ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THỊ HUYỀN THƢƠNG
KẾT HỢP YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG
VÀ HIỆN ĐẠI TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA
VÙNG VEN ĐÔ NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THỊ HUYỀN THƢƠNG
KẾT HỢP YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG
VÀ HIỆN ĐẠI TRONG XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA
VÙNG VEN ĐÔ NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số:
60 22 85
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐỖ THỊ THẠCH
HÀ NỘI - 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Đỗ
Thị Thạch.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều
trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2012.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Huyền Thương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chƣơng 1. QUAN NIỆM CHUNG VỀ GIA ĐÌNH, MỐI QUAN HỆ GIỮA YẾU
TỐ TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG XÂY DỰNG GIA
ĐÌNH VĂN HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................ 12
1.1. Quan niệm chung về gia đình ....................................................................... 12
1.1.1. Khái niệm gia đình ............................................................................ 12
1.1.2. Gia đình Việt Nam truyền thống ........................................................ 16
1.1.3. Gia đình Việt Nam hiện đại ............................................................... 29
1.1.4. Gia đình văn hóa Việt Nam................................................................... 37
1.2. Mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong xây dựng gia đình văn
hóa ở nước ta hiện nay....................................................................... 41
1.2.1. Khái niệm truyền thống và hiện đại ................................................... 41
1.2.2. Kết hợp yếu tố truyền thống và hiện đại trong xây dựng gia đình
văn hóa ở nước ta hiện nay - Tính tất yếu và những nội dung chủ
yếu .................................................................................................... 46
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ
TRÌNH KẾT HỢP TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG XÂY
DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA VÙNG VEN ĐÔ NGOẠI THÀNH HÀ
NỘI HIỆN NAY ................................................................................. 57
2.1. Khái quát về tình hình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng gia đình
văn hóa vùng ven đô ngoại thành Hà Nội .......................................... 57
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng ven đô ngoại thành Hà Nội .... 57
2.1.2. Tình hình xây dựng gia đình văn hóa vùng ven đô ngoại thành Hà
Nội .................................................................................................... 64
2.2. Những biểu hiện tích cực, hạn chế và những vấn đề đặt ra trong quá trình
kết hợp truyền thống với hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa
vùng ngoại đô Hà Nội hiện nay ......................................................... 68
2.2.1. Những biểu hiện tích cực và hạn chế trong việc kết hợp truyền
thống với hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa vùng ven đô
ngoại thành Hà Nội hiện nay ............................................................. 68
2.2.2. Những vấn đề đặt ra trong việc kết hợp truyền thống và hiện đại
trong xây dựng gia đình văn hóa vùng ven đô ngoại thành Hà Nội
hiện nay ............................................................................................. 93
Chƣơng 3. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU KẾT
HỢP TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG XÂY DỰNG GIA
ĐÌNH VĂN HÓA VÙNG VEN ĐÔ NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN
NAY ................................................................................................. 106
3.1. Một số quan điểm cơ bản............................................................................ 106
3.1.1. Kết hợp truyền thống với hiện đại trong xây dựng gia đình văn
hóa ven đô ngoại thành Hà Nội phải gắn liền với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của thành phố.................................................. 106
3.1.2. Kết hợp truyền thống với hiện đại trong xây dựng gia đình văn
hóa ven đô ngoại thành Hà Nội phải phù hợp với điều kiện văn
hóa - xã hội vùng ven đô ................................................................. 109
3.1.3. Kết hợp truyền thống với hiện đại trong xây dựng gia đình văn
hóa vùng ven đô ngoại thành Hà Nội là trách nhiê ̣m của hê ̣ thố ng
chính trị, của các gia đình và các cá nhân ở vùng ven đô ................. 111
3.2. Các giải pháp cơ bản .................................................................................. 113
3.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức v ề kết hợp truyền thống và
hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa vùng ven đô ngoại thành
Hà Nội............................................................................................. 113
3.2.2. Nhóm giải pháp phát triển kinh tế hộ gia đình ................................. 117
3.2.3. Nhóm giải pháp về phát triển văn hóa - xã hội vùng ven đô ngoại
thành Hà Nội ................................................................................... 123
3.2.4. Nhóm giải pháp về tăng cường vai trò lañ h đa ̣o và quản lý của các
cấ p ủy Đảng , chính quyền địa phương và đoàn thể trong vi ệc kết
hợp truyền thống và hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa ........ 127
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 132
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 135
BẢNG QUY ƢỚC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH
:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CTQG
:
Chính trị quốc gia
KHXH
:
Khoa học xã hội
TBCN
:
Tư bản chủ nghĩa
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ lâu, gia đình đã trở thành vấn đề của mọi dân tộc và mọi thời đại.
