ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐÀO VĨNH HỢP
MIẾU VÀ HỘI QUÁN CỦA NGƯỜI HOA Ở VIỆT NAM
(TỪ CUỐI THẾ KỶ XVI ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XIX)
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam cổ đại và trung đại
Mã số: 62.22.54.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2020
Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN – ĐHQG TP.HCM
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. TRẦN THỊ MAI
2. TS. HOÀNG ANH TUẤN
Chủ tịch hội đồng:........................................................................
Phản biện độc lập 1:.....................................................................
Phản biện độc lập 2......................................................................
Phản biện 1:.....................................................................
Phản biện 2:.....................................................................
Phản biện 3......................................................................
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường vào lúc
......giờ .....phút......ngày.....tháng......năm......
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
1. Thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
2. Thư viện Trung tâm Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
3. Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM
4. Phòng Tư liệu Khoa Lịch sử, ĐHKHXH&NV – ĐHQG TP.HCM
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
I. BÀI BÁO ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ TRONG NƯỚC
1. 2015. “Kiến trúc cổ các hội quán của người Hoa ở Hội An (Quảng Nam)”. Tạp chí Phát triển
Khoa học & Công nghệ – ĐHQG TP. HCM. X5/2015. tr.51 – 63. ISSN: 1859 – 0128.
2. 2018. “Cộng đồng người Hoa ven biển miền Trung trong giao lưu văn hóa. hội nhập và phát
triển”. Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ – ĐHQG TP. HCM. Tập 2. Số 4. 2018. tr.11 – 20.
ISSN: 1859 – 0128.
3. 2016. “Hoành phi liễn đối tại hội quán Trung Hoa (Hội An) – giá trị tư liệu quý cần nghiên cứu
bảo tồn”. Tạp chí Phát triển Khoa học & Công nghệ – ĐHQG TP. HCM. X4/2016. tr.166 – 179. ISSN:
1859 – 0128.
4. 2016. “Miếu. hội quán của người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh – Lịch sử hình thành. phát
triển và hiện trạng”. Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn. Số 21 (46) (10/2016). tr.91-98. ISSN: 1859 –
3208.
5. 2018. “Miếu và hội quán của người Hoa ở Đông Nam Bộ trước tác động của quá trình đô thị
hóa”. Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một. số 1(36) – 2018. tr.125-133.
ISSN: 1859 – 4433.
6. 2018. “Tín ngương thờ cúng Thiên Hâ ̣u của cô ̣ng đồng người Hoa ở ven biển miền Trung
(trường hợp khu ṿc Trung Trung Bô ̣)”. Tạp chí phát triển kiinh t́ – xã hô ̣i Đà Năng. Số 107 (11.2018).
tr.53-59. ISSN: 1859 – 3437.
II. BÀI BÁO ĐĂNG TRÊN KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ
7. 2014. “Lễ vía Bà Thiên Hậu ở Hội An trong quá trình phát triển du lịch”. Kỷ ýu Hội thảo
kihoa học quốc t́ “Lễ hội cộng đồng: truyền thống và bín đổi”. NXB. ĐHQG TP.HCM. ISBN: 978 –
604 – 73 – 2701 – 0.
8. 2017. “Tourism development in Hoi An ancient town – the world heritage (Quang Nam
province) inherent in preservation and bringing into play the huiguans architecture of the Hoa people”.
Kỷ ýu Hội thảo Khoa học quốc t́: “Critical issues for sustainable tourism development in South East
Asia”. NXB. ĐH QG Hà Nội. ISBN: 987 – 604 – 62 – 9781 – 9.
9. 2018. “Triết lý nhân sinh của người Hoa ở Nam Bộ nhìn từ khía cạnh văn hóa tâm linh (nghiên
cứu trường hợp người Hoa ở An Giang)”. Kỷ ýu Hội thảo Quốc t́: “Trít lý nhân sinh của người dân
Nam Bộ. Việt Nam”. NXB. ĐH Cần Thơ. ISBN: 978 – 604 – 965 – 094 – 9.
10. 2018. “Bảo tồn và phát huy giá trị kiến trúc cổ các hô ̣i quán người Hoa ở Hô ̣i An (Quảng
Nam) trong phát triển du lịch bền vưng”. Kỷ ýu Hô ̣i thảo kihoa học quốc t́ (ć phản bỉ ̣n) chủ đề: Ḱt
nối Vỉṭ Nam lần th́ 9 – Đối thoại lỉn ngành. NXB. ĐHQG TP.HCM. ISBN: 978 – 604 – 73 – 6621 –
7.
11. 2019. “Khai thác giá trị di sản văn hóa Phật giáo phục vụ phát triển du lịch bền vưng tại Hội
An (Quảng Nam)”. Kỷ ýu Hội thảo Khoa học Quốc t́ Vesaki LHQ 2019 “Cách típ cận của Phật giáo
về l̃nh đạo toàn cầu và trách nhiệm cùng chia sẻ vì xã hội bền vững”. Tiểu ban “Gia Đình hòa hợp và
xã hội bền vững”. NXB. Tôn giáo. ISBN: 978 – 604 – 61 – 62701 – 4.
III. BÀI BÁO ĐĂNG TRÊN KỶ YẾU HỘI THẢO TRONG NƯỚC
12. 2014. “Tín ngương thờ cúng Thiên Hậu trong các miếu. hội quán của người Hoa ở Thành
phố Hồ Chí Minh (Qua khảo sát hiện trạng các miếu (hội quán)”. Kỷ ýu Hội thảo kihoa học quốc gia
“Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ – Bản sắc và giá trị”. NXB. Đại học QG TP. HCM. ISBN: 978 – 604
– 73 – 2530 – 6.
