LỊCH SỬ NGÀNH TÒA ÁN VIỆT NAM VÀ
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
LỊCH SỬ NGÀNH TÒA ÁN VIỆT NAM VÀ
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
I. TOÀ ÁN NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN TỪ
NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1958
1. Toà án trong những ngày đầu thành lập Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
1.1. Thiết lập Toà án Quân sự
Ngày 13-9-1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà ra Sắc lệnh thiết lập các Toà án quân sự. Theo
Điều 1 của Sắc lệnh này thì sẽ thiết lập các Toà án quân sự
gồm: ở Bắc bộ tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh
Bình; ở Trung bộ tại Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở Nam bộ tại
Sài Gòn, Mỹ Tho. Uỷ ban nhân dân Trung bộ và Nam bộ,
trong địa hạt hai bộ ấy, có thể đề đạt lên Chính phủ xin mở
thêm Toà án quân sự ở những nơi trọng yếu khác. Về thẩm
quyền xét xử, Toà án quân sự xử tất cả những người nào
phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trừ trường hợp phạm
nhân là binh sỹ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân
luật (Điều 2). Toà án quân sự xét xử tất cả các hành vi phạm
tội được thực hiện trước hoặc sau ngày 19-8-1945. Ngoài ra,
5
đối với những nơi ở xa các Toà án quân sự đã được thành lập
theo Sắc lệnh này, thì trong những trường hợp đặc biệt,
Chính phủ “có thể cho Uỷ ban nhân dân địa phương thành
lập một Toà án quân sự có quyền xử trong một thời kỳ và
theo đúng những nguyên tắc định trong Sắc lệnh này” (Điều
7).
1.2. Thiết lập Toà án đặc biệt
Ngày 23-11-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh số 64 thiết lập
một ban Thanh tra đặc biệt. Điều 1 Sắc lệnh quy định Ban
Thanh tra đặc biệt có nhiệm vụ “đi giám sát tất cả các công
việc và các nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan
của Chính phủ”. Điều 3 quy định: “Sẽ thiết lập ngay tại Hà
Nội một Toà án đặc biệt để xử những nhân viên của các Uỷ
ban nhân dân hay các cơ quan của Chính phủ do ban Thanh
tra truy tố”. Toà án đặc biệt do Chủ tịch Chính phủ lâm thời
làm Chánh án, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tư
pháp làm Hội thẩm (Điều 4). Toà án đặc biệt có toàn quyền
định, có thể tuyên án tử hình. Những án tuyên lên sẽ thi hành
trong 48 giờ (Điều 6). Ban Thanh tra và Toà án đặc biệt được
lập ra chỉ có tính chất tạm thời (Điều 7).
2. Toà án trong giai đoạn từ năm 1946 đến trước công
cuộc Cải cách tư pháp năm 1950
6
2.1. Thiết lập hệ thống Toà án thường
2.1.1. Ngày 24-1-1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra Sắc lệnh số 13 về tổ chức
các Toà án và các ngạch Thẩm phán. Đây là Sắc lệnh đầu tiên
quy định một cách đầy đủ việc tổ chức giải quyết các tranh
chấp, xử phạt các việc vi cảnh ở cơ sở cũng như tổ chức các
Toà án và quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của các
ngạch Thẩm phán; cụ thể như sau:
a. Theo quy định ở tiết thứ nhất thì Ban tư pháp xã được
thành lập ở cơ sở cấp xã “ở mỗi xã, ban thường vụ của Uỷ
ban hành chính cấp xã gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư
ký (theo Điều 75 Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 tổ chức
chính quyền nhân dân) sẽ kiêm cả việc tư pháp. Cả ba uỷ viên
trong Ban tư pháp ấy đều có quyền quyết nghị. Thư ký giữ
công việc lục sự, lưu trữ công văn, làm các giấy tờ, biên bản...
