ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------
PHẠM THỊ THU TRANG
KHẢO SÁT ĐỊA DANH
QUẬN BA ĐÌNH - HÀ NỘI
CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC
MÃ SỐ: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN XUÂN HÒA
HÀ NỘI - 2008
Lời cảm ơn
Luận văn này hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình nhưng
nghiêm khắc của PGS.TS Nguyễn Xuân Hòa. Em xin được gửi đến
Thầy sự tri ân sâu sắc.
Luận văn này đánh dấu sự hoàn thành của một quá trình học tập,
vì vậy em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người Thầy, người
Cô đã giảng dạy các chuyên đề cao học cho lớp Ngôn ngữ khoá 2005 2008.
Trong suốt quá trình làm luận văn em luôn nhận được sự động
viên về tinh thần và vật chất từ gia đình, sự giúp đỡ về tư liệu từ bạn
bè, đồng nghiệp, sự tạo điều kiện của cơ quan công tác, vì vậy cũng xin
gửi đến mọi người lời cảm ơn chân thành nhất.
Tác giả Luận văn
Phạm Thị Thu Trang
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các vấn đề trình
bày trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Hà Nội, ngày 28 tháng 11 năm 2008
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thu Trang
3
MỤC LỤC
Mục lục .................................................................................................................. 4
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt ...................................................................... 7
Danh mục các mô hình, biểu bảng ........................................................................... 8
MỞ ĐẦU............................................................................................................................. 9
0.1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài .............................................................................. 9
0.2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................ 11
0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 11
0.4. Tư liệu và cách xử lý tư liệu .............................. 12
0.5. Phương pháp nghiên cứu ............................... 14
0.6. Bố cục luận văn ..................................... 15
Chƣơng 1. MỘT SỐ GIỚI THUYẾT CẦN THIẾT ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH ............... 16
1.1. Khái quát về lịch sử nghiên cứu địa danh .................... 16
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu địa danh trên thế giới .................... 16
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu địa danh trong nước ..................... 17
1.2. Hướng tiếp cận và phát triển khi nghiên cứu địa danh nội thành Hà Nội
................................................. .19
1.3. Giới thuyết về địa danh ................................ 20
1.3.1. Phân loại địa danh .................................. 22
1.3.2. Vị trí của địa danh trong ngôn ngữ học ...................... 26
1.3.3. Lợi ích của việc nghiên cứu địa danh ....................... 27
4
1.4. Tiểu kết chương Một ................................. 29
Chƣơng 2. VÀI NÉT VỀ ĐỊA BÀN KHẢO SÁT ĐỊA DANH QUẬN BA ĐÌNH - HÀ NỘI ...... 30
2.1. Vài nét về địa bàn quận Ba Đình .......................... 30
2.1.1. Vị trí quận Ba Đình đối với thành phố Hà Nội và cả nước .......... 30
2.1.2. Vài nét về địa bàn quận ............................... 31
2.2. Về địa danh quận Ba Đình .............................. 40
2.2.1. Kết quả thu thập.................................... 40
2.2.2. Kết quả phân loại địa danh ............................. 42
2.3. Tiểu kết chương Hai .................................. 53
Chƣơng 3. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO ĐỊA DANH BA ĐÌNH - HÀ NỘI..................................... 55
3.1. Mô hình cấu tạo địa danh .............................. 55
3.1.1. Vài nét khái quát ................................... 55
3.1.2. Mô hình cấu tạo địa danh ............................. 56
3.2. Thành tố chung ..................................... 57
3.2.1. Khái niệm về thành tố chung ............................ 57
3.2.2. Thành tố chung trong địa danh quận Ba Đình .................. 58
3.3. Địa danh ......................................... 64
3.3.1. Khái niệm về địa danh ................................ 64
3.3.2. Đặc điểm cấu tạo của địa danh Ba Đình - Hà Nội ............... 65
3.4. Tiểu kết chương Ba .................................. 83
Chƣơng 4. ĐỊA DANH BA ĐÌNH NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ - VĂN HÓA .................. 86
4.1. Một số vấn đề về ngôn ngữ và văn hoá liên quan đến địa danh ....... 86
4.1.1. Về quan niệm của W.Humboldt cho rằng ngôn ngữ và văn hóa gắn bó qua lại
thông qua nghĩa của những dấu hiệu ngôn ngữ ..................... 86
4.1.2. Về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa ................... 88
5
4.2. Đặc điểm ý nghĩa của địa danh Ba Đình ..................... 89
4.2.1. Ý nghĩa của địa danh và phương pháp xác định ................. 89
4.2.2. Phân loại ý nghĩa địa danh ............................. 91
4.3. Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá của địa danh Ba Đình ............ 106
4.3.1. Đặc trưng địa - văn hóa của địa danh Ba Đình ................ 106
4.3.2. Đặc trưng văn hóa của khu vực nội thành Hà Nội .............. 108
4.3.3. Đặc trưng văn hóa xem xét từ nguồn gốc ngôn ngữ của các yếu tố cấu tạo nên
địa danh ........................................... 110
4.4. Tiểu kết chương Bốn ................................ 112
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 114
Tài liệu tham khảo ......................................................................................................... 117
PHẦN PHỤ LỤC
6
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
1. Quy ƣớc về cách viết tắt địa danh 14 phƣờng
- CV: phường Cống Vị
- ĐB: phường Điện Biên
- ĐC: phường Đội Cấn
- GV: phường Giảng Võ
- NH: phường Ngọc Hà
- NK: phường Ngọc Khánh
- LG: phường Liễu Giai
- NTT: phường Nguyễn Trung Trực
- KM: phường Kim Mã
- PX: phường Phúc Xá
- QT: phường Quán Thánh
- TC: phường Thành Công
- TB: phường Trúc Bạch
- VP: phường Vĩnh Phúc
2. Quy ƣớc về cách viết tắt các loại hình địa danh
- ĐDTN: địa danh tự nhiên
- ĐDNT: địa danh nhân tạo
- ĐDĐVC: địa danh các đơn vị dân cư
- ĐDCTGT: địa danh các công trình giao thông
- ĐDCTXD: địa danh các công trình xây dựng
3. Quy ƣớc về cách dùng ký hiệu
- Tất cả những ký hiệu dùng để phiên âm đều được ghi theo ký hiệu phiên âm
quốc tế (Phonetic Symbol Guide, G.K Pullum and W.A Laduasaw, the University of
Chicago press, Chicago and London 1986, 226p).