13. 2015. “Văn hóa gia đình. dòng họ của người Hoa. Minh Hương ở Hội An trong phát triển du
lịch hiện nay”. Kỷ ýu Hội thảo cấp quốc gia “Văn hoá gia đình. dòng và gia phả Việt Nam”. NXB.
ĐHQG TP.HCM. ISBN: 978 – 604 – 73 – 3839 – 3.
14. 2016. “Các miếu Hoa ở Bình Dương trong quá trình đô thị hóa hiện nay”. Kỷ ýu Hội thảo
cấp quốc gia “20 năm đô thị h́a Bình Dương”. Hô ̣i thảo được tổ chức tại Đại học Thủ Dầu Một ngày
16.1.2016.
15. 2016. “Nhưng cổ vật thờ ṭ gắn với ngôi miếu Hoa đầu tiên ở Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí
Minh”. Kỷ ýu Hội nghị thông báo kihảo cổ toàn quốc học lần th́ 50. NXB. KHXH. ISBN: 978 – 604
– 73 – 3839 – 3.
16. 2016. “Các giá trị văn hóa truyền thống của người Hoa ở Bình Dương trong quá trình phát
triển và hội nhập hiện nay”. Kỷ ýu Hội thảo Khoa học cấp quốc gia “Bình Dương 20 năm hội nhập và
phát triển 1997 – 2007”. Hội thảo do trường ĐH Thủ Dầu Một phối hợp với trường ĐH KHXHNV TP.
HCM và Hội KHLS Bình Dương tổ chức. ngày 26/12/2016.
17. 2017. “Tín ngương thờ nư thần trong các miếu. hội quán của người Hoa ở Đồng Nai (qua
khảo cứu hiện trạng các di tích tại Biên Hòa)”. Kỷ ýu Hội thảo Khoa học “Tín ngưỡng thờ nữ thần và
thực hành B́ng rỗi – Địa nàng ở Nam Bộ”. Hội thảo do Hội văn hóa dân gian TP. HCM. Hội KHLS
tỉnh Đồng Nai và Sở VH – TT – DL Đồng Nai tổ chức ngày 23/5/2017.
18. 2017. “Điểm qua nhưng nghiên cứu của người nước ngoài về người Hoa ở Nam Bộ từ sau
năm 1698 đến nay”. Kỷ ýu Hội thảo kihoa học “Nam Bộ từ năm 1698 đ́n nay qua nghỉn ću của
người nước ngoài”. Hội thảo được tổ chức tại ĐH Thủ Dầu Một ngày 31/8/2017.
19. 2017. “Trang trí trên các lư hương cổ trong các Miếu – Hội quán của người Hoa ở TP.
HCM”. Kỷ ýu Hội nghị thông báo kihảo cổ học toàn quốc lần th́ 51/ năm 2016. NXB. KHXH. ISBN:
978 – 604 – 956 – 060 – 6.
20. 2017. “Liên hệ giưa miếu và Hội quán người Hoa ở TP. HCM và Hội An qua một số cổ vật
thờ”. Kỷ ýu Hội nghị thông báo kihảo cổ học toàn quốc lần th́ 51/ năm 2016. NXB. KHXH. ISBN:
978 – 604 – 956 – 060 – 6.
21. 2017. “Bảo tồn. phát huy giá trị kiến trúc tín ngương. tôn giáo của người Hoa ở thành phố
Hồ Chí Minh trong quá trình đô thị hóa: Tḥc trạng và giải pháp”. Kỷ ýu Hội thảo kihoa hoc quốc gia
“Đô thị h́a và phát triển đô thị bền vững vùng Nam Bộ: Lý luận. thực tiễn và đối thoại chính sách”.
NXB. KHXH. ISBN: 978 – 604 – 956 – 116 – 0.
22. 2018. “Phát triển du lịch Di sản văn hóa ở TP. HCM qua các kiến trúc tín ngương. văn hóa
của người Hoa”. Kỷ ýu Hô ̣i thảo Khoa học “Phát triển Du lịch Di sản văn h́a tr̉n địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh”. Hội thảo do Sở Du lịch TP. HCM phối hợp với Hô ̣i DSVH TP. HCM tổ chức ngày
22/11/2018.
23. 2018. “Mô ̣t số di vâ ̣t niên đại sớm ở Hô ̣i quán Triều Châu. phường Sơn Phong. thành phố
Hô ̣i An. tỉnh Quảng Nam”. Kỷ ýu Hô ̣i nghị thông báo kihảo cổ học toàn quốc năm 2017: Những phát
hỉ ̣n mới về Khảo cổ học năm 2017. NXB. KHXH – HN. ISBN: 978 – 604 – 956396 – 6.
24. 2018. “Bô ̣ lư hương ngu ṣ ở miếu Thiên Hâ ̣u – hô ̣i quán Quynh Phủ tại Thành Phố Hồ Chí
Minh. Kỷ ýu Hô ̣i nghị thông báo kihảo cổ học toàn quốc năm 2017: Những phát hỉṇ mới về Khảo cổ
học năm 2017. NXB. KHXH – HN. ISBN: 978 – 604 – 956396 – 6.
25. 2018. “Kiến trúc cổ hô ̣i quán Quảng Triê ̣u ở thành phố Hô ̣i An. tỉnh Quảng Nam”. Kỷ ýu
Hô ̣i nghị thông báo kihảo cổ học toàn quốc năm 2017: Những phát hỉ ̣n mới về Khảo cổ học năm 2017.