Mỗi tuần lễ Ban tư pháp phải họp ít nhất là một lần, họp công
khai ở trụ sở của Uỷ ban” (Điều 2). Ban tư pháp xã có quyền:
hoà giải tất cả các việc dân sự và thương sự; phạt các việc vi
cảnh từ năm hào đến sáu đồng bạc (nếu người bị phạt không
chịu nộp phạt, thì Ban tư pháp lập biên bản và đệ lên Toà án
sơ cấp xét xử); thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm phán
cấp trên. Ban tư pháp xã không có quyền tịch thu tài sản của
ai và cũng không có quyền bắt bớ, giam giữ ai, trừ khi có trát
7
nã của một Thẩm phán hay khi thấy người phạm tội quả tang
(Điều 3 và Điều 4).
b. Theo quy định ở tiết thứ hai thì “ở mỗi quận (phủ,
huyện, châu) có một Toà án sơ cấp, quản hạt là địa hạt quận.
Nếu cần một Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể
thay đổi quản hạt được”. Toà án sơ cấp gồm có: một Thẩm
phán, một lục sự và một hay nhiều Thư ký giúp việc. Mỗi
tuần lễ, ít ra phải có hai phiên toà công khai: một phiên hộ và
một phiên hình. Tại phiên toà, Thẩm phán xét xử một mình,
lục sự giữ bút ký, lập biên bản, án từ. Ngoài ra Sắc lệnh còn
quy định “ở các thành phố và thị xã, Bộ trưởng Bộ Tư pháp
có thể đặt Toà án sơ cấp tổ chức theo các nguyên tắc nói trên”
(Điều 11).
c. Theo quy định ở tiết thứ ba thì “ở mỗi tỉnh và ở các
thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Sài Gòn - Chợ Lớn có một
Toà án đệ nhị cấp. Quản hạt Toà án này theo giới hạn của địa
hạt tỉnh hay thành phố. Nếu cần, một Nghị định của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp có thể thay đổi quản hạt được”. Đồng thời
tuỳ theo sự quan trọng, các Toà án đệ nhị cấp sẽ chia ra làm
bốn hạng do Nghị định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ấn định.
Ngoài các thành phố kể trên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể
đặt thêm Toà án đệ nhị cấp ở các thành phố khác.
8
Về tổ chức trong một Toà án, thì Toà án đệ nhị cấp gồm
có một Chánh án, một biện lý, một dự thẩm, một chánh lục sự
và những thư ký giúp việc. Tuỳ nơi nhiều việc hay ít việc, có
thể tăng thêm số Thẩm phán và lục sự, hay để một Thẩm phán
kiêm nhiều chức vụ.
Về xét xử thì mỗi tuần lễ, ít ra cũng phải có hai phiên
toà công khai: một phiên hộ và một phiên hình. Khi xét xử về
dân sự, thương sự, Chánh án xử một mình. Khi xét xử các
việc tiểu hình, phải có thêm hai viên phụ thẩm nhân dân góp
ý kiến (Điều 17). Theo quy định tại Điều 20, thì các trường
hợp không thể cùng làm phụ thẩm trong một Toà án bao gồm
“các người thân thuộc hay thích thuộc với nhau cho đến bậc
thứ ba, các người thân thuộc hay thích thuộc với các Thẩm
phán hoặc với các người đương sự cho đến bậc thứ ba” và
“không ai có thể làm phụ thẩm trong một việc mà mình là
người đương sự hoặc đã điều tra, hoặc đã làm chứng hay làm
giám định” (Điều 21). Sắc lệnh quy định nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của phụ thẩm nhân dân rất cụ thể, họ “có
bổn phận là lấy trí sáng suốt và lương tâm ngay thẳng ra xét
mọi việc rồi phát biểu ý kiến một cách công bằng không vì
nể, vì sợ một thế lực nào, vì lợi ích riêng hay tư thù mà bênh
vực ai hay làm hại ai. Các phụ thẩm nhân dân phải giữ kín
các điều bàn bạc trong lúc nghị án. Nếu tiết lộ bí mật ấy ra sẽ
9
bị Toà thượng thẩm phạt từ sáu tháng đến hai năm tù”. Trước
khi mở phiên toà các phụ thẩm nhân dân không được đọc hồ
sơ, nhưng tại phiên toà họ có quyền yêu cầu ông Chánh án
(Chủ toạ phiên toà) hỏi thêm các bị cáo và cho biết các tài
liệu có trong hồ sơ. Ông Chánh án phải hỏi ý kiến các phụ
thẩm về tội trạng của các bị cáo và về hình phạt rồi tự mình
quyết định. Tuy nhiên, về các vấn đề thủ tục, tạm tha và các
vấn đề khác liên quan đến hộ hay thương mại, ông Chánh án
không phải hỏi ý kiến các phụ thẩm nhân dân.
