thống Tòa án chủ yếu bảo vệ thương nhân
và lợi ích của nước Pháp, chứ không hề khuếch trương nền kỹ nghệ của xứ
thuộc địa. Do vậy chúng nhanh chóng bị thay thế bởi một hệ thống khoa học
pháp lý khác được du nhập từ Liên Xô, cùng với quá trình tiếp thu đồng bộ
cả nền tảng lý luận đến mô hình kinh tế, mô hình chính thể được đặt trên căn
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và chế độ công hữu to lớn cộng với một nền
kinh tế chỉ huy tập trung. Luật dân sự nói chung và luật hợp đồng nói riêng
được coi như là công cụ thực hiện các kế hoạch tổng thể của nhà nước đã
được sắp đặt sẵn. Cho đến năm 1986 thì bắt đầu chuyển đổi dần cùng với
quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Luật dân
sự với những chế định về hợp đồng, nghĩa vụ dần được nhìn nhận lại, chính
xác hơn và phát triển theo đúng các quy luật của nền kinh tế thị trường và
một loạt các văn bản điều chỉnh quan hệ hợp đồng kinh tế và quan hệ hợp
đồng đã được ban hành trong đó quan trọng nhất là Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế (1989); Pháp lệnh hợp đồng dân sự (1991). Đây chính là những bước đầu
tiên về mặt lập pháp khẳng định vai trò quan trọng của chế định hợp đồng
10
trong đời sống xã hội cũng như quyết tâm của đất nước trên con đường đổi
mới toàn diện.
Đến năm 1995 Bộ luật dân sự lần đầu tiên được Quốc hội khóa IX, kì
họp thứ 8 thông qua ngày 28/10/1995 có hiệu lực thi hành ngày 01/7/1996 về
cơ bản chúng ta đã có chế định về hợp đồng theo đúng như tên gọi của nó.
Tuy nhiên trong quá trình thực thi cũng đã bộc lộ những hạn chế và chỉ đến
khi Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời đã khẳng định rõ hơn đây là bộ luật chung
điều chỉnh các quan hệ nhân thân và tài sản giữa các chủ thể bình đẳng về địa
vị pháp lý và chế định hợp đồng trong bộ luật dân sự mới thực sự có chỗ đứng
thỏa đáng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Bộ luật dân sự năm 2005 được
Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực ngày 01/01/2006 đặt ra một
dấu ấn trong lịch sử trên con đường pháp điển hóa pháp luật về hợp đồng.
Thật khó có thể biết chính xác thuật ngữ "hợp đồng" xuất hiện khi nào.
Chỉ biết rằng thuật ngữ "hợp đồng" (contractus) phát sinh từ động từ
"contrachere" trong tiếng Latinh có nghĩa là "ràng buộc" và xuất hiện đầu tiên
ở La Mã vào thế kỷ V- IV trước Công nguyên. Sau khi đế quốc La Mã tan rã
(vào khoảng thế kỷ V- VI sau Công nguyên) các nước Châu Âu chấp nhận
dùng thuật ngữ " hợp đồng" khởi nguồn từ luật La Mã.