- Một số ký hiệu khác:
+ “/”: ký hiệu tương đương
+ “>”: ký hiệu chuyển đổi
+ “~”: ký hiệu khoảng
7
DANH MỤC CÁC MÔ HÌNH BIỂU BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả thu thập địa danh Ba Đình - Hà Nội
Bảng 2.2. Số lượng và tỷ lệ thực tế địa danh tự nhiên
Bảng 2.3. Số lượng và tỷ lệ thực tế địa danh đơn vị dân cư
Bảng 2.4. Số lượng và tỷ lệ thực tế địa danh công trình giao thông
Bảng 2.5. Số lượng và tỷ lệ thực tế địa danh công trình xây dựng
Bảng 2.6. Kết quả phân loại địa danh theo tiêu chí tự nhiên - không tự nhiên
Bảng 3.1. Kết quả và phân loại thành tố chung theo loại hình
Bảng 3.2. Kết quả thống kê số lượng thành tố chungtheo loại hình và số lượng yếu tố
Bảng 3.3. Bảng phân loại hai xu hướng chuyển hóa thành tố chung vào địa danh
Bảng 3.4. Thống kê địa danh theo số lượng các yếu tố
Bảng 3.5. Thống kê địa danh theo số lượng các yếu tố và loại hình địa danh
Bảng 3.6. Thống kê địa danh theo kiểu cấu tạo và loại hình địa danh
Bảng 3.7. Thống kê các địa danh có cấu tạo theo phương thức tự tạo
Bảng 4.1. Bảng thống kê địa danh theo tiêu chí ý nghĩa
Mô hình 2.1. Sự phân bố các loại hình địa danh trong sự so sánh giữa Tỉ lệ 1 và Tỉ lệ 2
Mô hình 2.2. Phân loại địa danh theo tiêu chí nguồn gốc
Mô hình 3.1. Cấu trúc phức thể địa danh Ba Đình
8
MỞ ĐẦU
0.1.TÍNH CẤP THIẾT VÀ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trên thế giới, ở khắp mọi nơi quanh ta, mỗi sự vật, hiện tượng đều có tên gọi.
Điều kỳ lạ là tên gọi đó được xuất hiện ngay khi con người nhận diện và hiểu biết về
chúng. Đó có thể là tên người, tên sông, tên núi, tên làng, tên xóm, tên đường phố,
tên các công cụ vật dụng v.v. Những tên gọi đó nảy sinh xuất phát từ nhu cầu thực tế
của con người. Con người cần phải có sự phân biệt rõ ràng giữa sự vật, đối tượng này
với sự vật, đối tượng kia, giữa không gian này với không gian khác. Mặc dù, tên gọi
đó có thể khác nhau tuỳ theo mỗi vùng miền, mỗi mảnh đất, nhưng ít ra chúng cũng
được cộng đồng nơi đó “sử dụng” và “tái sử dụng” trong một thời gian dài. Nó có sức
sống vô cùng mãnh liệt. Có thể sự vật, hiện tượng đã mất đi nhưng tên gọi của nó vẫn
còn và được ghi nhớ lại. Những tên gọi đó chính là những tên riêng, mà việc nghiên
cứu về nó đã hình thành nên một chuyên ngành riêng gọi là: danh xưng học
(onomasiologie/ onomastique). Nếu đối tượng nghiên cứu của danh xưng học là tên
người thì được gọi là nhân danh học, còn nếu đối tượng nghiên cứu là các tên gọi gắn
với không gian địa lý thì chính là địa danh học.