Đối với các việc đại hình, khi xét xử Toà đệ nhị cấp
gồm có năm người cùng ngồi xử và đều có quyền quyết nghị,
đó là: Chánh án Toà đệ nhị cấp ngồi ghế Chánh án (Chủ toạ
phiên toà); hai Thẩm phán làm phụ thẩm chuyên môn được
chọn trong các Thẩm phán của Toà án đệ nhị cấp hay của Toà
án sơ cấp trong quản hạt, do ông Chánh nhất Toà thượng
thẩm chỉ định mỗi năm một lần. Tuy nhiên, trong năm, ông
Chánh nhất có thể quyết định việc thay đổi hai vị phụ thẩm
chuyên môn; hai phụ thẩm nhân dân được chọn bằng cách rút
thăm ở danh sách các phụ thẩm nhân dân do Uỷ ban hành
chính tỉnh hay thành phố lập vào hồi đầu năm.
Theo quy định tại Điều 34, thì Toà đại hình xử sơ thẩm,
ông biện lý, bị can và nguyên đơn có quyền chống án lên Toà
thượng thẩm.
10
d. Theo quy định ở tiết thứ tư thì ở mỗi kỳ, có một Toà
thượng thẩm; Toà thượng thẩm ở Bắc Kỳ đặt ở Hà Nội; Toà
thượng thẩm Trung Kỳ đặt ở Thuận Hoá (Huế); Toà thượng
thẩm Nam Kỳ đặt ở Sài Gòn. Mỗi Toà thượng thẩm gồm có
một Chánh nhất, các Chánh án phòng, các hội thẩm, một
chưởng lý, một hay nhiều phó chưởng lý, những tham lý, một
chánh lục sự, các lục sự, những tham tá và thư ký. Về cách tổ
chức các Toà thượng thẩm và số các Chánh án, hội thẩm, phó
chưởng lý, tham lý và lục sự ở mỗi Toà do Bộ trưởng Bộ Tư
pháp ấn định. “Khi phúc lại các án tiểu hình và đại hình,
ngoài ông Chánh án và hai hội thẩm, phải có thêm hai phụ
thẩm nhân dân có quyền quyết nghị và chọn bằng cách rút
thăm... (Điều 38). Danh sách các phụ thẩm nhân dân tại Toà
thượng thẩm có từ 50 đến 100 người chọn trong nhân dân kỳ
và sẽ do Uỷ ban hành chính kỳ lập vào hồi đầu năm sau khi
hỏi ý kiến ông chưởng lý. Trong việc đại hình, nếu trước Toà
thượng thẩm một bị cáo không có ai bênh vực, ông Chánh án
sẽ cử một luật sư để bào chữa cho bị cáo.
đ. Về tổ chức các ngạch Thẩm phán gồm có hai ngạch
Thẩm phán: ngạch sơ cấp và ngạch đệ nhị cấp. Thẩm phán
sơ cấp làm việc ở Toà sơ cấp, Thẩm phán đệ nhị cấp làm
việc ở các Toà đệ nhị cấp và Toà thượng thẩm. Các Thẩm
phán đệ nhị cấp chia ra làm hai chức vị: các Thẩm phán xử
11
án do ông Chánh nhất Toà thượng thẩm đứng đầu và các
Thẩm phán của công tố viện (Thẩm phán buộc tội) do ông
chưởng lý đứng đầu. Khi xét xử, Thẩm phán quyết định theo
pháp luật và lương tâm của mình. Không quyền lực nào
được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án.