Ở Việt Nam, thuật ngữ "khế ước" chỉ mới xuất hiện khi các bộ dân
luật Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ lần lượt được ban hành. Khái niệm hợp đồng
cũng có một quá trình phát triển theo thời gian. Bắt đầu từ khái niệm khế ước
được quy định tại Điều 644 đoạn 2 Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931: "khế ước là
hợp ước của một hay nhiều người cam đoan với một hay nhiều người khác để
chuyển hữu, tác động hay bất tác động" [2]. Như vậy, Bộ dân luật Bắc Kỳ
nhìn nhận hợp đồng là một hợp ước giữa cá nhân với cá nhân hoặc giữa một
nhóm người với nhau nhằm mục đích chuyển giao quyền sở hữu, thực hiện
một công việc hay không thực hiện một công việc nào đó. Cho đến khái niệm
pháp lý tổng quát về khế ước quy định ở Điều 680 Bộ dân luật Trung Kỳ
11
(1936): khế ước là hiệp ước của một người hay nhiều người cam đoan với
một hay nhiều người khác để chuyển giao, để làm hay không làm cái gì thì khái
niệm về hợp đồng cũng chỉ là sự thay thế về ngôn từ sử dụng sao cho mang
tính chất thuần Việt hơn. Tiếp đến là khái niệm trong Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế 1989: hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao
dịch giữa các bên kinh tế về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng
hóa, dịch vụ, nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và các thỏa thuận
khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ
của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch; thì khái niệm hợp đồng được
xem xét dưới góc độ là hợp đồng kinh tế. Theo đó, hợp đồng là sự thỏa thuận
nhưng phải được thể hiện dưới hình thức nhất định bằng văn bản hay tài liệu,
giao dịch. Nội dung thỏa thuận của hợp đồng về các lĩnh vực đã được liệt kê
một cách cụ thể trong điều luật và mục đích của hợp đồng là mục đích kinh
doanh. Sau đó là sự thay đổi bằng khái niệm tại Điều 1 Pháp lệnh hợp đồng
dân sự 1991: Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập,
thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên trong mua, bán, thuê, vay
mượn, tặng cho tài sản, làm hay không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa
thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt,
tiêu dùng. Đây là khái niệm về hợp đồng rộng hơn so với khái niệm về hợp
đồng kinh tế được quy định trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989. Hợp
đồng dân sự theo đó được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên và từ sự thỏa
thuận đó sẽ làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên
trong hợp đồng mua bán, hợp đồng vay mượn tài sản, hợp đồng tặng cho, hợp
đồng thuê tài sản, …đã được điều luật liệt kê. Mục đích của hợp đồng nhằm đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng. Tiếp đến khái niệm một lần nữa được khẳng
định lại tại Điều 394 Bộ luật dân sự 1995 và Điều 388 Bộ luật dân sự 2005:
"hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự" [23]. Khái niệm hợp đồng được đưa ra một cách
khái quát hơn theo đó hợp đồng chính là sự thỏa thuận giữa các bên, từ sự thỏa
12
thuận ấy làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự và đối
tượng của hợp đồng là việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự. Để hiểu rõ
hơn về khái niệm hợp đồng, cần thiết phải xem xét các đặc điểm của hợp đồng.
1.1.1. Hợp đồng là hành vi pháp lý song phương
Điều 121 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: "Giao dịch dân sự là hợp
đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự" [23]. Hợp đồng là một loại giao dịch dân sự phổ biến
trong đời sống hàng ngày. Theo Điều 388 Bộ luật dân sự năm 2005 cũng quy
định: " hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự" [23]. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các
bên - như vậy, hợp đồng là hành vi pháp lý song phương. Hành vi pháp lý này
đòi hỏi sự thể hiện và thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên làm phát sinh,
thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Hợp đồng cũng khác so với hành vi pháp lý đơn phương - giao dịch
trong đó thể hiện ý chí của một bên làm phát sinh hệ quả pháp lý. Hành vi
pháp lý đơn phương chỉ được xác lập theo ý chí của một chủ thể như hành vi
lập di chúc, hành vi từ chối hưởng di sản thừa kế… Tính chất của hợp đồng là
sự thống nhất ý chí giữa hai hay nhiều người. Mục đích của hợp đồng chính là
việc mỗi bên theo đuổi những lợi ích riêng của mình và hợp đồng là kết quả
của sự dung hòa các lợi ích đối lập nhau.
Thông thường hợp đồng có hai bên tham gia trong đó thể hiện sự
thống nhất ý chí của các chủ thể trong một quan hệ cụ thể (mua, bán, cho
thuê…), nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại hợp đồng có nhiều bên tham gia và
mỗi bên trong hợp đồng có thể có một hoặc nhiều chủ thể tham gia. Trong
hợp đồng ý chí của mỗi bên đòi hỏi phải có sự thống nhất ý chí để hình thành
nên hợp đồng. Hành vi pháp lý là hành vi có mục đích của các chủ thể nhằm
phát sinh hệ quả pháp lý. Đó là phương tiện để thực hiện ý chí của các chủ thể
13
tạo ra các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ pháp luật dân sự nói riêng.