Việc nghiên cứu địa danh có vai trò quan trọng trong ngôn ngữ học, đặc biệt là
trong việc nghiên cứu lịch sử ngôn ngữ. Xét về mặt cấu trúc nội tại, nó có tác động
và ảnh hưởng không nhỏ đến việc tìm ra các quy luật cấu tạo ngôn ngữ. Địa danh là
một vốn từ loại khá cố định và tồn tại lâu dài nên việc khảo sát và nghiên cứu nó sẽ
cho chúng ta những kết luận chính xác hơn việc sử dụng những từ loại khác. Hơn
nữa, chức năng căn bản của địa danh là định danh và cá thể hoá đối tượng nên chúng
có thể hiện hữu trong thời điểm hiện tại ngay cả khi đối tượng không còn tồn tại hoặc
bị phai mờ ý nghĩa. Nhiều khi người ta sử dụng địa danh chỉ để gọi tên hoặc phân
biệt đối tượng này với đối tượng khác mà không hiểu hết ý nghĩa của nó.
Việc nghiên cứu địa danh không chỉ làm sáng tỏ những quy luật, những cách
thức cấu tạo ngôn ngữ, mà còn làm rõ nét văn hoá, lịch sử, truyền thống... của mỗi
vùng miền. Địa danh có mối quan hệ mật thiết với văn hoá, lịch sử nơi chúng được
hình thành. Mỗi tên gọi, mỗi địa danh xuất hiện đều có những lý do riêng, những
9
cách giải thích riêng của người dân nơi đó. Hơn nữa, chúng còn có thể có nhiều tên
gọi khác nhau, gắn với những sự kiện khác nhau. Tên gọi khác nhau cho cùng một
đối tượng là một điểm khá thú vị của việc nghiên cứu địa danh. Những tên gọi địa
danh đó giúp ta có thể quay ngược thời gian, tìm hiểu những nét văn hoá, biến đổi
của lịch sử dân tộc. Đó là một tấm gương soi rọi những giá trị đồng đại và lịch đại
của ngôn ngữ và văn hoá. Rõ ràng, nghiên cứu địa danh có liên quan đến việc nghiên
cứu văn hoá vùng, miền - một vấn đề cấp thiết đang được đặt ra hiện nay.
Vùng miền mà luận văn này khảo sát địa danh là quận Ba Đình - Hà Nội. Ba
Đình là một quận trung tâm khá đặc biệt. Nó bao gồm những khu vực mang tính
thành thị và những khu vực mang nhiều nét ngoại thành - khu vực phía nam Hồ Tây.
Trước đây cũng có khá nhiều công trình nghiên cứu địa danh ngoại thành và nội
thành Hà Nội, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tỉ mỉ và có hệ
thống trên phương diện ngôn ngữ học, hơn nữa lại giới hạn ở một địa bàn hẹp. Đó là
quận Ba Đình, nơi có thể đã được khá nhiều người quan tâm, nghiên cứu nhưng nó
vẫn hứa hẹn nhiều tiềm năng về văn hoá, lịch sử cần được khám phá qua việc khảo
sát địa danh.
Việc khảo sát địa danh Ba Đình - Hà Nội không chỉ có ý nghĩa với một vùng,
một miền mà nó còn có ý nghĩa với cả Thủ đô Hà Nội. Kể từ năm 1010 đến nay, trải
qua ngót 10 thế kỷ, vùng đất này luôn giữ vị trí trung tâm của các trung tâm chính trị,
văn hóa đất nước từ Kinh thành Thăng Long thời Lý, thời Trần; Đông Kinh thời Lê;
Hà Nội thời Nguyễn đến Hà Nội - Thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trước thềm Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng
Long - Hà Nội, việc nghiên cứu địa danh Ba Đình của luận văn góp phần khẳng định
vị thế chính trị, văn hóa của quận đối với Thủ đô Hà Nội và cả nước.
Đây chính là lý do chúng tôi đã lựa chọn đề tài "Khảo sát địa danh quận Ba
Đình - Hà Nội" làm luận văn thạc sỹ.
0.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Luận văn này đề ra mục đích khảo sát địa danh Ba Đình - Hà Nội nhằm chỉ ra
được những đặc điểm về cấu tạo, về phương thức định danh nhìn từ góc độ ngôn ngữ
- văn hoá - lịch sử.
10
Qua việc khảo sát, nghiên cứu địa danh luận văn cho thấy sự liên ngành, đa
ngành giữa các ngành khoa học có liên quan, tác động qua lại với nhau. Đó là mối
quan hệ của địa danh học với từ vựng học, ngữ pháp học, ngữ âm học và mối quan hệ
của địa danh học với địa lý học, lịch sử học, khảo cổ học, văn hoá học...
Ngoài ra, luận văn còn đề ra mục đích lý giải những tên gọi địa danh ở Ba
Đình - Hà Nội qua đó góp phần xây dựng từ điển địa danh Hà Nội mới, cập nhật cho
đến thời điểm hiện tại. Việc làm này là hết sức cần thiết, có thể góp phần giải quyết
vấn đề chuẩn hoá địa danh ở một vùng miền trong tình hình Hà Nội vừa được mở
rộng địa giới hành chính kể từ ngày 01/8/2008.
0.3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
0.3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn này là những địa danh thuộc Ba Đình Hà Nội: địa danh tự nhiên và địa danh nhân tạo. Địa danh tự nhiên gồm có tên sông,
tên hồ, tên núi...; địa danh nhân tạo gồm có địa danh các công trình giao thông, địa
danh các đơn vị dân cư và địa danh các công trình xây dựng.