Trong Sắc lệnh này cũng quy định một cách rất cụ thể
về tiêu chuẩn của Thẩm phán, cách tuyển chọn và đối tượng
được tuyển chọn (bao gồm cả các quan lại cũ đã từng làm
Thẩm phán, các lục sự Toà nam án đệ nhị cấp cũ), quyền và
nghĩa vụ của Thẩm phán, kỷ luật đối với Thẩm phán và y
phục của Thẩm phán.
2.1.2. Tuy nhiên, do những khó khăn khách quan trong
những ngày đầu mới giành chính quyền, việc xây dựng hệ
thống Toà án theo Sắc lệnh 13 ngày 24-01-1946 chưa thực
hiện được đầy đủ ở khắp các địa phương trong toàn quốc.
Do đó, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 22-B ngày 18-12-1946
để quyền trợ cấp tư pháp cho Uỷ ban hành chính ở những
nơi chưa đặt được Toà án biệt lập. Theo Sắc lệnh này, ở nơi
nào chưa thiết lập được Toà án thì Uỷ ban hành chính sẽ
kiêm việc tư pháp; Uỷ ban tỉnh có quyền hạn như Toà án đệ
nhị cấp; Uỷ ban phủ, huyện, châu có quyền hạn như Toà án
sơ cấp.
12
Ở tỉnh đương sự có quyền chống án lên Toà thượng thẩm
(Điều 4) khi phúc thẩm, Toà thượng thẩm chỉ xét về nội dung
vụ kiện, còn về hình thức, nếu có chỗ sai lầm mà không hại
đến nội dung vụ án thì Toà thượng thẩm có thể tuỳ nghi công
nhận hiệu lực của bản án bị kháng cáo như không có sự sai
lầm ấy (Điều 5).
2.1.3. Tiếp theo Sắc lệnh số 13 ngày 24-01-1946,
Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 51 ngày 17-4-1946 ấn
định thẩm quyền các Toà án và sự phân công giữa các thành
viên trong Toà án. Chương thứ nhất của Sắc lệnh quy định
cụ thể về thẩm quyền các Toà án.
2.1.4. Như vậy, từ sau ngày 13-9-1945 đến sau ngày 2401-1946, ở nước ta đã có 3 loại Toà án: Toà án Quân sự, Toà
án đặc biệt, Toà án thường. Nhằm giải quyết tranh chấp về
thẩm quyền giữa các Toà án này, chính phủ đã ban hành Sắc
lệnh số 43 ngày 3-4-1946 lập ở mỗi kỳ “một hội đồng phân
định thẩm quyền giữa Toà án Quân sự, Toà án đặc biệt và
Toà án thường”. Sắc lệnh này cũng đã quy định cách thức
giải quyết việc tranh chấp thẩm quyền giữa Toà án Quân sự,
Toà án đặc biệt và Toà án thường.
2.1.5. Ngày 9-11-1946, Quốc hội nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước
13
ta. Tại Chương VI bản Hiến pháp này quy định về “Cơ quan
tư pháp”, theo đó Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà gồm có: Toà án tối cao; các Toà án phúc thẩm;
các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp (Điều 63). Các viên Thẩm
phán đều do chính phủ bổ nhiệm (Điều 64). Về các nguyên
tắc xét xử gồm có: “Trong khi xử việc hình thì phải có phụ
thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình
hoặc cùng quyết nghị với Thẩm phán nếu là việc đại hình
(Điều 65); Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của
mình trước Toà án (Điều 66); các phiên Toà án đều phải công
khai, trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được
quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn Luật sư (Điều 67); trong
khi xét xử, các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các
cơ quan khác không được can thiệp (Điều 69)”.
Tuy nhiên, thực dân pháp trở lại xâm lược nước ta lần
nữa, chiến tranh nổ ra, toàn quốc kháng chiến, nên hệ thống
Toà án chưa tổ chức được theo Hiến pháp 1946.