Hành vi pháp lý chính là những sự kiện xuất hiện theo ý chí của con người và
sự hiện diện của chúng đưa đến những hệ quả pháp lý nhất định mà pháp luật
đã quy định.
Nhưng để một hành vi pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt một
quan hệ pháp luật dân sự thì hành vi đó phải là hành vi mà chủ thể thực hiện
phải phản ánh đúng ý chí của chủ thể đó. Sự phản ánh đúng ý chí của chủ thể
được biểu hiện trên hai mặt khách quan và chủ quan. Mặt chủ quan của sự thể
hiện ý chí biểu hiện khả năng của chủ thể tự xác định cho mình mục đích
hành động và định hướng cho hành động đạt được mục đích đã xác định trước.
Để được như vậy ý chí đó phải có tính độc lập, phản ánh thái độ tự nguyện, tự
giác của chủ thể và ý chí đó được biểu hiện ra bên ngoài dưới một hình thức
nhất định. Mặt khách quan của sự thể hiện ý chí đó là ý chí đó phải được thể
hiện ra bên ngoài cho mọi người biết dưới một hành vi nhất định. Chủ thể
tham gia vào hợp đồng phải có sự thống nhất ý chí và thể hiện ý chí đó ra bên
ngoài. Hợp đồng được tạo lập là do sự hợp tác của hai hay nhiều bên, giữa các
bên đã có sự thỏa thuận, sự thỏa thuận này đủ để tạo lập nên hợp đồng.
Nguyên tắc thỏa thuận ý chí là một tiến bộ quan trọng trong kỹ thuật pháp lý
hiện đại vì nguyên tắc ấy đã nới rộng phạm vi của hợp đồng. Sự thỏa thuận đó
không cần phải theo một công thức nào cả do đó người ta có thể lập hợp đồng
bằng cách trao đổi thư tay, thư điện tử hay qua điện thoại. Ý chí của các chủ
thể sẽ không làm phát sinh bất cứ một hệ quả pháp lý nào nếu nó không được
biểu hiện ra bên ngoài cho mọi người biết dưới một hình thức nhất định.
Nguyên tắc này được mặc nhiên công nhận tại Điều 401 Bộ luật dân
sự năm 2005 theo đó hợp đồng có thể được giao kết bằng lời nói, văn bản
hoặc bằng hành vi cụ thể khi đó làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt một
quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng. Nhưng sự thỏa thuận ý
chí về cùng một đối tượng chưa đủ tạo lập nên hợp đồng mà hành vi thể hiện
14
ý chí đó phải đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Hợp đồng là
một loại giao dịch dân sự nên hợp đồng cũng chỉ có giá trị pháp lý khi thỏa
mãn các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo Điều 122 Bộ luật
dân sự năm 2005:
- Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
- Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
- Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện;
- Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch
trong trường hợp pháp luật có quy định.
Các điều kiện này sẽ đảm bảo cho các giao dịch được xác lập hợp
pháp, được đảm bảo thực hiện bằng pháp luật, là công cụ quan trọng thỏa mãn
nhu cầu trao đổi, giao lưu dân sự của các chủ thể.
1.1.2. Hợp đồng là nguồn chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ
Các quốc gia trên thế giới có những quy định khác nhau về hợp đồng
như Điều 1101 Bộ luật dân sự Pháp 1804 quy định: "Hợp đồng là sự thỏa thuận
giữa hai hay nhiều bên về việc giao vật, làm hay không làm một việc" [17].
Hợp đồng là sự thỏa thuận mà sự thỏa thuận này là về việc chuyển giao vật,
làm hay không làm một việc. Đó cũng chính là đối tượng của nghĩa vụ dân sự
được quy định ở Điều 282 Bộ luật dân sự năm 2005. Như vậy, theo Bộ luật
dân sự Pháp ta hiểu hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về các đối tượng
của nghĩa vụ dân sự. Hay như Điều 420 Bộ luật dân sự Nga 1994 quy định:
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi,
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự, thì khái niệm về hợp đồng được đưa ra
hoàn toàn giống Bộ luật dân sự của Việt Nam. Còn Điều 1-201 Bộ luật
thương mại chuẩn thống nhất Hoa Kỳ thì hợp đồng lại được định nghĩa là
15
- Xem thêm -