Luận văn đã tìm hiểu và đối chiếu những địa danh có nhiều tên gọi, lý giải ý
nghĩa cho hầu hết các địa danh được đưa ra khảo sát. Trong việc khảo sát địa danh trên
một địa bàn mang nhiều tính thành thị như Ba Đình thì số lượng những địa danh thuộc
nhóm địa danh tự nhiên là rất ít, trái lại số lượng những địa danh nhân tạo chiếm phần
lớn. Hầu hết, những địa danh tự nhiên và địa danh nhân tạo trước đây đã bị biến đổi rất
nhiều, thậm chí đã mất hẳn, nhưng tên gọi của nó thì vẫn còn. Do đó, luận văn vẫn lấy
chúng làm đối tượng khảo sát.
0.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là toàn bộ vùng đất thuộc quận Ba Đình - Hà
Nội, gồm có 14 phường của quận: Liễu Giai, Ngọc Hà, Ngọc Khánh, Điện Biên,
Quán Thánh, Trúc Bạch, Vĩnh Phúc, Cống Vị, Nguyễn Trung Trực, Kim Mã, Đội
Cấn, Giảng Võ, Phúc Xá, Thành Công. Việc chia nhỏ theo phường để khảo sát vừa
mang tính logíc, vừa hợp lý về mặt địa giới hành chính sẽ đem lại nhiều thuận lợi cho
người nghiên cứu.
11
0.4. TƢ LIỆU VÀ CÁCH XỬ LÝ TƢ LIỆU
0.4.1. Nguồn tƣ liệu
a) Hệ thống bản đồ các loại (bản đồ hành chính, bản đồ địa hình, bản đồ quy
hoạch...) với tỉ lệ khác nhau và ở các thời kỳ khác nhau. Các bản đồ đó, cung cấp cái
nhìn tổng thể về vùng đất được khảo sát, về từng địa bàn nhỏ nằm trong đó từ góc độ
đồng đại và lịch đại, gồm có một số bản đồ chính:
- Bản đồ cổ của huyện Vĩnh Thuận và Thọ Xương
- Bản đồ Thành Đông Kinh vẽ năm 1490.
- Bản đồ Hà Nội vẽ năm 1831 (Hoài Đức phủ toàn đồ).
- Bản đồ Đồng Khánh địa dư chí lục.
- Các bản đồ thời kỳ sau cách mạng: Bản đồ Hà Nội 1946, bản đồ Hà Nội
(1953 - 1954), bản đồ Hà Nội 1955.
- Bản đồ hành chính của quận Ba Đình năm 2005, 2007.
- Bản đồ của 14 phường trong quận năm 2005.
- Bản đồ hành chính của Hà Nội được mở rộng năm 2008.
b) Có được cái nhìn khái quát về địa bàn khảo sát, chúng tôi bắt tay vào tìm
những tư liệu cụ thể:
- Sưu tập các tư liệu phục vụ các vấn đề về lý thuyết địa danh
- Tìm nguồn tư liệu địa danh từ một số các cơ quan chủ chốt trên địa bàn là
UBND Quận, UBND của 14 phường, Ban Quản lý Danh thắng - Di tích của quận.
- Tìm nguồn tư liệu từ những đơn vị Sở ngành khác có liên quan như: Cục
Quản lý Di sản văn hoá Hà Nội, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Thư viện Quốc gia,
Thư viện Khoa học - Xã hội, Sở, Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch Hà Nội...
- Thu thập các báo, các tạp chí, sách, tư liệu viết tay, trên các trang web về sự
vật, con người, phong cảnh... Ba Đình - Hà Nội.
- Tài liệu về các di tích lịch sử, bảng biểu thống kê địa bàn hành chính, các
loại địa hình của quận.
12
- Tài liệu nội bộ liên quan đến việc thay đổi địa bàn các phường trong quận, và
các quyết định, chỉ thị, nghị quyết của UBND Thành phố Hà Nội có liên quan.
c) Ngoài ra, luận văn còn sử dụng tư liệu qua điền dã gồm có:
- Tư liệu dân gian về địa danh thông qua những người dân trên địa bàn.
- Tư liệu ghi chép trực tiếp tại khu vực khảo sát.
0.4.2. Cách xử lý tƣ liệu
* Lập các bảng biểu, sơ đồ, quy ra tỉ lệ phần trăm cho từng nhóm đối tượng,
theo từng tiêu chí phân loại cụ thể như sau:
a) Loại hình địa danh (danh từ chung chỉ loại đối tượng): với địa danh tự nhiên
là “hồ, đầm, núi...”; với địa danh nhân tạo thuộc nhóm giao thông là “đường, phố,
ngõ... ”; với địa danh nhân tạo thuộc nhóm đơn vị dân cư là “khu, thôn, xóm, trại...”;
với địa danh nhân tạo thuộc nhóm các công trình xây dựng “công viên, vườn hoa,
quảng trường, sân vận động ...”.
b) Tên gọi của đối tượng hiện nay, tồn tại hiện hữu trên mặt đất, thuộc địa bàn
quận (tên địa danh), VD: hồ Trúc Bạch, thì “Trúc Bạch” là tên địa danh.