Để đáp ứng công tác xét xử trong hoàn cảnh kháng chiến
ngày 29-12-1946 Bộ Tư pháp đã ban hành Thông lệnh số
12/NV-CT về tổ chức Tư pháp trong tình thế đặc biệt. Bản
Thông lệnh này cùng với bản Thông lệnh số 6/NV-CT ngày
28-12-1946 về tổ chức chính quyền trong thời kỳ đặc biệt là
những cơ sở pháp lý để tổ chức và hoạt động của hệ thống
14
Toà án trong thời kỳ kháng chiến được linh hoạt. Toàn văn
Thông lệnh số 12/NV-CT như sau:
“1) Ở mỗi khu, Bộ trưởng Tư pháp sẽ đặt một giám đốc
tư pháp để trông coi việc tư pháp trong khu và giúp ý kiến
cho Uỷ ban bảo vệ khu. Uỷ ban này mỗi khi ra quyết định gì
có liên can đến tư pháp, bắt buộc phải hỏi ý kiến của giám
đốc tư pháp. Giám đốc tư pháp đặt dưới quyền kiểm soát của
Uỷ ban bảo vệ khu và trong trường hợp không liên lạc được
với trung ương, thì giám đốc tư pháp đặt dưới quyền điều
khiển của Uỷ ban bảo vệ khu.
2) Uỷ ban bảo vệ khu có uỷ nhiệm để thi hành quyền
công tố sau khi hỏi ý kiến giám đốc tư pháp. Các biện lý và
công cáo uỷ viên đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của Uỷ
ban bảo vệ khu. Các Uỷ ban bảo vệ tỉnh, huyện (phủ hay
châu) và xã không có quyền ra lệnh cho các Toà án. Ở trường
hợp không liên lạc được với nhau, thì Uỷ ban bảo vệ khu có
thể tạm uỷ quyền cho Uỷ ban bảo vệ tỉnh để ra lệnh cho biện
lý và công cáo uỷ viên thuộc quản hạt Uỷ ban bảo vệ tỉnh sau
khi nghe các ông này bày tỏ ý kiến. Khi liên lạc được thì Uỷ
quyền ấy sẽ hết hiệu lực.
15
3) Ở mỗi khu sẽ đặt một hay nhiều Toà án Quân sự. Các
bộ trưởng Tư pháp và Nội vụ có thể uỷ quyền cho Uỷ ban bảo
vệ khu để lập các Toà án Quân sự.
4) Nếu có sự tương tranh giữa Toà án quân sự và Toà án
thường thì Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ khu, Chánh án Toà án
quân sự và giám đốc tư pháp hợp thành hội đồng phân định
thẩm quyền. Chủ tịch Hội đồng là chủ tịch Uỷ ban bảo vệ
khu.
5) Ở các Toà án thường, nếu tính thế bắt buộc, Chánh án
sau khi thảo thuận với biện lý và Chủ tịch Uỷ ban bảo vệ tỉnh,
có thể xử một mình các việc hình mà không cần có phụ thẩm
nhân dân hay chuyên môn.”
2.1.6. Căn cứ vào Thông lệnh tổ chức tư pháp trong
tình thế đặc biệt, ngày 01-01-1947, Bộ Tư pháp đã ban
hành Nghị định số 5-ĐB tạm đình chỉ công việc xử án của
các Toà thượng thẩm, điều thứ nhất Nghị định nêu: “Tạm
đình chỉ công việc xử án các toà Thượng thẩm Bắc bộ,
Trung bộ, Nam bộ cho đến khi có lệnh mới”.
Ngày 12-4-1947, Bộ Tư pháp ban hành Nghị định số 44DB “thiết lập ở khu một Hội đồng phúc án”. Nghị định nêu
rõ: “Nay thiết lập ở mỗi khu hay trong nhiều khu một Hội
đồng phúc án (Điều 1)”; Hội đồng phúc án nói trên sẽ thay
16
thế Toà Thượng thẩm kỳ để xét lại trong quản hạt, những việc
thuộc thẩm quyền Toà Thượng thẩm (Điều 2); thành phần Hội
đồng phúc án định như sau: Một Chánh Hội đồng; hai Hội
thẩm do Bộ Tư pháp chỉ định trong các Thẩm phán; hai Hội
thẩm do Bộ Tư pháp chỉ định trong các Thẩm phán và Giám
đốc Tư pháp; một thư ký do Giám đốc Tư pháp khu chỉ định,
sẽ giữ chức lục sự; về hình sự cũng như dân sự, sẽ xử không
có công tố viên; Trong những việc đại hình và tiểu hình, cách
chỉ định phụ thẩm nhân dân sẽ theo pháp luật hiện hành ở
trước các Toà Thượng thẩm (Điều 3). Tiếp đó, Bộ Tư pháp đã
ban hành Nghị định số 61 DB ngày 9-5-1947 tổ chức các Hội
đồng phúc án, quy định chi tiết thêm về quản hạt và nhiệm vụ
của Hội đồng phúc án, thủ tục thi hành (thủ tục tố tụng - chú
thích của Ban biên soạn) trước Hội đồng phúc án; các biệt lệ
trong việc xét xử các vụ án hình sự, các vụ án dân sự.
