BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
HUỲNH OANH DŨNG
ĐỊNH TỘI DANH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
ĐỊNH TỘI DANH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học : Pgs.Ts Nguyễn Thị Phương Hoa
Học viên
: Huỳnh Oanh Dũng
Lớp
: Cao học Luật - Phú Yên, Khóa 1
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ “Định tội danh Tội cướp giật tài sản
theo luật hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi
thực hiện dưới sự hướng dẫn của Pgs.Ts Nguyễn Thị Phương Hoa. Những
thông tin, tài liệu trong Luận văn được thu thập một cách khách quan, trung
thực, số liệu chứng minh có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của
Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày
tháng
Học viên
HUỲNH OANH DŨNG
năm 2022
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
CTTP
: Cấu thành tội phạm
CQĐT
: Cơ quan điều tra
TANDTC
: Toà án nhân dân tối cao
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật hình sự chính xác, đúng người đúng
tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, kịp thời đáp ứng yêu
cầu cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì việc nghiên
cứu vấn đề định tội danh Tội cướp giật tài sản dưới góc độ lý luận và đánh giá
thực tiễn xử lý Tội cướp giật tài sản, từ đó đề xuất giải pháp kiến nghị bổ sung
sửa đổi hoàn thiện pháp luật góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
định tội danh Tội cướp giật tài sản trong giai đoạn hiện nay là thực sự cần thiết.
Đề tài “Định tội danh Tội cướp giật tài sản theo luật hình sự Việt Nam”
của tác giả ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn có kết cấu được chia làm 02 chương:
Chương 1: Định tội danh Tội cướp giật tài sản trong trường hợp hậu quả
chưa xảy ra.
Chương 2: Định tội danh Tội cướp giật tài sản trong trường hợp có dùng
vũ lực.
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. ĐỊNH TỘI DANH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRONG
TRƯỜNG HỢP HẬU QUẢ CHƯA XẢY RA ................................................... 6
1.1. Lý luận và cơ sở pháp lý hình sự của định tội danh Tội cướp giật tài
sản trong trường hợp hậu quả chưa xảy ra ................................................... 6
1.2. Thực tiễn định tội danh Tội cướp giật tài sản trong trường hợp hậu
quả chưa xảy ra và kiến nghị ........................................................................ 13
Kết luận Chương 1 ............................................................................................. 19
CHƯƠNG 2. ĐỊNH TỘI DANH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRONG
TRƯỜNG HỢP CÓ DÙNG VŨ LỰC .............................................................. 20
2.1. Cơ sở pháp lý hình sự của định tội danh Tội cướp giật tài sản trong
trường hợp có dùng vũ lực ............................................................................ 20
2.2. Thực tiễn định tội danh Tội cướp giật tài sản trong trường hợp có
dùng vũ lực và kiến nghị ............................................................................... 25
Kết luận Chương 2 ............................................................................................. 39
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài sản và quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền quan trọng của
con người của mọi quốc gia trên thế giới. Do đó, việc bảo vệ quyền sở hữu về tài
sản luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chính vì vậy nên Điều 32 Hiến
pháp năm 2013 nước ta khẳng định quyền sở hữu là một quyền thiêng liêng, bất
khả xâm phạm. Trong pháp luật hình sự, quyền sở hữu được bảo vệ thông qua
các quy định trong Chương các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu. Tội cướp giật
tài sản nói riêng diễn biến phức tạp, đã gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, tính
mạng, sức khoẻ của công dân, điều đó đã và đang đặt ra thách thức, trách nhiệm
lớn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh
ngăn chặn và điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo nhanh chóng kịp thời, nghiêm
minh, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội là thật sự khẩn thiết.
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) một lần nữa khẳng
định chính sách hình sự của nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền sở hữu thông
qua các quy định tại Chương VXI, trong đó Tội cướp giật tài sản được quy định
tại Điều 171 của Bộ luật. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự vẫn còn hạn chế là chưa
mô tả dấu hiệu pháp lý của Tội cướp giật tài sản. Một số văn bản hướng dẫn áp
dụng thống nhất pháp luật hình sự chưa được sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính
kịp thời, nhất là thiếu quy phạm định nghĩa và một số quy định liên quan đến các
yếu tố định tội danh nên dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí không
thống nhất trong nhận thức về dấu hiệu pháp lý, đường lối xử lý và thực tiễn
định tội danh Tội cướp giật tài sản.