c) Tên gọi khác và tên gọi trước đây: Tên gọi khác là những tên gọi được sử
dụng song song, đồng thời với tên gọi ở thời điểm hiện nay (VD: khu di tích Hoàng
Thành Thăng Long còn được gọi với tên khác là thành cổ Hà Nội). Tên gọi trước đây
là những tên gọi cũ không được sử dụng phổ biến nữa (VD: hồ Thủ Lệ trước đây
được gọi là hồ Linh Lang). Song song với việc tìm và phát hiện những tên gọi khác
và tên gọi trước đây, luận văn cố gắng tìm thời điểm ra đời của những tên gọi đó để
thấy được sự biến đổi của chúng theo thời gian, cái mà Superanskaja gọi là “Tính liên
tục theo thời gian của địa danh” [68, 8]. Ngoài ra, việc tìm hiểu các tên gọi này cũng
nảy sinh một vấn đề là sự chuyển đổi loại hình (VD: tên gọi ngày nay là đường La
Thành còn tên gọi trước đây là đê La Thành).
d) Cùng với cột tên gọi khác và trước đây của địa danh hiện nay, luận văn còn
khảo sát những địa danh đã có và được lưu giữ đến ngày nay, nhưng hiện nay đối
tượng mà nó chỉ ra không còn tồn tại (VD: núi Nùng hay còn gọi là núi Long Đỗ (rốn
13
rồng) hiện nay không còn tồn tại). Một việc quan trọng trong mảng này là khoanh vùng
khu vực tương ứng với vị trí hiện nay của các đối tượng đó.
e) Lập bảng ý nghĩa của địa danh, trong đó có mô tả đối tượng địa danh hiện
nay và trước đó, tìm hiểu ý nghĩa của việc đặt tên, lý do đặt tên. Đây là một khâu
quan trọng trong việc phân tích và tìm ra các quy luật, các phương thức cấu tạo của
địa danh trong ngôn ngữ.
f) Xác định nguồn gốc ngôn ngữ của các yếu tố địa danh (là từ thuần Việt hay
Hán Việt, là yếu tố vay mượn hay biến âm...).
Bên cạnh đó, mỗi địa danh được thống kê đều được xác định vị trí địa bàn mà
nó tồn tài, hay khoảng không gian địa lý mà nó từng tồn tại. Vị trí này được xác định
dựa trên địa bàn hành chính của 14 phường trong quận.
0.5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Luận văn áp dụng phương pháp thu thập, thống kê và xử lý tư liệu. Việc
thống kê được thực hiện kết hợp với phân tích và phân loại: bậc 1 gồm những phân
loại lớn (địa danh tự nhiên, địa danh nhân tạo), bậc 2 gồm những phân loại nhỏ hơn
(địa danh đơn vị dân cư, địa danh công trình xây dựng, địa danh công trình giao
thông), bậc 3 gồm những tiểu loại nhỏ hơn nữa (địa danh mang tên người, địa danh
mang tên làng, thôn, trại trước đây, địa danh mang yếu tố Hán Việt, thuần Việt).
- Luận văn áp dụng thao tác thu thập tư liệu trên bản đồ theo hướng đồng đại
(bản đồ hiện nay) và theo hướng lịch đại (bản đồ trước đây) nhằm xác định vị trí, đặc
điểm địa lý khi tiến hành khảo sát điền dã. Với bản đồ lịch đại, chúng tôi có thể nhận
thấy ngay được những địa danh còn hay mất, mới hay cũ trên địa bàn. Nhiều địa danh
đã mất, địa danh cũ có khi còn nhiều hơn địa danh mới hiện nay. Mặc dù, chúng vẫn
được khảo sát, nhưng tôn chỉ của chúng tôi là không thiên về hướng lịch đại. Bởi việc
tra cứu những địa danh trước đây so với ngày nay là công việc của người làm địa chí,
địa bạ, còn đối với người làm địa danh theo chúng tôi là phải đứng ở thời điểm hiện
nay để xem xét sự biến đổi của lịch sử.
14
- Luận văn cũng áp dụng phương pháp điền dã (có ghi chép, thu âm trực tiếp,
chụp ảnh) làm tư liệu thực tế cho việc xác định vị trí địa lý của địa danh để có những
lý giải về địa danh trong dân gian.
0.6. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm có 4 chương và Phụ lục gồm
116 trang chính văn.
Chương 1: Nêu một số cơ sở lý thuyết cần thiết về nghiên cứu địa danh, tổng
quan về lịch sử nghiên cứu địa danh trong và ngoài nước, liên quan đến hướng tiếp
cận khảo sát địa danh trên địa bàn cụ thể là quận Ba Đình - Hà Nội.
Chương 2: Trình bày khái quát về địa bàn được khảo sát - địa danh quận Ba
Đình - Hà Nội. Chương này trình bày mảnh đất và con người của địa danh được khảo
sát.
Chương 3: Nghiên cứu đặc điểm cấu tạo địa danh quận Ba Đình - Hà Nội: các
mô hình cấu tạo, các thành tố cấu tạo nên địa danh, trong đó có các kiểu cấu tạo, các
phương thức cấu tạo địa danh (cách đặt tên) của từng đối tượng.