Ngày 6-3-1948 Bộ Tư pháp ra Nghị định số 11-MT (sau
đó là Nghị định số 20 MT ngày 24-5-1948 bãi bỏ Nghị định
11-MT) quy định lập Công tố viên tại Hội đồng phúc án.
2.1.7. Ngày 26-5-1948, Chính phủ ra Sắc lệnh số 185SL ấn định thẩm quyền các Toà án sơ cấp và đệ nhị cấp
theo hướng tăng thẩm quyền cho các Toà án này so với Sắc
lệnh số 51 ngày 17-4-1946.
17
2.2. Thiết lập hệ thống Toà án binh
2.2.1. Ngày 23-8-1946 Chính phủ ra Sắc lệnh số 163 tổ
chức Toà án binh lâm thời đặt ở Hà Nội:
“Điều thứ nhất. Trong khi chờ đợi Sắc lệnh tổ chức của
Toà án binh chính thức được ban hành, nay lập một Toà án
binh lâm thời trụ sở đặt ở Hà Nội”.
Điều thứ 2. Toà án binh lâm thời có thẩm quyền xét xử:
- Các quân nhân phạm pháp bất cứ về một tội gì, trừ
những tội vi cảnh thuộc thẩm quyền các Toà án tư pháp và
những “thường tội” định ở điều thứ 49 Sắc lệnh số 71 ngày
22 tháng 5 năm 1945 thuộc quyền nghị phạt của các cấp chỉ
huy quân đội;
- Những nhân viên các ngành chuyên môn trong quân
đội, những người làm việc trong quân đội như công nhân, chủ
thầu, khi phạm pháp có liên can đến quân đội;
- Những người thuộc bất cứ hạng nào mà phạm pháp ở
trong các đồn trại, quân y viện, nhà đề lao binh hoặc một cơ
quan nào của quân đội, hoặc phạm pháp làm thiệt hại đến
quân đội.
*Ngày 16-2-1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 19-SL Tổ
chức các Toà án binh khu trên toàn cõi Việt Nam (trừ các Toà
án binh tại mặt trận):
18
“Điều thứ 2. - Ở mỗi khu sẽ đặt một Toà án binh. Nhưng
nếu xét cần, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có thể ký Nghị định
lập thêm trong khu một hay nhiều Toà án binh ở những nơi
quân đội đóng.
Điều thứ 3. - Mỗi Toà án binh gồm có:
- Một Chánh án và hai Hội thẩm ngồi xử;
- Một Uỷ viên Chính phủ ngồi buộc tội;
- Một lục sự chép các điều tranh luận, giữ án từ và giấy
má.
Chánh án là khu trưởng hoặc một quân nhân từ cấp trung
đoàn trưởng trở lên, do khu trưởng đề cử và Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng chuẩn y.
Hội thẩm thứ nhất là một Thẩm phán đệ nhị cấp ngạch
tư pháp do Giám đốc tư pháp khu đề cử và Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng chuẩn y.
Hội thẩm thứ hai là một quân nhân thuộc cấp chỉ huy do
khu trưởng đề cử và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chuẩn y.
Uỷ viên Chính phủ là chính trị viên khu hoặc một quân
nhân thuộc cấp chính trị viên trung đoàn trở lên do chính trị
viên khu đề cử và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chuẩn y.
Lục sự là một quân nhân do khu trưởng chỉ định.