Qua thực tiễn công tác xét xử cho thấy, một số vụ án cướp giật tài sản khi
hậu quả của tội phạm chưa xảy ra hoặc người phạm tội có sử dụng vũ lực trong
quá trình chiếm đoạt tài sản, các cơ quan tiến hành tố tụng còn nhiều ý kiến tranh
luận khác nhau trong việc định tội danh và áp dụng khung hình phạt. Việc định
tội danh đúng, chuẩn xác không những nâng cao tính nghiêm minh của pháp
luật, có tác dụng răn đe, giáo dục người phạm tội mà còn phân hoá trách nhiệm
hình sự và cá thể hoá hình phạt chính xác, qua đó bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân trong tư pháp hình sự. Ngược lại nếu định tội danh sai sẽ
2
dẫn đến truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, bỏ lọt tội phạm hoặc
hình phạt không tương xứng với tính chất mức độ của hành vi phạm tội…
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn điều tra,
truy tố, xét xử đối với Tội cướp giật tài sản, xác định những bất cập, hạn chế và
nguyên nhân của nó để từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình
sự bảo đảm cho việc định tội danh được áp dụng thống nhất là hết sức cần thiết.
Với những lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Định tội danh Tội cướp giật tài sản
theo Luật hình sự Việt Nam” làm Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bàn về vấn đề định tội danh cho đến nay đã có một số giáo trình, sách
chuyên khảo, sách tham khảo như các công trình sau: GS.TS Lê Văn Cảm và
PGS. TS Trịnh Quốc Toản, Định tội danh (Lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập
thực hành), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2011; PGS. TS Trịnh Quốc Toản,
Một số vấn đề lý luận định tội danh và hướng dẫn giải bài tập về định tội danh,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1999; GS.TS Võ Khánh Vinh, Giáo trình lý luận
chung về định tội danh, Nxb Công an nhân dân, 2013; PGS. TS Dương Tuyết
Miên, Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Công an nhân dân, 2004; Ths.
Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự, Phần Các tội xâm phạm sở
hữu; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm của Trường đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội
phạm của Trường Đại học luật Hà Nội; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần
các tội phạm của Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội…
Dưới góc độ bài viết, đề tài khoa học trên tạp chí Toà án nhân dân, Tạp chí
khoa học pháp lý và một số tạp chí khác đăng và phân tích dấu hiệu pháp lý giữa
các tội cũng như định tội danh đối với từng vụ án cụ thể như: TS.Phan Anh Tuấn
“Định tội danh trong trường hợp một hành vi thỏa mãn dấu hiệu của nhiều
CTTP”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 02/2001; TS. Phạm Minh Tuyên “Cướp
giật tài sản và vấn đề chuyển hóa tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam”
Tạp chí Tòa án, Tòa án nhân dân tối cao, số 19/2017; Ths. Đặng Thúy Quỳnh
“H phạm Tội cướp giật tài sản dẫn đến chết người hay phạm hai Tội cướp giật
tài sản và tội giết người”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 24/2012; Lê Nhật Bảo
3
“Tội cướp giật tài sản những điểm chưa phù hợp” trang Sinh viên và Khoa học
pháp lý, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh số 03/2012…
Dưới góc độ Luận văn thạc sỹ luật học có một số công trình nghiên cứu
về Tội cướp giật tài sản như: Luận văn thạc sỹ luật học “Tội cướp giật tài sản
trong luật hình sự Việt Nam” của Trần Văn Hiệp, năm 2014, Trường đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Luận văn Thạc sỹ Luật học “Tội cướp giật tài
sản theo luật hình sự Việt Nam” của Nông Anh Vượng (2016), Học Viện Khoa
học Xã hội; Luận văn thạc sỹ luật học “Tội cướp giật tài sản theo luật hình sự
Việt Nam” của Nguyễn Văn Lộc, năm 2018, Trường đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh; Luận văn Thạc sỹ Luật học của Bùi Quốc Hà, Định tội danh đối
với Tội cướp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2015; Luận văn thạc sỹ luật học “Tội cướp giật tài sản theo luật hình sự
Việt Nam” của Nguyễn Ngọc Thảo, năm 2020, Trường đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh …
Như vậy, có thể thấy việc nghiên cứu tội phạm cướp giật tài sản là vấn đề
được nhiều tác giả quan tâm. Trong Luận văn này kế thừa những kiến thức lý
luận về định tội danh, phân tích của một số công trình về các hạn chế trong
định tội danh đối với Tội cướp giật tài sản và nhiều khía cạnh pháp lý chưa
được đi sâu đánh giá, phân tích làm rõ để thống nhất trong nhận thức nhất là về