Chương 4: Địa danh Ba Đình nhìn từ góc độ ngôn ngữ - văn hoá: Chương này
là sự khẳng định mối quan hệ giao thoa giữa địa danh và ngôn ngữ - văn hoá - lịch
sử vùng miền; đồng thời chỉ rõ đặc điểm ý nghĩa và các đặc trưng ngôn ngữ văn hoá
của địa danh Ba Đình - Hà Nội.
Phụ lục: Thu thập một số bản đồ, ảnh chụp và các biểu, bảng về địa danh, địa
bàn xưa và nay của quận Ba Đình - Hà Nội.
15
Chƣơng 1
MỘT SỐ GIỚI THUYẾT CẦN THIẾT
ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH
1.1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu địa danh trên thế giới
Trên thế giới, việc nghiên cứu địa danh ra đời từ rất sớm, ở cả phương Đông
lẫn phương Tây. Ở phương Đông, giai đoạn khởi nguồn của nó được diễn ra từ đầu
Công nguyên. Địa danh được sưu tập trong các sách này chủ yếu là các sách lịch sử,
địa chí có ghi chép, sưu tập, tổng hợp và phần nào giải thích về cách đọc, về ngữ
nghĩa của địa danh. Đại diện tiêu biểu là Ban Cố thời Đông Hán (32 - 92 sau Công
nguyên) đã ghi chép được hơn 4000 địa danh trong Hán thư; sách Thuỷ Kinh Chú của
Lệ Đạo Nguyên thời Bắc Ngụy (380 - 535) đã để cập đến trên 20.000 vạn địa danh,
số được giải thích là khoảng 2300 địa danh. Vào cuối thế kỷ XIX, Nhật Bản là một
quốc gia tiên phong cho công việc này, với đại diện tiêu biểu là Kindaichi Kyô,
Kanazawa, v.v...
Ở phương Tây, bộ môn địa danh học được bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, nhưng
trên thực tế nó đã xuất hiện từ trước đó. Trong Thánh Kinh của Thiên chúa giáo cũng
thu thập rất nhiều địa danh khác nhau. Vào thế kỷ XII trước Công nguyên, cuốn sách
của Johhua ở Israel đã thu thập được hàng trăm địa danh. Trong các cuốn II - VII của
Ptolemy đã có tới 8100 địa danh. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là thời điểm nở rộ
các công trình nghiên cứu về địa danh có tính lý luận cao. Năm 1835, T.A. Gibson có
cuốn "Địa lý học từ nguyên" hướng đến một danh sách phân loại về các từ ngữ
thường gặp, như tiền tố hoặc hậu tố, trong các phức thể của tên địa lý. Năm 1864 có
cuốn "Từ và các địa điểm hay sự minh hoạ có tính nguyên lai về lịch sử, dân tộc học
và địa lý học" của Issac Taylor. Năm 1872 có "Địa danh học" của J.J. Egli. Năm
1903 có "Địa danh học" của J.W. Nagh. Bên cạnh những nghiên cứu cá nhân, nhiều
tổ chức nghiên cứu ở các nước cũng được thành lập: năm 1890, thành lập Ủy ban Địa
16
danh nước Mỹ (BGN), đến 1902 thành lập Ủy ban Địa danh Thụy Điển; năm 1919
lập Ủy ban Địa danh nước Anh (PCGN) v.v...
Từ đầu thế kỷ XX, các công trình nghiên cứu càng đi sâu vào việc nghiên cứu
địa danh theo hướng tổng hợp, bám sát lý thuyết địa danh.Ví dụ như: A.Dauzat
(người Pháp) xuất bản cuốn “Nguồn gốc và sự phát triển địa danh” (1926); George
R. Stewart có công trình “Các tên gọi, một khảo sát về việc đặt tên địa điểm” (1958);
công trình “Thực hành địa danh học” của P.E. Raper (1977). Về lĩnh vực này, chúng
ta không thể nhắc đến hàng loạt các nhà địa danh học người Nga - những người đã
đặt nền tảng đầu tiên trong việc xây dựng hệ thống lý luận. Đó là “Những khuynh
hướng nghiên cứu địa danh học” của E.M. Murzaev, “Bàn về địa danh học đồng đại”
của Iu.A. Kapenko (1964), “Những nguyên tắc cơ bản của công tác nghiên cứu địa
danh” của A.I. Popov, “Địa danh mang những thông tin gì” của N.V. Podonskaja,
“Các khuynh hướng nghiên cứu địa danh” của N.I. Nikonov... và đặc biệt là công
trình “Địa danh học là gì” của A.V. Superanskaja [68] đã mang lại những định
hướng mới cho việc nghiên cứu địa danh, tạo ra những giá trị nhất định trong quá
trình phát triển của địa danh học.
Càng về sau này, việc nghiên cứu địa danh không chỉ nằm bó hẹp trong các
chuyên luận nghiên cứu mà được ứng dụng trong thực tế với những người làm chính
sách ngôn ngữ, những người làm công tác bản đồ, những nhà nghiên cứu về văn hóa
- lịch sử tộc người, v.v... Hướng mở rộng này, khiến cho ta thấy được tầm quan trọng
của công tác nghiên cứu địa danh và tính sâu rộng của nó trong đời sống.