19
Đối với mỗi chức vụ kể trên, sẽ cử một nhân viên
chính thức và một nhân viên dự khuyết thay nhân viên
chính thức khi mắc bận.
*Ngày 25-4-1947 Chính phủ ra Sắc lệnh số 45 quy
định tổ chức và hoạt động của Toà án binh tối cao.
Điều 1: “Nay đặt một Toà án binh tối cao, quản hạt là
toàn cõi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”.
*Ngày 5-7-1947 Chính phủ ra Sắc lệnh số 59 thành lập
Toà án binh khu trung ương.
Điều 1: “Nay đặt tại Bộ Quốc phòng một Toà án binh
gọi là: Toà án binh khu trung ương”.
2.2.2. Để kịp thời trừng trị những tội phạm xảy ra tại
những nơi đang có chiến sự, liên bộ Quốc phòng- Tư pháp đã
ra Thông lệnh liên bộ số 11-NV-CT ngày 28-12-1946, số 32TL-ĐB ngày 16-2-1947 và số 60- TT ngày 23-5-1947 về thiết
lập Toà án binh tại mặt trận.
2.2.3. Như vậy, trước ngày toàn quốc kháng chiến (1912-1946), trên toàn lãnh thổ Việt Nam, chỉ có một Toà án
binh lâm thời đặt tại Hà Nội được tổ chức theo Sắc lệnh 163
ngày 23-8-1946. Nhưng sau đó chính phủ đã ban hành 3 sắc
lệnh (Sắc lệnh 163 tự hết hiệu lực) và thông lệnh tổ chức các
Toà án binh mới:
20
- Sắc lệnh số 19- SL ngày 14-2-1947 tổ chức các Toà án
binh khu trên toàn cõi Việt Nam;
- Sắc lệnh số 45- SL ngày 25-4-1947 Tổ chức Toà án
binh tối cao;
- Sắc lệnh số 59- SL ngày 5-7-1947 tổ chức Toà án binh
khu Trung ương.
- Thông lệnh liên bộ Quốc phòng - Tư pháp số 60-TL
ngày 28-5-1947 tổ chức Toà án binh tại mặt trận.
Thông tư số 64-TT ngày 06-8-1947 về phân biệt Tòa án
binh và Tòa án thường nêu rõ:
a) Toà án Quân sự có quyền xử tất cả mọi người phạm
tội có tính cách chính trị, chỉ trừ khi người phạm tội là binh sĩ
thì để thuộc quyền Toà án binh xử.
b) Toà án binh thì có quyền xét xử tất cả quân nhân
phạm pháp dù họ phạm vào các tội có tính cách nhà binh hay
các tội định trong hình luật chung.
Nên để ý trong sắc lệnh nói rõ là quân nhân nghĩa là
những người tuyển theo quy tắc quân đội Quốc gia. Còn các
đội cảnh vệ, công an.v.v... thuộc hành chính thì vẫn thuộc
quyền Tòa án tư pháp hoặc Tòa án quân sự tùy từng trường
hợp.
2.3. Hoàn thiện hệ thống Toà án Quân sự
21
Ngày 14-02-1946, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 21
về tổ chức các Toà án Quân sự, Sắc lệnh này bãi bỏ các Sắc
lệnh về Toà án Quân sự: Sắc lệnh ngày 13-9-1945, ngày 26-91945, ngày 29-9-1945, ngày 28-12-1945, ngày 15-01-1946.
Để hướng dẫn thi hành Sắc lệnh số 21 nêu trên, Bộ Tư pháp
đã ban hành Nghị định số 82 ngày 25-02-1946. Ngày 8-021948, bộ Tư pháp ra Thông tư số 28/HC định thẩm quyền của
Toà án Quân sự. Tiếp đó, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số
170-SL ngày 14-4-1948 tổ chức lại các Toà án Quân sự.
2.4. Giải thể Toà án đặc biệt
Ngày 18-12-1949, Chính phủ ra Sắc lệnh số 138-B/SL
thành lập Ban Thanh tra Chính phủ. Điều 1 Sắc lệnh quy
định: “Nay bãi bỏ Sắc lệnh số 64 ngày 23-11-1945 thành lập
Ban Thanh tra đặc biệt”. Như vậy, Sắc lệnh này đã giải thể
Toà án đặc biệt được thành lập theo Sắc lệnh 64 ngày 23-111945.