Đặc biệt trong vài năm trở lại đây, vấn đề gia đình nổi lên như một trong những
tiêu điểm được cả giới hàn lâm và giới chính trị quan tâm. Ở Châu Á và Đông
Nam Á nói riêng, người ta nói nhiều đến gia đình và văn hóa gia đình như một
giải pháp để ngăn trở sự xâm lấn của văn hóa phương Tây. Không chỉ có thế,
các quốc gia Châu Á, trong đó có Việt Nam, đang trải nghiệm một cuộc chuyển
mình vĩ đại: Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quy mô và tốc độ
ngày càng mạnh mẽ. Quá trình đó đang tác động sâu sắc đến thiết chế gia đình
- một thiết chế lâu đời và bền vững, song cũng hết sức nhạy cảm với mọi biến
cố xã hội.
Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng
đặc biệt trong giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách con người. Trải qua
nhiều thời kỳ phát triển, cấu trúc và quan hệ trong gia đình có nhiều thay đổi,
nhưng chức năng cơ bản của gia đình vẫn tồn tại, gia đình vẫn là một trong
những nhân tố quan trọng không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội
của quốc gia. Thực tế cho thấy, nhịp sống công nghiệp đòi hỏi từng cá nhân
phải nỗ lực tối đa trong lao động và học tập. Điều này có tác động mạnh mẽ tới
xã hội nói chung và lối sống của từng gia đình nói riêng. Sự tác động đó vừa có
mặt tích cực lại vừa có mặt tiêu cực. Nhịp sống hiện đại cũng kéo theo những
hiện tượng, xu hướng gia đình hạt nhân - gia đình hiện đại ngày càng tăng lên;
gia đình trực hệ - gia đình truyền thống “tam, tứ đại đồng đường” ngày càng
giảm. Xét về tính chất, gia đình truyền thống và gia đình hiện đại đều có những
giá trị và hạn chế nhất định. Vì vậy, trong xu hướng phát triển của mô hình gia
đình thời kỳ mới, cần có sự kết hợp hài hòa để phát huy được những giá trị tích
cực, đồng thời khắc phục được những nhược điểm của cả hai loại hình gia đình
này, nhằm xây dựng thành công gia đình văn hóa ở nước ta hiện nay.
1
Trong guồng máy của xã hội đang phát triển theo hướng đô thị hóa, các
làng quê ngoại thành Hà Nội nói chung, Ba Vì, Đông Anh, Gia Lâm đã và đang
trong quá trình chuyển mình mạnh mẽ. Trong sự chuyển mình đó, người dân ven
đô hôm nay đang phải dung hòa những giá trị văn hoá truyền thống của mình với
những ảnh hưởng mạnh mẽ của lối sống hiện đại. Rất nhiều yếu tố văn hoá mới
được du nhập tạo nên diện mạo mới và ít nhiều làm biến đổi cuộc sống của
người dân nơi đây theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Ảnh hưởng của quá
trình CNH, HĐH và đô thị hóa nên phần lớn các địa phương ven đô là địa điểm
phát triển của các khu công nghiệp lớn, do vậy đất nông nghiệp được chuyển
sang mục đích sử dụng cho công nghiệp. Khi đất nông nghiệp không còn, người
dân phải đối mặt với tình trạng không có việc làm. Tình trạng thất nghiệp tại
chỗ, nhà ở khó khăn và tệ nạn xã hội gia tăng làm cho trật tự xã hội ven đô ngày
càng thêm phức tạp. Dân số tăng nhanh trong khi khả năng đáp ứng hệ thống cơ
sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội đô thị, mạng lưới giao thông chưa đủ khả năng phục
vụ nhu cầu, lãng phí việc sử dụng đất; hàng loạt vấn đề khác nảy sinh do chênh
lệch chất lượng sống giữa người dân ở nội thị và ngoại thị cũng xuất hiện, môi
trường sống ô nhiễm…
Tất cả những vấn đề trên ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của gia đình
ven đô ngoại thành Hà Nội nói chung, gia đình tại ba huyện Ba Vì, Đông Anh,
Gia Lâm nói riêng. Mặt tích cực là nó làm cho đời sống vật chất và tinh thần
của các gia đình được nâng lên, giúp các gia đình thực hiện tốt hơn chức năng
kinh tế, thỏa mãn được các nhu cầu cơ bản của con người trong cuộc sống;
Quyền bình đẳng, dân chủ, quyền con người được thực hiện... nhưng đi liền với
đó là sự phai nhạt, sự “xói mòn” các giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống
ngày càng mạnh mẽ. Lối sống thực dụng theo đuổi mục tiêu lợi nhuận bất chấp
mọi thủ đoạn, chủ nghĩa cá nhân vị kỷ của một số thành viên trong gia đình có
xu hướng gia tăng, ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển bền vững của gia đình
và xã hội. Để "hóa giải" những mâu thuẫn trên, theo các chuyên gia xã hội học,
cần phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn cả yếu tố hiện đại lẫn truyền thống trong
xây dựng mô hình gia đình mới. Mô hình gia đình phù hợp với sự phát triển hiện
nay là gia đình có nếp sống văn hóa hay gia đình văn hóa. Gia đình văn hóa là
2
gia đình vừa hội tụ được những gia lễ tốt đẹp trong truyền thống, vừa có những
yếu tố hợp lý, tiến bộ của nền văn minh đương đại.