NXB. KHXH – HN. ISBN: 978 – 604 – 956396 – 6.
26. 2018. “Đă ̣c điểm lối sống quần cư và tương trợ lân nhau của cô ̣ng đồng người Hoa ở Bình
Dương nhìn từ góc đô ̣ kinh tế và văn hóa”. Kỷ ýu Hô ̣i thảo kihao học cấp quốc gia “ Phát triển xã hô ̣i
học công ở Vỉṭ Nam”. Hô ̣i thảo do trường ĐHKHXHNV TP. HCM và Viê ̣n KHXH vung Nam Bô ̣ tổ
chức ngày 21/12/2018 tại trường ĐH KHXHNV TP. HCM.
27. 2018. “Mối quan hê ̣ giưa Phâ ̣t giáo với tín ngương thờ Mâu qua hoạt đô ̣ng thờ cúng và lễ hô ̣i
tại các di tích hô ̣i quán của người Hoa ở Hô ̣i An (Quảng Nam)”. Kỷ ýu Hô ̣i thảo kihoa học Quốc gia
“Phâ ̣t giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu ở Vỉ ̣t Nam”. Hô ̣i thảo do Viê ̣n nghiên cứu tôn giáo (Viê ̣n Hàn lâm
KHXH VN) và Học viê ̣n Phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam tại Hà Nô ̣i (Giáo hô ̣i Phâ ̣t giáo Viê ̣t Nam) tổ chức ngày
16/12/2018.
IV. SÁCH XUẤT BẢN TRONG NƯỚC
28. 2012. “Dấu ấn về một ngôi miếu cổ bên dòng kênh Tàu Hủ”. Nam Bộ Đất và Người. Tập 9.
ĐHQGTP. HCM. tr. 134 – 142. NXB. ĐHQG TP. HCM. ISBN: 565 – 2013/CXB/04 – 31
29. 2014. “Người Hoa và các miếu Hoa ở An Giang”. Nam bộ Đất và Người. Tập 11. NXB.
ĐHQG TP. HCM. tr.611 – 629. NXB. ĐHQG TP. HCM. ISBN: 978 – 604 – 73 – 4227 – 3.
30. 2016. “Tiềm năng phát triển du lịch ở thành phố Cần Thơ qua di sản miếu. hội quán của
người Hoa”. Nam Bộ Đất và Người. Tập 12. NXB. ĐHQG TP. HCM. tr.676 – 689.
NXB. ĐHQG
TP. HCM. ISBN: 978 – 604 – 73 – 5518 – 1.
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lý do khoa học
Khởi phát từ ṣ di cư khoi Trung Quốc, rồi nhâp̣ cư và sinh sống trên đất Viê ̣t
Nam, người Hoa đã dần dần xây ḍng riêng cho mình các cơ sở kinh tế – xã hô ̣i và văn
hóa để phục vụ nhu cầu sinh tồn, phát triển trên vung đất mới. Ngoài nhưng cơ sở vâ ̣t
chất căn bản như nhà cửa, nơi sản xuất, làm ăn buôn bán thì viê ̣c thiết lâ ̣p các thiết chế
mang tính chất cô ̣ng đồng là rất quan trọng. Các cơ sở như cảng, chợ, khu phố, hô ̣i
quán, miếu, trường học, bê ̣nh viê ̣n, nghia trang… và ṣ vâ ̣n hành, hoạt đô ̣ng của chúng
tạo thành các thiết chế xương sống của các khu định cư, hình thành nên đời sống cộng
đồng đặc trưng của người Hoa. Trong số đó, miếu và hô ̣i quán là hai thiết chế ra đời
sớm, tồn tại liên tục và có vai trò thiết yếu đối với cô ̣ng đồng người Hoa ở Viê ̣t Nam.
Nhưng công trình nghiên cứu trước đây về người Hoa ở Việt Nam dưới góc đô ̣ sử học
đã tập trung làm rõ tiến trình thiết lập cộng đồng, các chính sách của nhà nước Việt
Nam qua các thời ky, các hoạt động thương mại của người Hoa,... tuy nhiên chưa có
điều kiện đi sâu vào bên trong tổ chức cộng đồng và chưa đề câ ̣p đến thiết chế miếu,
hô ̣i quán một cách có hệ thống.
1.2. Lý do thực tiễn
Nghiên cứu miếu, hội quán, một loại hình di sản vật chất và tinh thần quan trọng
của người Hoa tḥc chất nhằm hiểu rõ và ứng xử đúng đắn với cộng đồng người Hoa
trong quá khứ và hiện tại, điều đó có tầm quan trọng nhiều mặt đối với ṣ phát triển
của Việt Nam. Hiện nay, miếu và hội quán liên quan tṛc tiếp đến các vấn đề của xã
hội Việt Nam nói chung và cộng đồng Hoa nói riêng, chủ yếu trên 3 linh ṿc: phát
triển kinh tế, vấn đề dân tộc và bảo tồn di sản văn hóa.