dấu hiệu pháp lý, thời điểm tội phạm được coi là hoàn thành, phạm vi nội hàm
khách thể bị xâm hại và tổng kết thực tiễn định tội danh, áp dụng khung hình
phạt đối với tội phạm này trên phạm vi cả nước trong áp dụng pháp luật xử lý
người phạm tội. Do đó, tiếp tục nghiên cứu lý luận và thực tiễn xử lý hình sự
Tội cướp giật tài sản, từ đó đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả trong việc định tội danh đúng đối với Tội cướp giật tài sản vẫn thực sự là
cần thiết và có ý nghĩa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là qua việc phân tích làm rõ những vấn đề
lý luận, cơ sở pháp lý của định tội danh Tội cướp giật tài sản và thực tiễn áp
dụng, đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm định tội danh
đúng Tội cướp giật tài sản trong thực tiễn truy tố, xét xử.
4
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích, làm rõ cơ sở pháp lý hình sự về định tội danh và thực tiễn định
tội danh Tội cướp giật tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
- Phân tích các trường hợp hạn chế trong thực tế áp dụng pháp luật xử lý
hình sự Tội cướp giật tài sản trong trường hợp hậu quả chưa xảy ra và trong
trường hợp có sử dụng vũ lực để chiếm đoạt tài sản.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận, cơ sở pháp lý và thực tiễn xử lý
hình sự Tội cướp giật tài sản chỉ ra những điểm chưa phù hợp và những vấn đề
cần phải hướng dẫn bổ sung hoàn thiện về Tội cướp giật tài sản.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Đề tài sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp lý thuyết luật học: phân tích các quy định pháp luật về Tội
cướp giật tài sản để làm rõ cơ sở pháp lý hình sự của định tội danh Tội cướp giật
tài sản. Trong đó tác giả sử dụng công cụ phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp nghiên cứu án điển hình: tác giả chọn lọc những vụ án có
nhiều tình tiết phức tạp, nhiều quan điểm xử lý, nghiên cứu những dấu hiệu định
tội, định khung, chuyển hoá tội phạm được thể hiện trong bản án nhằm làm rõ
thực trạng định tội danh trong xử lý Tội cướp giật tài sản trên thực tiễn.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu là những quy định hiện hành của Luật hình sự Việt
Nam về Tội cướp giật tài sản, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự xử lý Tội cướp
giật tài sản.
Phạm vi không gian nghiên cứu: Các bản án đã xét xử trên cả nước.
Phạm vi thời gian nghiên cứu: từ năm 2016 đến năm 2021.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần nhận thức sâu hơn các dấu
hiệu pháp lý, cấu thành tội phạm, thời điểm tội phạm được coi là hoàn thành,
5
phạm vi nội hàm của điều luật, lý luận và thực tiễn định tội danh Tội cướp giật
tài sản.
- Các kiến nghị của Luận văn góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự, nâng
cao chất lượng áp dụng pháp luật hình sự.
- Các kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể được làm tài liệu tham khảo
cho công tác đào tạo, giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 02 chương với tên gọi như sau:
Chương 1. Định tội danh Tội cướp giật tài sản trong trường hợp hậu quả
chưa xảy ra.
Chương 2. Định tội danh Tội cướp giật tài sản trong trường hợp có dùng
vũ lực.
6
CHƯƠNG 1
ĐỊNH TỘI DANH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
TRONG TRƯỜNG HỢP HẬU QUẢ CHƯA XẢY RA
1.1. Lý luận và cơ sở pháp lý hình sự của định tội danh Tội cướp giật
tài sản trong trường hợp hậu quả chưa xảy ra
Khái niệm và đặc điểm của định tội danh Tội cướp giật tài sản
Định tội danh là một hoạt động rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự, là tiền đề cho việc quyết định hình phạt một cách công minh, chính
xác. Định tội danh được các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện từ giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố đến giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Khái niệm định tội
danh và các vấn đề lý luận của nó được một số nhà khoa học luật nghiên cứu và
các quan điểm đều có sự thống nhất về nội hàm của khái niệm này:
Trước hết theo quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh: “Định tội danh là
một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới
chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của
hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật
hình sự quy định CTTP tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu
của CTTP với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và
thông qua các giai đoạn nhất định”1.