Xã hội muốn phát triển bền vững phải trên nền tảng gia đình bền vững,
trong đó gia đình ở ven đô ngoại thành Hà Nội nói chung, gia đình ở Ba Vì,
Đông Anh, Gia Lâm nói riêng là một trong những vùng cần được xây dựng bền
vững. Qua thực tiễn nghiên cứu, tác giả luận văn nhận thấy chưa có một công
trình nghiên cứu cụ thể nào về sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại trong
xây dựng gia đình văn hóa ở vùng ven đô ngoại thành Hà Nội. Vì vậy, tác giả
đã lựa chọn đề tài “Kết hợp yếu tố truyền thống và hiện đại trong xây dựng
gia đình văn hóa vùng ven đô Hà Nội hiện nay” làm hướng nghiên cứu của
mình, với mong muốn được góp phần vào việc nâng cao nhận thức của mọi
người trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị tốt đẹp của gia đình truyền
thống, kết hợp với những yếu tố tiến bộ của thời đại mới để làm cho gia đình
thực sự trở thành tế bào khỏe mạnh của xã hội, là chỗ dựa vững chắc cả về vật
chất và tinh thần của con người trong cuộc sống.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Trong những năm gần đây ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu về
hôn nhân và gia đình, về vấn đề gìn giữ và phát huy các yếu tố truyền thống kết
hợp với hiện đại. Tiêu biểu là một số công trình đã được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho đề tài như sau:
Các nghiên cứu về hôn nhân và gia đình:
Mai Huy Bích (2003), “Xã hội học gia đình”, Nxb KHXH, Hà Nội. Tiếp
cận gia đình dưới góc nhìn xã hội học, tác giả đã trình bày chủ đề riêng và tương
đối độc lập trong bảy chương, từ đó cuốn sách đã luận giải một số vấn đề lý luận
và thực tiễn quan trọng về gia đình. Tuy vậy, những nhận định về những vấn đề cơ
bản của gia đình Việt Nam mới chỉ dựa trên cách tiếp cận xã hội học về gia đình.
Lê Trọng Ân (2004), “Tìm hiểu tác phẩm: Nguồn gốc gia đình, của chế
độ tư hữu và của nhà nước”, Nxb CTQG, Hà Nội. Tác giả dựa trên những chỉ
dẫn về phân tích tác phẩm kinh điển Mác-Lênin, trình bày bối cảnh và quá trình
hình thành tác phẩm, phân tích nội dung cơ bản của tác phẩm và chỉ ra các giá trị
3
cơ bản của tác phẩm như là những chỉ dẫn lý luận cơ sở và cần thiết cho việc
nghiên cứu gia đình hiện đại, song tác giả chưa liên hệ ý nghĩa của tác phẩm
trong việc xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Đặng Cảnh Khanh , Lê Thi Quy
̣
́ (2007), “Gia đình họ c”, Nxb CTQG, Hà
Nô ̣i. Cuốn sách là một công trình công phu, hệ thống. Các tác giả đã đề cập đến
gia đình Việt Nam trước những thách thức của quá trình CNH, HĐH; đồng thời
phân tích mối quan hệ giới - gia đình và công cuộc phát triển; chỉ ra những sai
lệch giá trị gia đình hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của
gia đình trong CNH, HĐH đất nước.
Trịnh Duy Luân - Helle Rydstrom - Wil Burghoom (Đồng chủ biên),
(2001), “Gia đình nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, Nxb KHXH, Hà
Nội. Công trình nghiên cứu này là một trong những thành quả của Dự án nghiên
cứu Gia đình nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi. Các nhà nghiên cứu tham
gia dự án đã tiến hành nghiên cứu thực nghiệm có sử dụng nhiều phương pháp
định tính, định lượng khác nhau tại Yên Bái, Tiền Giang, Thừa Thiên Huế và Hà
Nam. Nghiên cứu thực nghiệm chuyên ngành này đã mang lại bộ dữ liệu định
tính và định lượng phong phú về các mặt cuộc sống của người dân nông thôn
trong thời kỳ đổi mới. Các giải pháp mà nhóm tác giả của công trình đề xuất là
cơ bản và phản ánh được những yêu cầu cấp thiết đang đặt ra đối với xây dựng
gia đình nông thôn, đáp ứng yêu cầu quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH.