Từ nhưng căn cứ khoa học và tḥc tiễn nêu trên, tôi chọn đề tài “Miếu và hội
quán của người Hoa ở Việt Nam (từ cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX)” làm đề
tài Luâ ̣n án tiến si lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Viê ̣t Nam cổ đại và trung đại.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án đặt mục đích làm rõ nhưng vấn đề lịch sử liên quan đến quá trình thành
lập, hoạt động và phát triển thiết chế miếu và hội quán của người Hoa ở Việt Nam qua
2
3 thế kỷ (cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX). Đồng thời, từ nhưng vấn đề khoa học
được làm rõ, luâṇ án gợi mở nhưng vấn đề của tḥc tiễn, chủ yếu trên ba linh ṿc: vấn
đề dân tô ̣c, phát triển kinh tế và bảo tồn di sản đối với cộng đồng người Hoa.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu miếu và hô ̣i quán nhằm hiểu biết sâu sắc hơn, toàn diê ̣n
hơn về lịch sử cô ̣ng đồng người Hoa ở Viê ̣t Nam; làm rõ nhưng vấn đề lịch sử Viê ̣t
Nam thế kỷ XVI - XIX, đă ̣c biê ̣t về khía cạnh lịch sử kinh tế, văn hóa; tìm hiểu quá
trình hình thành các đô thị ở Viê ̣t Nam thời trung đại; làm rõ hơn nhưng đặc điểm về
quá trình tiếp biến văn hóa giưa cộng đồng Hoa với các cộng đồng dân tộc khác trên
đất nước Việt Nam và tính dung hợp văn hóa trong nền văn hóa Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tương nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luâ ̣n án là thiết chế miếu và hô ̣i quán của người Hoa ở
Viê ̣t Nam. Đối với miếu, đây là nhưng cơ sở tín ngương cộng đồng có chức năng thờ
ṭ các vị thần thánh dân gian của cư dân các vung duyên hải phía Đông Nam Trung
Hoa. Đối với hội quán, đây vừa là một tổ chức xã hội (có vai trò điều phối các mối
quan hệ xã hội, đặc biệt trên linh ṿc sinh hoạt kinh tế), vừa là một nơi để gặp gơ, hội
họp của một cộng đồng Hoa vốn được tổ chức ḍa trên nhưng tiêu chuẩn về địa lý,
phương ngư hoặc các mối quan hệ dòng tộc. Qua thống kê, khảo sát, luận án đưa ra
trường hợp 149 miếu, hội quán của người Hoa trên cả nước có niên đại xây ḍng từ
cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX.
3.2. Pham vi nghiên cứu
3.2.1. Về thời gian
Phạm vi thời gian nghiên cứu của đề tài nằm trong giai đoạn: từ cuối thế kỷ XVI
đến cuối thế kỷ XIX. Luâ ̣n án đi sâu giải quyết nhưng vấn đề khoa học về lịch sử hình
thành và phát triển các thiết chế miếu hô ̣i quán ở Viê ̣t Nam. Đây là thời ky người Hoa
bắt đầu hiện diện, định hình nên các nhóm cô ̣ng đồng cư dân Hoa ngày càng hoàn
chỉnh, đồng thời hòa nhâ ̣p mạnh me vào xã hô ̣i Viê ̣t Nam. Mốc thời gian trên phản ánh
các hiê ̣n tượng lịch sử phát triển khác nhau của cô ̣ng đồng người Hoa ở Viê ̣t Nam qua
3 thời ky: từ cuối thế kỷ XVI đến giưa thế kỷ XVII, từ giưa thế kỷ XVII đến cuối thế
kỷ XVIII và trong thế kỷ XIX.
3.2.2. Về kihông gian
3
Đề tài có phạm vi không gian bao quát trên cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình định cư dưới
thời phong kiến, người Hoa chỉ tâ ̣p trung trong mô ̣t số đô thị cảng nhất định.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được tḥc hiện ḍa trên việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ
bản của sử học đó là phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic. Bên cạnh công việc
nghiên cứu, tham khảo các công trình đi trước, một trong nhưng phương pháp nghiên
cứu đầu tiên được nghiên cứu sinh sử dụng là phương pháp điền dã lịch sử. Tác giả
luận án cung đã sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, kết hợp phương pháp
nghiên cứu sử học với các phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học khác như:
dân tộc học, văn hoá học, khảo cổ học, Hán Nôm…Ngoài ra, tác giả còn sử dụng
phương pháp nghiên cứu so sánh để so sánh nhưng đặc điểm của miếu, hội quán ở các
vung miền và giưa miếu, hội quán ở Việt Nam với miếu, hội quán ở nước ngoài.
4.2. Nguồn tư liệu
Nh́m nguồn tư liệu thư tịch và các công trình nghỉn ću : Các bộ chính sử của
Quốc sử quán triều Nguyễn, các công trình của các học giả thời phong kiến, các công
trình du ký của các học giả nước ngoài; các công trình xuất bản gần đây bao gồm: các
sách chuyên khảo, kỷ yếu hội thảo, luận văn, luận án nghiên cứu về người Hoa nói
chung và miếu, hô ̣i quán nói riêng của các tác giả trong và ngoài nước.
Nh́m nguồn tư liệu nghỉn ću, điền d̃: Tư liệu điền dã tại các di tích miếu, hô ̣i
quán ở nhưng khu ṿc định cư của người Hoa hiện còn bảo tồn được các kiến trúc cổ
có giá trị, thường cung là nhưng khu phố thương mại nổi tiếng trước đây. Ngoài ra,
còn có tư liê ̣u điền dã tại Đài Bắc, Đài Loan. Các tư liê ̣u bao gồm các bản chụp ảnh di
tích, văn bia, địa bạ, tài liê ̣u thương mại, hành chính của các hô ̣i quán...