Theo quan điểm của GS.TS Lê Cảm: “Định tội danh là một quá trình nhận
thức lý luận có tính chất logic, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành bằng
cách trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ
án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho
xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP tương ứng do luật hình sự quy
định, nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội
phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách
nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật”2.
Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 26-27.
Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội, tr.11.
1
2
7
Còn theo quan điểm của PGS.TS Dương Tuyết Miên cho rằng: “Định tội
danh là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật để xác định một người có phạm tội không, nếu phạm tội thì đó là tội gì,
theo điều nào của Bộ luật Hình sự hay nói cách khác đây là quá trình xác định
tên gọi cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện”3.
Kết hợp các khái niệm định tội danh và quy định tại Điều 171 Bộ luật
Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) về Tội cướp
giật tài sản, theo chúng tôi khái niệm về định tội danh Tội cướp giật tài sản được
định nghĩa như sau:
Định tội danh Tội cướp giật tài sản là một trong những dạng hoạt động
nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự để xác định và ghi nhận về mặt
pháp lý hình sự phù hợp chính xác giữa các tình tiết của hành vi cướp giật tài
sản đã xảy ra trên thực tế với các dấu hiệu của CTTP Tội cướp giật tài sản được
quy định tại Điều 171 BLHS năm 2015.
Các đặc điểm của định tội danh Tội cướp giật tài sản
Từ khái niệm nêu trên, định tội danh Tội cướp giật tài sản ngoài những
đặc điểm chung của định tội danh, còn phản ánh những đặc điểm cơ bản riêng
như sau:
Thứ nhất, định tội danh Tội cướp giật tài sản là hoạt động nhận thức, hoạt
động áp dụng pháp luật hình sự, mà cụ thể là áp dụng các quy định của Bộ luật
Hình sự hiện hành bao gồm cả phần chung và phần các tội phạm vào định tội các
vụ án cụ thể có hành vi cướp giật tài sản.
Thứ hai, trong thực tiễn áp dụng pháp luật hoạt động định tội danh Tội
cướp giật tài sản do các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền theo quy định
và trình tự của pháp luật để xác định một người có phạm Tội cướp giật tài sản
được quy định tại Điều 171 BLHS năm 2015 hay không.
Thứ ba, định tội danh Tội cướp giật tài sản được tiến hành bằng cách trên
cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết khách quan của vụ
3
Dương Tuyết Miên (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb Công an nhân dân, tr.9.
8
án xảy ra để đối chiếu, so sánh và kiểm tra xác định sự phù hợp giữa hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu đặc trưng của CTTP
cướp giật tài sản được quy định tại Điều 171 BLHS năm 2015.
Thứ tư, kết quả của quá trình định tội danh chính thức đối với Tội cướp
giật tài sản thể hiện thông qua một văn bản áp dụng pháp luật và bởi cơ quan,
chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Cơ sở pháp lý hình sự của định tội danh Tội cướp giật tài sản trong
trường hợp hậu quả chưa xảy ra
Bộ luật Hình sự quy định tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là
tội phạm, điều này thể hiện trực tiếp nhất tại Điều 2 BLHS năm 2015 khi quy
định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải
chịu trách nhiệm hình sự”. Do đó, trong quá trình định tội danh thì quy định của
Bộ luật Hình sự có ý nghĩa quyết định và quan trọng nhất, nó đóng vai trò là cơ
sở pháp lý hình sự duy nhất của việc định tội danh. Chỉ có BLHS mới quy định
tội phạm và hình phạt, điều này có nghĩa là một người chỉ bị coi là phạm tội và
bị xử lý khi hành vi mà họ thực hiện được quy định trong BLHS, không một cá
nhân, cơ quan, tổ chức nào có quyền được xác định hành vi do một người thực
hiện có phải là tội phạm hay không và mức xử phạt như thế nào.