Lê Ngọc Văn (2011), “Gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam”, Nxb
KHXH, Hà Nội. Cuốn sách gồm ba phần đã khái quát hóa và hệ thống hóa
những vấn đề cơ bản của gia đình và biến đổi gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra năm nhóm giải pháp kiến nghị chủ yếu xây dựng
gia đình Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH.
Đỗ Thị Thạch (2011), “Về xây dựng gia đình văn hóa Viê ̣t Nam dưới ánh
sáng Đại hội XI của Đản g”, Tạp chí Cộng sản số 56 (8 - 2011). Trên cơ sở tiếp
cận các văn kiện Đại hội Đảng trong thời kỳ đổi mới, tác giả đã phân tích những
điểm mới trong văn kiện Đại hội XI về vấn đề gia đình và xây dựng gia đình văn
hóa.
4
Nguyễn Linh Khiếu (2001), “Gia đình và phụ nữ trong biến đổi văn hóa
xã hội ở nông thôn”, Nxb KHXH, Hà Nội. Trên cơ sở khẳng định vị trí, vai trò
to lớn của gia đình đối với sự phát triển cá nhân và xã hội cũng như vai trò của
phụ nữ nông thôn trong thời kỳ CNH, HĐH, tác giả công trình đã tập trung phân
tích đặc điểm cơ bản của gia đình Việt Nam, những yếu tố tác động đến gia đình
và vai trò người phụ nữ trong gia đình trong quá trình đô thị hóa; dự báo xu
hướng biến đổi gia đình trong mối quan hệ với biến đổi văn hóa xã hội ở nông
thôn Việt Nam. Đề tài nghiên cứu sẽ sâu sắc hơn nếu tác giả chỉ ra những thách
thức đang đặt ra đối với phụ nữ nông thôn, trên cơ sở đó làm rõ yêu cầu cấp thiết
đối với xây dựng gia đình mới và phát huy vai trò người phụ nữ nông thôn Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàng Bá Thịnh (2002), “Vai trò phụ nữ nông thôn trong công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông thôn”, Nxb CTQG, Hà Nội. Tác giả khẳng định phụ nữ
nông thôn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp, nông
thôn trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đất nước. Là một lực lượng chủ
yếu trong nông nghiệp và chiếm đông đảo trong nguồn nhân lực của đất nước,
nhưng phụ nữ nông thôn đang gặp rất nhiều khó khăn, thách thức so với nam
giới nông thôn và phụ nữ đô thị. Từ thực trạng vai trò của phụ nữ nông thôn, xu
hướng vận động biến đổi của nó và những vấn đề đặt ra hiện nay, tác giả đề xuất
những giải pháp thiết thực về chính sách việc làm, tăng thu nhập; hỗ trợ các dịch
vụ gia đình tạo cơ hội cho phụ nữ thực hiện tốt vai trò trong gia đình...
Chu Thị Thoa - Luận án tiến sĩ triết học (2002), “Bình đẳng giới trong gia
đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay”. Trên cơ sở phân tích những
điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến bình đẳng giới trong gia đình
nông thôn đồng bằng sông Hồng, tác giả đã chỉ ra thực trạng những thành tựu và
hạn chế của việc thực hiện bình đẳng giới trong gia đình, qua đó làm sáng rõ vai
trò của phụ nữ và nam giới trong gia đình được thể hiện trên một số lĩnh vực,
đồng thời đề xuất phương hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm từng
bước xóa bỏ bất bình đẳng giới trong gia đình nông thôn đồng bằng sông Hồng
hiện nay.
5
Dương Thị Minh
(2004),“Gia đình Việt Nam và vai trò của người
phụ nữ trong giai đoạn hiện nay”, Nxb CTQG, Hà Nội. Công trình khoa học đã
chỉ rõ các nhân tố khoa học cơ bản tác động đến gia đình, vai trò của người phụ
nữ trong gia đình và những xu hướng biến đổi vai trò của người phụ nữ trong
giai đoạn hiện nay. Từ đó cuốn sách đã đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm
phát huy vai trò của người phụ nữ trong xây dựng gia đình văn hóa ở nước ta
trong thời kỳ đổi mới.
Lê Thi ̣Quý (2010), “Quản lý nhà nước về gia đình, lý luận và thực tiễn”,
Nhà xuất bản Dân Trí . Tác giả đã tập hợp những bài viết c ủa một số nhà nghiên
cứu và của chính tác giả viết về lĩnh vực quản lý nhà nước về gia đình in thành
sách. Đây là tài liê ̣u bổ ích cung cấ p những kiế n thức cơ bả
n của lý luâ ̣n nhà
nước về gia đin
̀ h, là tài liệu thực địa ở một số địa phương để phục vụ cho nghiên
cứu gia đin
̀ h trong giai đoa ̣n hiê ̣n nay.