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu địa danh trong nƣớc
Việc nghiên cứu địa danh ở Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước
phương Tây. Ban đầu, đó là những sản phẩm mang tính liệt kê và giả thích tên gọi
một cách thuần tuý, chưa quan tâm đến những vấn đề bản chất của địa danh học. Hầu
hết, chúng đều là các sách sử và địa chí, chẳng hạn như: “Dư địa chí” của Nguyễn
Trãi (1380 - 1442), “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên (thế kỷ XV), “Lịch
triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú (1782 - 1840), “Gia Định thành thông
chí” của Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825), “Đại Nam nhất thống chí” do Quốc Sử quán
triều Nguyễn thời Tự Đức biên soạn (1864 - 1875).
17
Bước sang thế kỷ XX, khi mà việc nghiên cứu địa danh trên thế giới đang phát
triển thì ở Việt Nam chỉ mới bắt đầu hình thành những nghiên cứu lý luận chuyên
sâu. Điều thuận lợi là những nhà địa danh học ở Việt Nam đã kế thừa được những kết
quả, phương pháp và lý thuyết nghiên cứu của thế giới, tạo đà cho công cuộc nghiên
cứu địa danh trong nước. Những người dẫn đầu trong công cuộc này là một số tác giả
như: Đào Duy Anh, Hoàng Thị Châu, Phạm Đức Dương, Lê Trung Hoa, Trần Trí
Dõi... tiếp đến là: Nguyễn Kiên Trường, Từ Thu Mai, Trần Văn Dũng... Công trình
của các tác giả này có ảnh hướng lớn đến việc nghiên cứu địa danh trong nước, có
tính lý luận cao, vận dụng được phương pháp so sánh lịch sử trong nghiên cứu địa
danh. Nhờ đó mà một số vấn đề về địa danh đã được làm sáng tỏ và được nhiều
ngành sử dụng.
Đề cập đến các công trình nghiên cứu trong nước nói trên, trước hết có thể kể
đến bài báo nghiên cứu của Hoàng Thị Châu viết năm 1964 “Mối liên hệ về ngôn ngữ
cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông”. Trong công trình này Hoàng Thị Châu
đã sử dụng phương pháp ngôn ngữ học để khảo sát đối tượng. Đây là một bước tiến
mới. Sau đó là hai luận án phó tiến sĩ “Những đặc điểm chính của địa danh ở thành
phố Hồ Chí Minh” (1990) của Lê Trung Hoa “Những đặc điểm chính của địa danh
Hải Phòng (sơ bộ so sánh với một số vùng khác)” của Nguyễn Kiên Trường. Hai luận
án này đều nghiên cứu địa danh dưới góc độ ngôn ngữ học, lấy đối tượng khảo sát
khá điển hình: một là địa bàn miền Nam, một là địa bàn miền Bắc. Đó là những
chuyên khảo đầu tiên về địa danh Việt Nam trên một địa bàn cụ thể. Những năm gần
đây đã có hai luận án tiến sĩ về địa danh đã được bảo vệ là “Nghiên cứu địa danh
Quảng Trị” của Từ Thu Mai năm 2003 và “Những đặc điểm chính của địa danh Dăk
Lăk” của Trần Văn Dũng năm 2005.
Bên cạnh đó, một số sách tra cứu đã được xuất bản như cuốn “Sổ tay địa danh
Việt Nam” của Đinh Xuân Vịnh (1995), “Sổ tay địa danh Việt Nam” của Nguyễn
Dược - Trung Hải (1998), “Từ điển bách khoa địa danh Hải Phòng” do Ngô Đăng
Lợi chủ biên (1998), “Từ điển Hà Nội địa danh” của Bùi Thiết (1993), hoặc một số
cuốn địa chí vùng như “Địa chí Nam Định” (2004), “Địa chí Cổ Loa” (2007)...
Những công trình này thiên về sưu tầm tư liệu mà thiếu tính lý luận, do đó chưa phải
là những công trình nghiên cứu địa danh thực sự.
18
1.2. HƢỚNG TIẾP CẬN VÀ PHÁT TRIỂN KHI NGHIÊN CỨU ĐỊA DANH NỘI
THÀNH HÀ NỘI
Những công trình đầu tiên đề cập đến vấn đề địa danh nội thành Hà Nội xuất
hiện từ thế kỷ thứ XIX. Đó là những công trình thiên về lịch sử, liệt kê các đơn vị
hành chính, mô tả phong vật, sông núi, thành trì, nhân vật, sản vật... của vùng đất
Hà Nội xưa1. Trước hết, ta phải kể đến “Các trấn, tổng, xã danh bị lãm” (1810).