Bộ luật Hình sự bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật được sắp xếp làm
hai phần: Phần chung và phần các tội phạm. Trong đó, phần chung của BLHS
ghi nhận nhiệm vụ, nguyên tắc xử lý, các chế định cơ bản và quan trọng nhất của
luật hình sự là tội phạm và hình phạt, cũng như các vấn đề khác như hình phạt,
hệ thống hình phạt, các biện pháp tư pháp, quyết định hình phạt, xoá án tích….
Phần các tội phạm quy định tên gọi các tội phạm cụ thể, các dấu hiệu pháp lý
hình sự cơ bản, loại và mức hình phạt cụ thể đối với từng hành vi phạm tội tương
ứng. Việc áp dụng các quy định của phần này phải dựa trên các quy phạm của
phần chung của BLHS. Ngược lại các quy định của Phần chung là cơ sở, nền
tảng của phần các tội phạm. Như vậy, khi tiến hành định tội danh cần phải căn
cứ vào cả quy phạm phần chung và quy phạm phần các tội phạm của BLHS năm
2015. Có như vậy, việc định tội danh mới đảm bảo đủ cơ sở pháp lý để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi đó.
9
Tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 171, Chương XVI - Các tội
phạm xâm phạm sở hữu của BLHS năm 2015: quy định những dấu hiệu đặc
trưng, điển hình, bắt buộc không thể thiếu trong CTTP. Những dấu hiệu đó là
khuôn mẫu pháp lý làm cơ sở cho người tiến hành tố tụng so sánh, đối chiếu với
hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trên thực tế, từ đó xác định người thực hiện
hành vi nguy hiểm đó có đủ yếu tố cấu thành Tội cướp giật tài sản hay không,
được quy định tại Khoản nào của Điều 171 BLHS.
Cấu thành tội phạm của Tội cướp giật tài sản
Cấu thành tội phạm bao gồm tổng hợp các yếu tố khách quan và chủ quan
đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong pháp luật hình sự.4
Điều 171 BLHS năm 2015 quy định: “Người nào cướp giật tài sản của
người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm”. Như vậy, điều luật không
mô tả cụ thể những dấu hiệu hay hành vi khách quan của Tội cướp giật tài sản
mà chỉ nêu tội danh. Do vậy, dẫn đến có rất nhiều cách hiểu khác nhau, có quan
điểm cho rằng: Tội cướp giật giật tài sản là hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài
sản một cách công khai 5, hoặc cướp giật tài sản là nhanh chóng giật lấy tài sản
của người khác một cách công khai rồi tìm cách tẩu thoát 6, hoặc Tội cướp giật
tài sản là hành vi nhanh chóng, công khai chiếm đoạt tài sản 7.
Tội cướp giật tài sản là tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài
sản của chủ thể khác với lỗi cố ý. Người phạm tội cướp giật tài sản phải có mục
đích chiếm đoạt từ trước và thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng cách công
khai, nhanh chóng giật lấy tài sản đang được người khác quản lý, sử dụng rồi tẩu
thoát nhưng không dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc một thủ đoạn nguy
hiểm nào nhằm uy hiếp tinh thần của người đang quản lý tài sản.
Để định tội danh Tội cướp giật tài sản nói chung và trong trường hợp hậu
quả chưa xảy ra nói riêng phải dựa vào các yếu tố CTTP của tội này:
Khách thể của Tội cướp giật tài sản
Nguyễn Ngọc Hoà (2004), Cấu thành tội phạm: Lý Luận và thực tiễn , Nxb tư pháp, Hà Nội, tr.8
Trường Đại học luật Hà Nội (2000), Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, tr. 378.
6
Đinh Văn Quế (2003), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự- Phần các tội xâm phạm sở hữu, NXB Thành
phố Hồ Chí Minh, tr. 157.
7
Võ Khánh Vinh (2014), tlđd (1), tr.177.
4
5
10
Tội cướp giật tài sản xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác8.
Đối tượng bị xâm hại trái pháp luật của Tội cướp giật tài sản phải là những tài
sản dưới dạng vật chất (vật, tiền, giấy tờ có giá) có giá trị, thông thường là những
tài sản gọn, nhẹ về trọng lượng và thể tích như: dây chuyền vàng, đồng hồ, túi
xách…để người phạm tội có thể nhanh chóng thực hiện hành vi chiếm đoạt rồi
nhanh chóng thoát khỏi sự quản lý của người đang quản lý tài sản. Một số trường
hợp người phạm tội cướp giật cả tài sản cồng kềnh, to lớn như: xe máy, xe ôtô vì
sau khi giật được tài sản người phạm tội dùng chính tài sản đó để tẩu thoát. Tài
sản mà loại tội phạm này hướng đến có đặc điểm là còn đang nằm trong sự
chiếm hữu và thuộc sự quản lý của chủ tài sản.