Đỗ Thị Thạch (2010), “Tác động của toàn cầu hóa đối với việc thực hiện
bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay”. Đề tài khoa ho ̣c cấ p cơ sở đã đi sâu phân
tích những tác động của toàn cầu hóa đối với bình đẳng giới trong gia đình trên
một số lĩnh vực cơ bản c ủa đời sống xã hội. Từ đó, đưa ra những giải pháp chủ
yếu để phát huy sự tác động tích cực, hạn chế sự tác động tiêu cực nhằm thực
hiện bình đẳng giới ở Viê ̣t Nam hiện nay.
Các nghiên cứu về giá trị truyền thống và hiện đại:
VI Kairan (1977), “Tính kế thừa trong sự phát triển văn hóa trong điều
kiện của chủ nghĩa xã hội”, Matxcơva. Công trình đã đề cập tới tầm quan trọng
của việc kế thừa các giá trị truyền thống trong trong việc phát triển các giá trị
văn hóa nói chung, trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội nói riêng. Đồng thời
đưa ra một số giải pháp để giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống.
Trần Văn Giàu (1980), “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Trong công trình này, tác giả chủ yếu đề
cập tới các giá trị tinh thần truyền thống của người Việt Nam chúng ta, trong đó
có văn hóa gia đình.
6
Khuất Thu Hồng (chủ biên), (1996), “Gia đình truyền thống”, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội. Cuốn sách cung cấp cho chúng ta một cách nhìn nhận khoa
học về hôn nhân, gia đình truyền thống của người Việt thông qua phỏng vấn sâu
các cụ ông, các cụ bà ở thành thị và nông thôn (Hà Nội, Hà Tây cũ), với mong
muốn gìn giữ và phát huy những nét đẹp của gia đình truyền thống, cũng như
thấy được những gì là không thích hợp của nó với một đời sống công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (đồng chủ biên) (1998), “Các giá trị truyền
thống và con người Việt Nam hiện nay”, Nxb KHXH. Công trình nghiên cứu
quá trình hình thành, phát triển và biến đổi các giá trị truyền thống Việt Nam.
Trong đó, giá trị gia đình được cuốn sách bàn đến như là một giá trị của dân tộc
cần được phát huy.
Nguyễn Văn Huyên (1998),“ Giá trị truyền thống - Nhân lõi và sức sống
bên trong của sự phát triển đất nước, của dân tộc”, Tạp chí Triết học. Công trình
này đề cao tới sức mạnh của yếu tố truyền thống đối với sự tồn tại và phát triển
của một quốc gia, đặc biệt đối với Việt Nam chúng ta, việc giữ gìn yếu tố truyền
thống trong tiến trình hội nhập là vô cùng quan trọng.
Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn văn Huyên (đồng chủ biên), (2001), “Giá
trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa”, Nxb CTQG. Công
trình đã bàn về những thách thức cũng như cơ hội do toàn cầu hóa mang đến đối
với việc bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Phạm Xuân Nam (2001), “Gia đình Việt Nam - các giá trị truyền thống”,
Nxb KHXH, Hà Nội. Tác giả khẳng định: Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt
Nam đã được hình thành và phát triển với những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp
phần xây dựng bản sắc văn hóa dân tộc. Những giá trị truyền thống quý báu đã
được gia đình Việt Nam gìn giữ, vun đắp và phát huy trong suốt tiến trình lịch sử
dựng nước và giữ nước. Những dự báo của tác giả về xu hướng vận động, biến
đổi của các giá trị truyền thống trước sự tác động của kinh tế thị trường và quá
trình hội nhập quốc tế là những căn cứ có cơ sở khoa học, nhưng làm thế nào để
7
giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống trong xây dựng gia đình hiện đại
thì chưa được tác giả đề cập.
Đặng Phương Kiệt (chủ biên, 2007), “Gia đình Việt Nam những giá trị
truyền thống và các vấn đề tâm - bệnh lý xã hội”. Cuốn sách tập hợp nhiều bài
viết đánh giá xác thực về các truyền thống quý giá của gia đình Việt Nam, được
các nhà nghiên cứu có uy tín tiếp cận dưới nhiều góc độ lịch sử, văn hóa, giáo
dục, tâm lý, mỹ học...