5. Đóng góp khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án nghiên cứu làm rõ một số luận điểm khoa học sau đây:
(1) Nghiên cứu miếu, hô ̣i quán một cách toàn diện trên phạm vi cả nước dưới góc
độ sử học, từ đó đưa ra cái nhìn toàn diện về đời sống kinh tế, văn hóa, tín ngương
cộng đồng của di dân Hoa ở Việt Nam, làm rõ nhưng đă ̣c trưng, bản sắc riêng của từng
cô ̣ng đồng Hoa trong môi giai đoạn lịch sử hoă ̣c ở từng địa phương cụ thể, chỉ ra
nguyên nhân, đô ̣ng ḷc và các bước phát triển, cung như vị trí, vai trò của người Hoa
trong tiến trình lịch sử Viê ̣t Nam. (2) Đóng góp nhưng cứ liê ̣u mới bổ sung tri thức lịch
4
sử về thời ky phong kiến Viê ̣t Nam, đă ̣c biê ̣t liên quan đến tri thức lịch sử kinh tế và
lịch sử văn hóa. (3) Đưa ra một số kết quả nghiên cứu cụ thể về nhưng ṣ kiện lịch sử
liên quan đến tình hình kinh tế, xã hô ̣i, văn hóa của người Hoa mà các công trình đi
trước chỉ dừng lại ở mức độ gợi mở, lý giải một số quan điểm chưa thống nhất giưa
các nhà khoa học khi nghiên cứu vấn đề người Hoa ở Việt Nam. (4) Nhưng quan điểm,
tư liệu và nhâ ̣n thức khoa học rút ra từ luận án có thể làm căn cứ khoa học để kiến nghị
nhưng chính sách đối với cộng đồng người Hoa trên các phương diê ̣n: phát triển kinh
tế – văn hóa, chính sách dân tô ̣c, bảo tồn di sản văn hóa.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mục lục, mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
án được chia làm 04 chương, 11 tiết và 30 tiểu tiết, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Bối cảnh và các yếu tố tác động đến ṣ phát triển của miếu, hội quán
người Hoa ở Việt Nam thế
Chương 3: Quá trình hình thành, phát triển và nhưng biến đổi của miếu, hội quán
người Hoa ở Việt Nam
Chương 4: Miếu, hội quán của người Hoa ở Việt Nam: Đặc điểm phát triển, vai
trò và nhưng đóng góp
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Lý luận và khái niệm
1.1.1. Về “người Hoa”
Tḥc tế ở Việt Nam, cho đến nhưng năm 1960, khi nghiên cứu về cộng đồng người
Hoa, các nhà nghiên cứu trong nước vân chưa sử dụng khái niệm “người Hoa” một cách phổ
biến. Trong sử sách thời phong kiến, đặc biệt dưới triều Nguyễn các nhà chép sử đã sử dụng
phổ biến tên gọi “Đường nhân” (người Đường) để chỉ nhưng người Trung Quốc sang tạm trú,
làm ăn buôn bán ở nước ta (ngoài tên gọi Minh Hương dành cho khối cư dân thường trú đặc
biệt). Từ thời Lê sơ đến đầu thời Minh Mạng nhà Nguyễn, thì tên gọi “Đường nhân” vân
được dung phổ biến cho bộ phận người Hoa tạm trú. Đến khoảng năm Minh Mạng thứ 10
(1829), trong sử sách ít thấy sử dụng tên gọi “người Đường” nưa, thay vào đó tên là gọi
“người Thanh” hoặc “người nước Thanh”. Như vậy, ngoài tên gọi Minh Hương, thì “người
Đường”, “người Thanh” là tên gọi dung để chỉ bộ phận cư dân Hoa sang sinh sống ở nước ta.
5
Thuật ngư “người Hoa” được sử dụng trong luận án gồm nhưng tên gọi chính
thống được sử dụng trong nước để chỉ các thành phần cư dân Hoa theo quan điểm của
nhà nước Viê ̣t Nam qua từng giai đoạn lịch sử. Khái niệm “người Hoa” như vậy se
không bao hàm hết toàn bộ người Minh Hương nhưng cung không giới hạn ở nhưng
lớp cư dân là nhưng Đường nhân, Thanh nhân mà se mở rộng đến một số thành phần
cư dân Minh Hương (c̣u phố, c̣u thần và tân thuộc). Tuy nhiên, nhóm cư dân Minh
Hương nguyên ngạch (tức thế hệ Minh Hương lai Việt – Hoa ) có nhưng đặc điểm
riêng trong ṣ phát triển bởi ảnh hưởng mạnh me của quá trình Việt hóa về huyết
thống và văn hóa, do đo cần phải được phân biệt và tách bạch rõ ràng với khái niệm
“người Hoa”.
1.1.1. Về “Miếu”
Trong các từ điển Hán Việt hoặc từ điển tiếng Việt hiện đại đều cho biết thông tin
giản lược về “miếu”: đó là một cái điện nằm trước cung vua, là nơi để thờ cha mẹ, ông
bà, tổ tiên của nhà vua, là nơi thờ quỷ, thần,... (Thiều Chửu, 2004, tr.180) hay là nơi
thờ thần thánh (hoặc nhưng nhân vật đã được thần thánh hóa), một đền thờ nho (Viện
ngôn ngư, 2003, tr.632). Các vị thần thánh dân gian của cư dân các tỉnh duyên hải phía
Đông Nam Trung Quốc như Quan Thánh, Thiên Hậu, Ông Bổn là đối tượng thờ ṭ
chính trong các công trình tín ngương “miếu” của cộng đồng Hoa ở Việt Nam. Nhưng
nơi này gọi là “miếu” hoặc là “cung”, đó là 2 tên gọi chính thức. Tḥc tế, cung hay
miếu đều chỉ về một nơi thờ ṭ nhưng sắc thái ý nghia của 2 tên gọi đó cung có nhưng
khác nhau ở mức độ nhất định (Trần Hồng Liên, 2005, tr.10 – 11).