Những tài sản mang tính chất tự nhiên như rừng nguyên sinh, khoáng sản,
động vật hoang dã trong rừng, tài sản có tính năng đặc biệt như vũ khí, công
trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia… không phải là đối tượng của
các tội xâm phạm sở hữu nói chung và Tội cướp giật tài sản nói riêng.
Tài sản là đối tượng của Tội cướp giật tài sản không được luật hình sự quy
định về giá trị tối thiểu, tức là giá trị tài sản bị chiếm đoạt không ảnh hưởng tới
việc định tội đối với hành vi giật tài sản, điều này xuất phát từ tội phạm cướp
giật tài sản có tính chất mức độ nguy hiểm cao. Theo Bình luận khoa học Bộ luật
Hình sự của tập thể tác giả PGS.TS Trần Văn Luyện, PGS.TS Phùng Thế Vắc thì
tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi
khách quan được mô tả trong điều luật. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt không ảnh
hưởng tới việc định tội đối với hành vi cướp giật tài sản9. Đây cũng là một điểm
khác của Tội cướp giật tài sản so với các tội khác trong nhóm tội xâm phạm sở
hữu như: Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, Tội trộm cắp tài sản, Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, …
Mặt khách quan của Tội cướp giật tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là sự tổng hợp các dấu hiệu bên ngoài của
tội phạm bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội;
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần các tội phạm
quyển I, Nxb Hồng Đức, tr.185.
9
Trần Văn Luyện, Phùng Thế Vắc (chủ biên) (2018), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 2015, Nxb Công
an nhân dân, tr.176.
8
11
thực hiện tội phạm như: thời gian, địa điểm, phương tiện, công cụ phạm tội, hoàn
cảnh phạm tội…10.
Dấu hiệu đặc trưng của Tội cướp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của
người khác một cách công khai,nhanh chóng, chiếm đoạt tức là dịch chuyển tài sản
từ người đang quản lý hợp pháp qua người phạm tội một cách cưỡng ép, trái ý
muốn của chủ tài sản để tạo cho mình khả năng định đoạt đối với tài sản đó. Dấu
hiệu chiếm đoạt trong Tội cướp giật tài sản là một dấu hiệu bắt buộc dù tài sản là
đối tượng của hành vi cướp giật tài sản đó bị chiếm đoạt hoàn toàn hay chưa.
Tính công khai của hành vi chiếm đoạt tài sản được thể hiện người phạm
tội không có ý thức che giấu hành vi phạm tội của mình, khi thực hiện hành vi
phạm tội thì chủ tài sản, người quản lý tài sản hoặc có thể người xung quanh biết
ngay. Tính công khai là công khai về chính hành vi chiếm đoạt chứ không phải
công khai về thân phận của người thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy dù người
phạm tội thực hiện hành vi vào ban đêm hay có những thủ đoạn làm cho chủ sở
hữu hoặc người quản lý tài sản không nhận ra người phạm tội như: đeo mặt nạ,
hóa trang… thì hành vi đó vẫn là hành vi cướp giật tài sản. Nếu hành vi của
người phạm tội chỉ công khai với mọi người nhưng lại không công khai với chủ
tài sản thì không được coi là hành vi công khai chiếm đoạt tài sản trong mặt
khách quan của Tội cướp giật tài sản.
Dấu hiệu đặc thù và tiêu biểu nhất bắt buộc phải có trong mặt khách quan
của Tội cướp giật tài sản là ở thủ đoạn “nhanh chóng”. Có thể nói đặc trưng của
Tội cướp giật tài sản là hành vi “giật”, tức là giằng mạnh lấy tài sản về mình một
cách nhanh chóng, khẩn trương, gấp rút nhằm bỏ trốn.