Đoàn Văn Khái - Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp bộ
(2010), “Kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay”. Đề tài cung cấp một cái nhìn tổng quan về toàn cầu hóa,
về sự biến đổi các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam (trong đó có truyền
thống gia đình) trước tác động của toàn cầu hóa. Trên cơ sở đó, đề tài đưa ra
những giải pháp cơ bản để kế thừa và phát huy truyền thống tiêu biểu của dân
tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Ngoài ra trên các tạp chí, các báo trong những năm vừa qua cũng đã có
nhiều bài viết liên quan đến vấn đề gia đình văn hóa, về truyền thống và hiện đại
trong xây dựng gia đình văn hóa ngày nay như: “Gia đình Việt Nam hiện nay:
truyền thống hay hiện đại?” của TS. Nguyễn Thị Thường, Tạp chí Lý luận chính
trị số 253/1999; “Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc xây dựng gia đình mới
ở Việt Nam hiện nay” của Minh Anh, Tạp chí Triết học; “Văn hóa gia đình và
xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ hội nhập” của ThS. Trần Thị Tuyết
Mai, Tạp chí Cộng sản 09/2008; “Gia đình là tế bào của xã hội” của Quỳnh
Nga, Tạp chí Tuyên giáo 05/2009; “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công
tác xây dựng gia đình văn hóa” của Phan Văn Phờ - Trưởng ban Tuyên giáo
Tỉnh Quảng Nam, Tạp chí Tuyên giáo 05/2009; "Bình đẳng giới và sự tiến bộ của
phụ nữ Việt Nam hiện nay" của PGS,TS. Đỗ Thị Thạch, Tạp chí Lý luận chính trị
2003...
Các công trình nghiên cứu trên đây đã luận giải và làm sáng tỏ ở mức độ
nhất định về những vấn đề cơ bản của gia đình Việt Nam trong quá trình chuyển
đổi dưới sự tác động của quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Những
8
công trình nghiên cứu này cũng là những tài liệu quý cả về cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn để luận văn tham khảo trong quá trình triển khai mục tiêu và nhiệm vụ
của mình; phần nào gợi mở ra tính cấp thiết của việc kết hợp truyền thống và
hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa vùng ven đô. Từ thực tiễn nghiên cứu
đề tài, tác giả luận văn nhận thấy việc kết hợp yếu tố truyền thống với hiện đại
trong xây dựng gia đình văn hóa vùng ven đô ngoại thành Hà Nội là một vấn đề
còn mới mẻ, chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể nào. Do đó, tác giả nhận
thấy việc làm rõ thực trạng và tìm ra giải pháp để kết hợp hiệu quả truyền thống
và hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa nơi đây là việc làm cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại
trong xây dựng gia đình văn hóa; luận văn phân tích, làm rõ thực trạng và những
vấn đề đặt ra trong quá trình kết hợp yếu tố truyền thống và hiện đại trong xây
dựng gia đình văn hóa vùng ven đô ngoại thành Hà Nội hiện nay, từ đó đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng gia đình văn hóa Thủ đô ngày càng
tiến bộ.
* Nhiệm vụ:
+ Khái quát những vấn đề lý luận của việc kết hợp yếu tố truyền thống và
hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa Việt Nam.
+ Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong quá trình kết hợp yếu
tố truyền thống và hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa vùng ven đô ngoại
thành Hà Nội hiện nay.
+ Nêu những quan điểm cơ bản và đề xuất một số giải pháp chủ yếu kết
hợp truyền thống với hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa vùng ven đô
ngoại thành Hà Nội hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến
việc kết hợp yếu tố truyền thống và hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa
vùng ven đô ngoại thành Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
9
* Phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn tập trung nghiên cứu việc kết hợp truyền thống và hiện đại
trong xây dựng gia đình văn hóa ở ven đô Hà Nội, bao gồm một số huyện: Ba
Vì, Đông Anh, Gia Lâm. Ngoài Ba Vì là huyện mới bắt đầu CNH, HĐH, hai
huyện còn lại là những địa phương chịu tác động mạnh mẽ của quá trình CNH,
HĐH và đô thị hóa. Những biến đổi về điều kiện kinh tế - xã hội có ảnh hưởng
trực tiếp đến tổ chức đời sống gia đình nơi đây. Mô hình gia đình đang có xu
hướng chuyển từ truyền thống sang hiện đại với quy mô và tốc độ ngày càng
mạnh mẽ. Bên cạnh những mặt tích cực, có nhiều vấn đề của gia đình hiện đại
đang đặt ra cần phải giải quyết. Vì vậy tác giả luận văn lựa chọn ba huyện làm
hướng nghiên cứu, với mong muốn làm rõ thực trạng và đưa ra giải pháp để xây
dựng gia đình văn hóa ở ba địa bàn trên ngày càng bền vững.
- Thời gian nghiên cứu: Kết hợp truyền thống và hiện đại trong xây dựng
gia đình văn hóa vùng ven đô ngoại thành Hà Nội thời kỳ đổi mới và hội nhập
quốc tế. Quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế làm biến đổi sâu sắc điều kiện
kinh tế, văn hóa, xã hội; tác động trực tiếp tới sự biến đổi gia đình từ truyền
thống sang hiện đại.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu trên nền tảng sự thật lịch sử khách quan,
khoa học và trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và chính sách của nhà nước Việt Nam về gia đình, về kết
hợp truyền thống và hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa. Ngoài ra luận văn
còn sử dụng những tài liệu, những công trình có nghiên cứu về chủ đề gia đình
của các tác giả khác.