1.1.2. Về “Hội quán”
Theo từ điển Hán Việt và từ điển tiếng Việt hiện đại thì “Hội quán” là ngôi nhà
để nhưng người cung đoàn thể tới gặp gơ nhau hay đơn giản hơn, hội quán là trụ sở
của một hội (Viện ngôn ngư, 2003, tr.459). Tuy nhiên, tḥc tế hội quán được hiểu theo
nhiều cách hiểu khác nhau: (1) Hô ̣i quán là tru sở của một bang, hô ̣i (Huiguan =
Assembly Hall): Với tư cách là trụ sở của một bang, hội, hội quán có 3 chức năng
chính: một là trụ sở hội đồng hương, hai là trụ sở hành chính của bang và ba là trụ sở
hội liên lạc công thương gia trong bang. Ba chức năng này đan xen vào nhau. Ở cách
hiểu này, hội quán hoàn toàn khác biệt với đình, chua, từ đường,… vì giưa chúng khác
nhau về đặc điểm, chức năng và hội quán không có chức năng tín ngương (Li Tana &
Nguyễn Cẩm Thuý (Chủ biên), 1999, tr.63 – 81). (2) Hô ̣i quán là mô ̣t tổ ch́c xã hô ̣i
6
(Huiguan = Association): Với nghia này, hội quán là 1 tổ chức xã hội, chứ không đơn
thuần chỉ là trụ sở của hội đồng hương, hội công thương hay trụ sở hành chính của một
bang. Như bi ký Tủ ̣ Thành hô ̣i quán kiín trí thổ phố thường nghỉp̣ bi kiý (Sài Gòn),
lập vào các năm 1856, 1858, 1859, 1860 có đề cập. Ở đây, hô ̣i quán là mô ̣t tổ chức xã
hô ̣i, được “mua” và “sở hưu” các nhà đất. Nhưng thời điểm này (tức năm 1856) nó
chưa hoàn toàn có thể thay thế cho tên gọi bang và hô ̣i quán được khẳng định vân chỉ
là 1 tổ chức “ở trong” bang mà thôi. (3) Hô ̣i quán là mô ̣t cơ sở văn h́a, tín ngưỡng
(Huiguan = Temple): Nếu như các cách hiểu ở trên đã phân biệt rõ hội quán khác hoàn
toàn với các cơ sở tín ngương tôn giáo như đền chua, cung miếu thì cách hiểu thứ 3
này lại tạo ra một loại hội quán mà bao gồm thêm chức năng của miếu (điều này cung
có nguyên nhân khách quan vì trong các hội quán dần dần xuất hiện các hình thức thờ
ṭ hoặc là được lập nên ở các ngôi miếu có sẵn): (4) Mối quan hệ giữa hội quán và tổ
ch́c bang: Hô ̣i quán với tư cách là mô ̣t tổ chức xã hô ̣i, có nhiều mối quan hệ với tổ
chức bang cả về nguồn gốc, tiến trình lịch sử tổ chức cộng đồng người Hoa và nhưng
quan hệ giưa 2 tổ chức trong từng thời ky. Trước khi có tổ chức bang, hội quán là tổ
chức quan trọng nhất của người Hoa ở Việt Nam, khi bang thành lập (đầu thế kỷ XIX)
thì hội quán vân tḥc thi các chức năng của nó, như đã ghi nhâ ̣n ở bi ký trong các hô ̣i
quán. Sau khi tổ chức bang bị giải thể (do chính sách của chính quyền Pháp ở thuô ̣c địa
và được tiếp nối bởi chính quyền Việt Nam Cộng hòa) thì tên gọi hô ̣i quán dần dần
thay thế cho bang, dần dần nhất thể hóa hô ̣i quán với bang. Tuy nhiên, so với bang thì
vai trò của hội quán có nhưng khác biệt nhất định.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Tình hình và kết quả nghiên cứu
Cô ̣ng đồng người Hoa từ cuối thế kỷ XVI đã ít nhiều được phản ánh trong các
biên chép của mô ̣t số tác giả đương thời và sử sách nhà Nguyễn. Mặc du nhưng vấn đề
kinh tế – xã hô ̣i của cộng đồng này ít được ghi chép đầy đủ, nhưng trên tḥc tế, khi đề
cập về người Hoa, ít nhiều các nhà biên chép sử đều nói đến miếu và hô ̣i quán với vai
trò làm biểu tượng sức mạnh, tinh thần đoàn kết và phương thức tổ chức cô ̣ng đồng
của họ. Từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX, có ṣ xuất hiện các du ký của các tác giả
nước ngoài đến Việt Nam. Đây là nhưng du ký của các thương nhân, nhà truyền giáo,
si quan hàng hải đến từ phương Tây, Trung Quốc, Nhật Bản,… Họ đã có nhưng ghi
chép về đời sống cư dân Việt Nam, nhưng sinh hoạt kinh tế – xã hội, phong tục, tập
7
quán,... trong đó có một số tác phẩm đề cập đến người Hoa cung nhưng ghi chép về
sinh hoạt tín ngương, tôn giáo trong các đền miếu, hội quán.