3. Toà án trong giai đoạn cải cách tư pháp 1950 đến
1958
Như vậy, sau gần 5 năm kể từ ngày giành được chính
quyền, chúng ta đã bãi bỏ bộ máy tư pháp của chế độ chính
quyền, thực dân, phong kiến, thiết lập những Toà án mới,
trong đó có Toà án Quân sự và Toà án binh. Tuy nhiên, các
22
Toà án thường còn mang nặng những ảnh hưởng của nền tư
pháp cũ. Thực hiện một cách máy móc “Toà án tư pháp sẽ
độc lập với các Cơ quan hành chính” (Điều 42 Sắc lệnh số 13
ngày 24-01-1946). “Vậy các Toà án trong thời kỳ kháng chiến
vẫn độc lập với Uỷ ban hành chính. Uỷ ban này không có
quyền kiểm soát, điều khiển các Toà án. Các Thẩm phán
không phải báo cáo với Uỷ ban hành chính” (Thông tư số 693
ngày 25-9-1947 của Bộ Tư pháp).
Mặc dầu Sắc lệnh số 47 ngày 10-10-1945 cho giữ tạm
thời các luật lệ cũ đã chỉ rõ ràng “những điều khoản trong luật
lệ cũ được tạm giữ lại do Sắc lệnh này chỉ thi hành khi nào
không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và
chính thể dân chủ cộng hoà”. Và Thông tư số 34-NV-TP/CT
ngày 7-01-1947 của liên Bộ Nội vụ - Tư pháp cũng đã chỉ rõ:
“Các Thẩm phán phải làm việc với tinh thần chiến đấu, nêu
cao gương hy sinh và xung phong cho dân chúng theo, nên
hết sức gần dân, săn sóc đến dân, đi đến dân chứ không đợi
dân đi đến mình”.
Nhưng nhiều Thẩm phán trong các Toà án thường lúc
đó đã không chú ý vận dụng các chính sách của Chính phủ
vào công tác xét xử và đã hiểu “độc lập” là “biệt lập”, tức
là Toà án không chịu sự lãnh đạo của Đảng, không cần phải
phối hợp với Uỷ ban hành chính, cơ quan công an và đoàn
23
thể nhân dân trong việc bảo vệ chế độ. Tình hình này đã là
một trở ngại cho việc phát huy sức mạnh của Nhà nước, cho
nên Đảng ta đã lần lượt tiến hành một cuộc đấu tranh về tư
tưởng và sau đó là cải cách bộ máy của Toà án.
*Trước hết là Sắc lệnh số 85 ngày 22-5-1950.
+ Về tổ chức: - Bộ máy tư pháp được dân chủ hoá các
Toà án sơ cấp, đệ nhị cấp nay gọi là Toà án nhân dân huyện,
Toà án nhân dân tỉnh. Hội đồng phúc án nay là Toà Phúc
thẩm, phụ thẩm nhân dân nay gọi là hội thẩm nhân dân.
- Thành phần nhân dân được đa số trong việc xét xử: Để
xét xử việc hình và hộ, Toà án nhân dân huyện và tỉnh gồm
một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Toà Phúc thẩm
gồm hai Thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân
dân có quyền xem hồ sơ và biểu quyết.
- Thành lập hội đồng hòa giải tại mỗi huyện nhằm mục
đích giao cho nhân dân trực tiếp phụ trách việc hòa giải tất
cả các việc hộ kể cả việc ly dị mà từ trước tới nay chỉ có
Chánh án Toà án tỉnh mới có thẩm quyền. Biên bản hoà giải
thành có chấp hành lực; đây là một điểm tiến bộ so với thể lệ
cũ. Khi các đương sự đã thoả thuận trước hội đồng hòa giải
thì việc hoà giải được đem thi hành ngay.
- Áo chùng đen của Thẩm phán và luật sư nay bỏ đi.
24
- Xem thêm -