- Trong quá trình nghiên cứu, đề tài kết hợp giữa phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với một số phương
pháp cơ bản sau đây: kết hợp lôgíc với lịch sử; phân tích và tổng hợp; thống kê
và so sánh, điều tra xã hội học…
10
6. Đóng góp của luận văn
* Những đóng góp mới của luận văn:
- Luận văn góp phần làm rõ hơn quá trình nhận thức và thực tra ̣ng kết hợp
truyền thống và hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa vùng ven đô ngoại thành
Hà Nội.
- Luận văn đề xuất những giải pháp chủ yếu để kết hợp truyền thống và hiện
đại một cách hiệu quả trong xây dựng gia đình văn hóa vùng ngoại đô theo hướng
tiến bộ.
* Ý nghĩa của luận văn:
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề chính trị - xã hội có liên
quan đến gia đình trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đồng
thời cũng góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận sự kết hợp yếu tố truyền thống và
hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa vùng ven đô ngoại thành Hà Nội.
- Luận văn sẽ cung cấp nguồn tư liệu để các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức
xã hội, các gia đình ở vùng ngoại đô Hà Nội tham khảo, vận dụng vào xây dựng gia
đình văn hóa tại địa phương. Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng góp phần bổ
sung thêm vào hệ thống các tài liệu nhằm phục vụ việc nghiên cứu và giảng dạy đối
với các môn như: Triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Gia đình học, Xã hội học
và Giới...
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 6 tiết:
Chƣơng 1: Quan niệm chung về gia đình, mối quan hệ giữa yếu tố truyền
thống và hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam.
Chƣơng 2: Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong quá trình kết hợp
truyền thống và hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa vùng ven đô Hà Nội
hiện nay.
Chƣơng 3: Một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu kết hợp yếu tố
truyền thống và hiện đại trong xây dựng gia đình văn hóa vùng ven đô Hà Nội
hiện nay.
11
Chƣơng 1
QUAN NIỆM CHUNG VỀ GIA ĐÌNH, MỐI QUAN HỆ
GIỮA YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG XÂY DỰNG
GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Quan niệm chung về gia đình
1.1.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là cái gốc của con người, nơi con người được sinh ra, được bắt
đầu một cuộc đời, được bắt đầu sự nhận biết. Trong suốt cuộc đời cho đến khi
kết thúc, gia đình luôn luôn là điểm tựa, là cội nguồn của tình cảm, là cái nôi của
sự yên tĩnh trong yên bình, trong ấm êm của mỗi cá nhân. Sự bình yên là yếu tố
vô cùng cần thiết cho cuộc sống của con người và cho xã hội. Gia đình là nơi
đảm bảo những điều kiện an toàn cho trẻ thơ phát triển, người già có nơi nương
tựa, không bị hiu quạnh cô đơn, người lao động được phục hồi sức khỏe, lấy lại
sự cân bằng tâm lý sau giờ lao động mệt mỏi... Chính ở gia đình, con người đã
được biết đến một điều vô cùng thiêng liêng trong mối quan hệ giữa người với
người, đó là sự quên mình vì người khác.
Khi đề cập tới phạm trù gia đình, có rất nhiều cá nhân và nhiều ngành
khoa học đã nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Trong đó có một số định
nghĩa đáng chú ý:
Các Mác cho rằng: "... Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình,
con người còn tạo ra những người khác sinh sôi, nảy nở. Đó là quan hệ giữa
chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình..." [25, tr.41].
Như vậy, bàn về gia đình, Các Mác đã khẳng định tầm quan trọng đặc biệt
của nó trong duy trì nòi giống và nhấn mạnh mối quan hệ tình cảm ruột thịt trong
gia đình, mối quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống.
Dưới góc độ ngôn ngữ, khi bàn về vấn đề gia đình theo phương pháp chiết
tự từ, nhà khoa học Hoàng Tiến đã chỉ ra:
Chiết tự chữ "Gia" theo nghĩa Hán gồm bộ Miên, mang ý nghĩa mái lợp
trùm nhà ngoài nối nhà trong, dưới có chữ "Thể", nghĩa là con lợn; chữ "Gia"
12
mang ngữ nghĩa nhà ở, chắc chắn phải xuất hiện từ thời loài người đã biết chăn
nuôi.
Chiết tự chữ "Đinh" bao gồm bộ "Nghiễm", tức mái nhà (đọc là yêm),
dưới là "Đình" với ý nghĩa chỗ phát chinh lệnh cho cả nước (theo như triều đình)
[38, tr.55].