Sang thời Pháp thuô ̣c trở về sau, đã xuất hiê ̣n nhiều công trình nghiên cứu chuyên
sâu, có tính cách phát hiê ̣n, chọn lọc tư liê ̣u theo phương pháp nghiên cứu mới của
phương Tây. Từ sau năm 1945, nhưng nghiên cứu về người Hoa nói chung và về các
thiết chế xã hội của họ được quan tâm hơn, với nhưng khảo cứu công phu hơn, đặc biệt
loạt bài khảo cứu của các tác giả Nguyễn Thiệu Lâu, Đào Duy Anh, Trần Kinh Hòa về
các Minh Hương xã và các khu phố Tàu. Sau năm 1975, vấn đề người Hoa được quan
tâm nghiên cứu nhiều hơn. Về tác giả, có thể kể đến một số nhà nghiên cứu có nhiều
năm nghiên cứu về người Hoa ở Việt Nam như: Trần Khánh, Châu Thị Hải, Cao Ṭ
Thanh, Nguyễn Cẩm Thúy, Mạc Đường, Huynh Lứa, Trần Hồng Liên, Phan An, Phan
Xuân Biên, Huynh Ngọc Đáng, Đô Bang, Nguyễn Văn Đăng, Dương Văn Huy,
Nguyễn Duy Bính, Nguyễn Đê ̣, Võ Thanh Bằng, Phạm Thúc Hồng, Tống Quốc
Hưng,... Đặc biệt, trên phương diện nghiên cứu – đào tạo tại Viê ̣t Nam, vấn đề người
Hoa và các miếu, hội quán đã thu được một số kết quả nhất định. Từ thâp̣ kỷ 1960 cho
đến nay, nhiều công trình luận án chuyên ngành lịch sử, dân tộc học, văn hoá học,
khảo cổ học,... được bảo vệ thành công cung như mô ̣t số khác đang tiếp tục được hoàn
thành. Trong các luâṇ án này, các tác giả đều đề câ ̣p đến các miếu và hô ̣i quán như là
thành tố của thiết chế cô ̣ng đồng về mă ̣t tổ chức xã hô ̣i hay về đời sống văn hóa, tín
ngương. Nhất là đối với các công trình liên quan đến văn hóa, tín ngương thì miếu và
hô ̣i quán được đi sâu khảo thuâ ̣t bao gồm cả giá trị vâ ̣t thể và phi vâ ̣t thể..
1.2.2 Những vấn đề khoa học luận án kế thừa
Tính đến nay, các công trình nghiên cứu về người Hoa khá phong phú, do vâ ̣y tác giả
luâ ̣n án có nhiều thuâ ̣n lợi trong quá trình nghiên cứu sâu hơn về thiết chế miếu và hô ̣i quán.
Trong công trình luâ ̣n án này, tác giả kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước trên hai
phương diê ̣n chủ yếu, đó là: tư liê ̣u nghiên cứu và hê ̣ thống các quan điểm, khái niê ̣m, thuâ ̣t
ngư được sử dụng khi nghiên cứu về cô ̣ng đồng người Hoa ở Viê ̣t Nam.
1.1.1.1. Về tư lỉụ nghỉn ću
Đối với các tư liê ̣u chính sử, các tác phẩm biên chép của sử gia thời phong kiến
hay các du ký của các nhà truyền giáo, thương nhân nước ngoài: Thông tin về miếu,
hô ̣i quán của người Hoa trong các tư liê ̣u này tuy không nhiều nhưng là nhưng nguồn
thông tin quý hiếm và đáng tin câ ̣y. Từ nửa cuối thế kỷ XVIII nhưng tư liê ̣u chính sử
8
ngày càng phong phú hơn, giúp cho viê ̣c nghiên cứu người Hoa nói chung và nghiên
cứu miếu, hô ̣i quán nói riêng có thêm cơ sở khoa học.
Đối với nhưng công trình nghiên cứu có liên quan đến khảo cứu văn bia, châu
bản, địa bạ, minh văn từ cổ vâ ̣t (gọi chung là tư liê ̣u Hán Nôm): Đây là loại tư liê ̣u rất
quan trọng mà luâ ̣n án đã kế thừa trên cơ sở khảo cứu lại cung như khai thác thêm các
thông tin mà các tác giả đi trước chưa đề câ ̣p. Qua bước đầu nghiên cứu, cho thấy tư
liê ̣u từ văn bia cụ thể hơn tư liê ̣u từ chính sử bởi nó phản ánh nhưng thông tin từ chính
cô ̣ng đồng người Hoa. Kết hợp với các tư liê ̣u khác như châu bản, địa bạ, tư liê ̣u dân
tô ̣c học, văn hóa dân gian,… nhiều vấn đề về lịch sử miếu và hô ̣i quán người Hoa ở thế
kỷ XVII – XVIII đã được làm rõ hơn.
Đối với các công trình luâ ̣n án ở linh ṿc sử học và khảo cổ học, tác giả kế thừa
nhưng thông tin, ṣ kiê ̣n có liên quan đến quá trình định cư, quá trình thiết lâ ̣p các
chính sách của nhà nước, các biến chuyển về đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của
cô ̣ng đồng người Hoa qua các giai đoạn lịch sử mà ít nhiều nói đến vai trò và ảnh
hưởng của của các thiết chế miếu và hô ̣i quán. Đối với các luâ ̣n án trên linh ṿc dân
tô ̣c học, văn hóa học, tác giả kế thừa của nhưng người đi trước nhưng luâ ̣n điểm, thông
tin khoa học có thể bổ sung các khoảng trống về đời sống của cô ̣ng đồng người Hoa
liên quan đến hoạt đô ̣ng xã hô ̣i, văn hóa tín ngương diễn ra tại các miếu và hô ̣i quán.