Cướp giật tài sản là chiếm đoạt tài sản một cách công khai, nhưng người
phạm tội lại không muốn đối đầu với người trực tiếp quản lý tài sản nên đã
chọn phương pháp nhanh chóng chiếm đoạt tài sản, nhanh chóng tẩu thoát. Dấu
hiệu nhanh chóng là xuyên suốt trong toàn bộ quá trình tội phạm diễn ra từ khi
bắt đầu tiếp cận tài sản đến khi kết thúc (nhanh chóng tẩu thoát).
Theo quy định của pháp luật, một người thực hiện hành vi công khai,
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác thì đủ yếu tố cấu thành Tội cướp
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần chung, Nxb Hồng
Đức, tr.144.
10
12
giật tài sản theo Khoản 1, Điều 171 BLHS. Tuy nhiên, trong trường hợp người
phạm tội đã thực hiện hành vi “giật” nhưng chưa chiếm đoạt được tài sản, trong
thực tiễn để xử lý người phạm tội đối với trường hợp này hiện nay vẫn còn tranh
chấp, chưa thống nhất trong nhận thức, đánh giá hành vi, quan điểm xét xử và áp
dụng pháp luật giữa các Toà án. Nguyên nhân ở đây là do chưa có sự thống nhất
và hướng dẫn của pháp luật về CTTP cướp giật tài sản nên tội phạm này còn tồn
tại hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Tội cướp giật tài sản có CTTP vật chất. Điều
này có nghĩa rằng hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi khách quan là dấu
hiệu bắt buộc và thời điểm hoàn thành là khi người phạm tội giật được tài sản từ
người quản lý tài sản. Theo tác giả Đinh Văn Quế thì chỉ khi nào người phạm tội
giật được tài sản thì khi đó tội phạm cướp giật được hoàn thành, nếu có hành vi
giật nhưng chưa giật được tài sản thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.11
Quan điểm thứ hai cho rằng: Tội cướp giật tài sản có CTTP hình thức.
Điều này có nghĩa rằng hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi không phải là
dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của CTTP Tội cướp giật tài sản và thời
điểm hoàn thành là thời điểm mà người phạm tội thực hiện hành vi cướp giật tài
sản, cho dù họ chiếm đoạt được hay chưa chiếm đoạt được tài sản. Tội phạm
được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện những hành vi
khách quan mà điều luật đã mô tả12.
Chủ thể của Tội cướp giật tài sản
Chủ thể của Tội cướp giật tài sản phải là người có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định13.
Chủ thể của Tội cướp giật tài sản quy định tại Khoản 1 Điều 171 BLHS năm
2015 là người từ đủ 16 tuổi trở lên, vì quy định tại Khoản 1 Điều 171 BLHS là tội
phạm nghiêm trọng phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 12 BLHS năm 2015.
Chủ thể của Tội cướp giật tài sản quy định tại Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4
Điều 171 BLHS là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và không thuộc trường
hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự, vì quy định tại Khoản 2, Khoản 3,
Đinh Văn Quế (2003), tlđd (6), tr. 157.
Trần Văn Luyện, Phùng Thế Vắc (chủ biên) (2018), tlđd (9), tr.176.
13
Lê Cảm (2005), tlđd (2), tr. 357.
11
12
13
Khoản 4 Điều 171 BLHS là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 12 BLHS năm 2015.
Mặt chủ quan của Tội cướp giật tài sản
Về mặt chủ quan người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là trái
pháp luật, biết tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác nhưng vẫn muốn
chiếm đoạt bằng được.
Lỗi cố ý là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của Tội cướp giật tài sản. Người
có hành vi cướp giật tài sản phải có mục đích chiếm đoạt tài sản từ trước khi
thực hiện hành vi. Họ mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác và
chủ động thực hiện hành vi để đạt mục đích của mình.
Nếu người thực hiện hành vi giật tài sản nhưng lại không mong muốn
chiếm đoạt tài sản, tức là họ đã không có lỗi cố ý đối với hậu quả thì người đó
không thể là chủ thể của Tội cướp giật tài sản.
Ví dụ như: A giật điện thoại của B để ngăn cản B chụp hình mình, trong
trường hợp này hành vi của A có đầy đủ dấu hiệu như ở mặt khách quan của Tội
cướp giật tài sản nhưng A không có ý thức chiếm đoạt điện thoại của B mà giật
điện thoại chỉ để ngăn cản chụp hình nên A không phạm Tội cướp giật tài sản.