Như vậy, nghĩa xa xưa của gia đình hẳn là một đơn vị kinh tế nhỏ, chung
sống dưới một mái nhà trong cộng đồng xã hội. Định nghĩa này đã khái quát
được một số đặc trưng của gia đình (chung sống cùng mái nhà, là đơn vị kinh
tế), nhưng chưa khái quát được cơ sở hình thành gia đình cùng một số chức năng
quan trọng khác của gia đình.
Theo từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên đã định nghĩa: “Gia đình là một
đơn vị xã hội, thành lập trên cơ sở dòng máu, bắt nguồn từ thời đại thị tộc mẫu
hệ, trong thời đại phong kiến thường có cha mẹ, con cháu, có khi chắt nữa, trong
thời đại TBCN thường chỉ có vợ chồng và con cái” [45, tr.113].
Định nghĩa này khái quát được một số nét bản chất của gia đình về cơ sở
hình thành, duy trì, biến đổi của gia đình trong lịch sử và khẳng định gia đình là
đơn vị xã hội nhưng chưa nêu ra được vai trò của gia đình với xã hội qua các
chức năng của nó. Có thể nói, dưới góc độ ngôn ngữ, định nghĩa gia đình chưa
thật đầy đủ, cần phải có định nghĩa mới về gia đình nhằm đáp ứng yêu cầu thực
tiễn đòi hỏi.
Dưới góc độ xã hội học, George Murdock định nghĩa gia đình là "một
nhóm xã hội được xác định bởi một nơi trú ngụ chung, sự cộng tác và tái sản
xuất về kinh tế, bao gồm những người trưởng thành của cả hai giới, trong đó có
ít nhất là hai người duy trì mối quan hệ tính dục được xã hội công nhận, và một
hoặc nhiều đứa trẻ, là con đẻ hay con nuôi, của những người trưởng thành có
quan hệ như vợ chồng với nhau" [17, tr.35-36].
Định nghĩa của Murdock làm nảy ra một số vấn đề. Trước hết, Murdock
đã bỏ qua mặt quyền lực. Trong thực tế, các gia đình là các nhóm nhỏ mà các
thành viên của chúng có sự khác biệt quan trọng về quy mô, sức khỏe và các
tiềm năng (kinh tế và các thứ khác). Chính sự không cân bằng này đã tạo ra chế
13
độ gia trưởng - sự kiểm soát gia đình bởi một người đàn ông thống trị (điển hình
là người cha) - một sự thật mang tính lịch sử của đời sống gia đình trong phần
lớn các xã hội đã được biết đến.
Nhìn từ góc độ tâm lý học, Bacbara Schoen Johnson - chuyên gia tư vấn
tâm lý, Lippincott (Hoa Kỳ) - 1997, cho rằng: Gia đình là đơn vị cơ bản của xã
hội gồm hai hoặc nhiều cá nhân cùng hướng tới chia sẻ chung những niềm tin và
những giá trị. Yếu tố làm cầu nối của một gia đình là sự thỏa hiệp. Những thành
viên trong gia đình có thể quan hệ với nhau bằng kết hôn, bằng huyết thống,
nhận làm con nuôi, sự đồng thuận hoặc nhu cầu thiết yếu về kinh tế [22, tr.515].
Theo bà, gia đình lý tưởng tương tác theo các cách cho phép đạt tới những mục
tiêu chung, như duy trì sự sinh hoạt gia đình, xã hội hóa, duy trì tình bè bạn, nuôi
nấng con cái và chăm nom những thành viên khi ốm đau, hoạn nạn. Gia đình cố
gắng đáp ứng những nhu cầu cho các thành viên của mình, như các nhu cầu sinh
lý, nhu cầu được an toàn, nhu cầu yêu thương, nhu cầu tự trọng và nhu cầu thể
hiện mọi tiềm năng bản thân.
Cũng dưới góc độ tâm lý học, tác giả Ngô Công Hoán cho rằng: "Gia đình
là một nhóm nhỏ xã hội có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm
sinh lý, có chung các giá trị vật chất, tinh thần ổn định trong các thời điểm lịch
sử nhất định" [58, tr.36].
Định nghĩa trên chỉ ra gia đình là cộng đồng xã hội đặc biệt gắn bó giữa
các cá nhân bởi quan hệ hôn nhân và huyết thống, cộng đồng tương hỗ về đạo
đức và vật chất. Tuy nhiên trong định nghĩa này, chúng ta thấy vai trò và quan hệ
tác động của gia đình - xã hội chưa được khái quát.
Từ góc độ triết học, Giáo sư Lê Thi quan niệm:
Khái niệm gia đình được dùng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ
sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, nảy sinh quan hệ hôn nhân đó và
cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng, nội ngoại). Đồng thời gia đình
cũng có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan
hệ huyết thống. Các thành viên gia đình gắn bó nhau về trách nhiệm và quyền lợi
(kinh tế, văn hóa, tình cảm), giữa họ hàng có những điều ràng buộc có tính pháp
14
- Xem thêm -