Vì công trình này thu thập tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX thuộc các tỉnh từ
Nghệ An trở ra (10.994 địa danh) nên có liệt kê địa danh làng, xã Hà Nội. Tiếp
đến là “Bắc thành địa dư chí lục” (1818 - 1821) do Lê Chất soạn, có ghi chép 12
trấn thuộc Bắc Thành, nay là 12 tỉnh miền Bắc. Năm 1866, “Hà Nội địa bạ” cung
cấp cho ta một lớp địa danh đến tận xã, phường, thôn, trại của tỉnh Hà Nội thời Tự
Đức. Năm 1882 là “Đại Việt địa dư toàn biên” hay “Phương Đình dư địa chí” do
Nguyễn Văn Siêu và Bùi Hữu Trúc soạn, và năm 1888 là “Đồng Khánh địa dư
chí” cũng có phương cách tương tự. Bên cạnh đó, cũng có những sách ghi chép về
núi sông, thành trì... thuộc Hà Nội khá tỉ mỉ như: “Hà Nội, sơn xuyên phong vực”,
“Hà Nội địa dư”... Các công trình này không có giá trị nhiều về lý luận nghiên
cứu mà chỉ được xem như là những nguồn tư liệu cho việc khảo sát địa danh nội
thành Hà Nội.
Thời Pháp thuộc, thực dân Pháp thực hiện việc nghiên cứu địa danh nội thành
Hà Nội mang tính ghi chép để phục vụ cho cuộc xâm lược của chúng đối với nhân
dân ta. Điều này được thể hiện rõ trong tài liệu lưu trữ 1873 - 1954 của Trung tâm
Lưu trữ Quốc gia I, về địa giới hành chính, về giao thông đô thị... do người Pháp ghi
chép. Ở thời kỳ này nhiều tên gọi địa danh được đặt thêm, mang màu sắc của địa
danh phương Tây. Ngoài ra, các kho thần tích, thần sắc cũng có những đóng góp
đáng kể. Kho thần tích, thần sắc Hà Nội năm 1938 có ghi chú rõ ở ngõ, làng, phố,
khu phố nào, ở đình nào có bao nhiêu đạo sắc phong, bao nhiêu nhân thần, thiên thần,
thành hoàng và tên được gọi của chúng. Cũng có những địa danh bị mất đi nhưng vẫn
có thể suy luận ra nay ở đâu nhờ tên nhân thần, thành hoàng ... của khu vực đó. Như
1
Vùng đất Hà Nội xưa bao gồm chủ yếu là địa bàn của 2 huyện Vĩnh Thuận và Thọ Xương, nay là
quận Ba Đình và quận Hoàn Kiếm - Hà Nội.
19
vậy, việc nghiên cứu địa danh nội thành Hà Nội thời kỳ này cũng chỉ dừng lại ở việc
khảo sát, không mang tính lý luận.
Trong những năm gần đây, khi mà việc nghiên cứu địa danh đã có những bước
phát triển thì công tác nghiên cứu địa danh nội thành được chú ý nhiều hơn, điển hình
là luận án phó tiến sĩ của Lê Trung Hoa nghiên cứu về “Địa danh ở thành phố Hồ
Chí Minh”. Nghiên cứu địa danh nội thành có nhiều điểm khác biệt so với việc
nghiên cứu địa danh ngoại thành hay các vùng phụ cận khác. Bởi khi nghiên cứu địa
danh nội thành yếu tố thành thị chiếm ưu thế: các tên làng, tên xã, tên thôn... được
chuyển thành tên phường, tên quận; các địa danh tự nhiên bị thay đổi nhiều; đặc biệt
là có hiện tượng chồng lớp các địa danh tạo nên sự đa dạng, nhiều chiều của văn hoá
- lịch sử. Tuy nhiên, việc nghiên cứu địa danh nội thành Hà Nội - một đại diện tiêu
biểu của miền Bắc Việt Nam - có những đặc điểm khác so với thành phố Hồ Chí
Minh.
Như vậy, cho đến thời điểm này vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về địa
danh nội thành Hà Nội trên phương diện ngôn ngữ học, kể cả một số bài báo, sách
địa chí như "Địa chí Tây Hồ", một số từ điển, sổ tay địa danh Hà Nội ("Từ điển Hà
Nội địa danh"). Nhằm tìm hướng giải quyết cho vấn đề này, luận văn bước đầu khảo
sát và nghiên cứu địa danh ở quận Ba Đình thuộc nội thành Hà Nội một cách tỉ mỉ và
có hệ thống.
1.3. GIỚI THUYẾT VỀ ĐỊA DANH
Định nghĩa về địa danh được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với thuật ngữ là
toponima hay toponoma, mà “topos” là “địa điểm” và “onima” hay “onoma” là “tên
gọi”, nên chúng được dịch là “tên gọi địa lý”. Phân tích theo lối chiết tự thì “địa” là
“đất”, “danh” là “tên”, nên được gọi là “tên đất”. Hai cách phân tích trên giúp
chúng ta hiểu rõ hơn về địa danh, nhưng vẫn cần có một định nghĩa khái quát nhất về
đối tượng này.
Nhà ngôn ngữ học người Nga A.V. Superanskaja (1985) trong cuốn “Địa
danh là gì” đã cho rằng: “Tên gọi các địa điểm được biểu thị bằng những từ riêng.
Đó là các tên gọi địa lý, địa danh hay toponimia” [68, 1] và chỉ rõ “Những địa điểm,
mục tiêu địa lý đó là những vật thể tự nhiên hay nhân tạo với sự định vị xác định trên
20
- Xem thêm -