1.2. Thực tiễn định tội danh Tội cướp giật tài sản trong trường hợp
hậu quả chưa xảy ra và kiến nghị
Thực tiễn áp dụng pháp luật về Tội cướp giật tài sản cho thấy trong nhiều
vụ án cướp giật tài sản các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiều sai sót trong xác
định CTTP, thời điểm tội phạm được coi là hoàn thành, điều này làm cho việc
định tội danh và áp dụng hình phạt không chính xác. Vấn đề trên thể hiện rõ qua
các quan điểm về CTTP trong thực tiễn xét xử như sau:
Trong vụ án Trần Phát Tài phạm tội cướp giật tài sản Tòa án đã xác định
thời điểm hoàn thành của tội phạm trên cơ sở nhận thức Tội cướp giật tài sản là
tội có CTTP vật chất.
Vụ án số 01:
Khoảng 23 giờ, ngày 03/12/2018, Dương Thị Hồng Oanh điều khiển xe
môtô biển số 65F6-8606 chở Trần Phát Tài đi trên đường Nguyễn Văn Linh,
14
hướng từ quận Ninh Kiều đến quận Ô Môn, TP. Cần Thơ. Trên đường đi, Tài
nhìn thấy anh Ngô Ngọc Dũng đang điều khiển xe môtô đi cùng chiều phía trước
có để 01 ba lô trên ba ga xe nên Tài nảy sinh ý định giật lấy tài sản của anh Dũng
(bên trong có một máy vi tính xách tay Fujitsu, tổng trị giá 3.800.000đ.). Tài rủ
Oanh đồng ý nên Tài kêu Oanh điều khiển xe theo sát xe anh Dũng để chiếm
đoạt tài sản. Khi đến bến đò Đu Đủ thuộc khu vực Thới Trinh, phường Phước
Thới, quận Ô Môn, Oanh chạy áp sát xe anh Dũng, Tài dùng dây thắt lưng đánh
vào phía sau đầu có đội mũ bảo hiểm của anh Dũng, Dũng bị đau và hốt hoảng
nên tay lái bị chao đảo, Tài chồm qua giật ba lô nhưng bị vuột tay. Dũng tri hô
nên Oanh điều khiển xe bỏ chạy. Lúc này có lực lượng tuần tra giao thông trên
đường nên đuổi theo chặn bắt giữ được Oanh và xe môtô. Tài bỏ trốn và sau đó
bị giữ theo lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngày 04/12/2018.
Ngày 31/7/2019 Tòa án nhân dân quận Ô Môn, TP.Cần Thơ, tuyên xử
Trần Phát Tài và Dương Thị Hồng Oanh phạm tội “Cướp giật tài sản” theo Điểm
d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự 2015, Điểm h Khoản 1 Điều 51; Điểm o
Khoản 1 Điều 52; Khoản 3 Điều 57 BLHS; xử phạt Trần Phát Tài 03 năm 06
tháng tù giam và Dương Thị Hồng Oanh 01 năm tù giam.
Tại bản án số: 121/2019/HS-PT ngày 01/11/2019 của Tòa án nhân dân thành
phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm nhận định: Việc sử dụng vũ lực là nhằm chiếm đoạt
tài sản. Bị cáo đã cố giật ba lô của bị hại, nhưng do xe môtô của bị hại bị chao đảo,
nên túi xách vuột khỏi tay của bị cáo. Không chiếm đọat được tài sản là ngoài ý
muốn của bị cáo. Lẽ ra, phải xét xử các bị cáo về Tội cướp tài sản, là tội nặng hơn.
Do không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng nặng, nên giữ nguyên.
Do đó, Tòa phúc thẩm tuyên phạt: Trần Phát Tài 3 (ba) năm 6 (sáu)
tháng tù về Tội cướp giật tài sản thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo
Điểm d Khoản 2 Điều 171; Điểm h Khoản 1 Điều 51; Điểm 0 Khoản 1 Điều 52;
các Điều 15, 17, 53 và 57 Bộ luật Hình sự.14
Nhận xét đánh giá:
Trong vụ án này, bị cáo Tài đã thực hiện hành vi “giật” nhưng chưa chiếm
đoạt được tài sản, nguyên nhân là do người bị hại bị chao đảo tay lái làm cho Tài
Bản án số 121/2019/HS-PT ngày 01/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm
Trần Phát T về Tội cướp giật tài sản.
14
- Xem thêm -