1.1.1.2. Về h̉ ̣ thống các kihái nỉm,
̣ thuâ ̣t ngữ
Hệ thống khái niê ̣m, thuâ ̣t ngư liên quan đến cô ̣ng đồng người Hoa vốn rất phong
phú, đa dạng, có ṣ biến chuyển nô ̣i dung theo thời gian, do đó, viê ̣c kế thừa cung như
cân nhắc giưa các quan điểm khi sử dụng khái niê ̣m là vấn đề có ý nghia rất quan
trọng, có ảnh hưởng đến tính khách quan của các ṣ kiê ̣n, hiê ̣n tượng lịch sử. Để có thể
có cái nhìn đầy đủ và hê ̣ thống các khái niê ̣m, thuâ ̣t ngư, tác giả đã tham khảo các nhà
nghiên cứu trong nước, bên cạnh đó còn tìm hiểu quan điểm của các học giả ngoài
nước về vấn đề này. Trong công trình nổi lên các khái niê ̣m, thuâ ̣t ngư liên quan đến
vấn đề người Hoa, người Minh Hương; các tổ chức xã hô ̣i như: Minh Hương xã,
Thanh Hà phố, Bang, hô ̣i,… hay các thiết chế văn hóa – xã hô ̣i như: miếu, hô ̣i quán,...
1.2.3 Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Do nhưng công trình trước đây phần lớn không đăṭ trọng tâm vào nghiên cứu
thiết chế miếu và hô ̣i quán hoă ̣c nếu có thì khu biê ̣t vào mô ̣t địa bàn hẹp, do đó chưa
đưa ra được bức tranh tổng thể hay cái nhìn toàn diê ̣n trên bình diê ̣n cả nước. Trong
9
khi đó, vấn đề định cư của người Hoa không chỉ xảy ra ở mô ̣t địa phương mà là trên
phạm vi cả nước, thâ ̣m chí có tính chất khu ṿc và quốc tế. Do đó vấn đề quan trọng
mà luâṇ án đăṭ ra để tiếp tục nghiên cứu đó là đưa ra được bức tranh tổng thể về ṣ
phân bố trong không gian và theo thời gian của các cơ sở miếu và hô ̣i quán của người
Hoa trên phạm vi cả nước. Đồng thời, trong bức tranh toàn diê ̣n mang tính hê ̣ thống
này, cung cho thấy nhưng sắc thái khác biê ̣t do yếu tố hoàn cảnh lịch sử của từng thời
ky hoă ̣c do ảnh hưởng bởi điều kiê ̣n văn hóa, xã hô ̣i từng vung miền. Đây là bức tranh
toàn diê ̣n nhưng đa sắc màu, vừa mang tính hê ̣ thống vừa có tính chất riêng biê ̣t trong
khoảng thời gian 3 thế kỷ (cuối thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX).
Tiểu kết chương I
Đến nay, khái niệm “người Hoa”, “miếu”, “hội quán” cung nhưng vấn đề lý luận
xoay quanh nó đã được các nhà nghiên cứu đưa ra và bàn luận khá nhiều. Trên cơ sở
nhưng vấn đề lý luận và tḥc tiễn, đặc biệt là ṣ kế thừa thành ṭu nghiên cứu khoa
học về “người Hoa”, “miếu” và “hội quán” của các học giả đi trước, luận án đã đặt ra
nhiều vấn đề khoa học để nghiên cứu, giải quyết.
CHƯƠNG II
BỐI CẢNH VÀ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA MIẾU VÀ HỘI
QUÁN NGƯỜI HOA Ở VIỆT NAM
2.1. Các trung tâm định cư của người Hoa ở Việt Nam thế kỷ XVI – XIX
2.1.1. Bối cảnh người Hoa hiện diện tai các khu vực định cư
2.1.1.1. Quốc t́, kihu vực
Quá trình di dân của người Hoa đến Việt Nam trong các thế kỷ XVI – XIX chịu
ảnh hưởng từ bối cảnh quốc tế và khu ṿc, đặc biệt từ tác động tích c̣c của kỷ nguyên
thương mại biển. Việt Nam trở thành điểm trung chuyển và cung ứng hàng hóa quan
trọng. Chính thời điểm đó, ṣ có mặt của thương nhân Trung Hoa đông đảo hơn,
thường xuyên hơn.Ṣ bành trướng của người châu Âu sang vung Viễn Đông từ cuối
thế kỷ XVI đã mang đến mô ̣t đô ̣ng ḷc mới để phát triển mạng lưới kinh doanh và các
khu định cư của người Hoa nước ngoài. Cho đến giưa thế kỷ XIX, đã có khoảng 1, 5
triê ̣u người Hoa định cư ở ĐNA và hơn 2 triê ̣u người Hoa cư trú ở Đài Loan (Trang
Quốc Thổ, 2013, tr.33)
2.1.1.2. Bối cảnh tại đất nước Trung Hoa
10
Triều Minh (1368 – 1644) gây chú ý vì các chính sách trái ngược mà chính quyền này
áp dụng trong các thời điểm khác nhau đối với nền ngoại thương. Ngay sau khi thành lập triều
đại đến thế kỷ XVI, nhà Minh thi hành chính sách bế môn toa cảng kéo dài gần hai trăm năm.
Nhưng từ năm 1567, triều đình nhà Minh từ bo chủ trương bế quan toa cảng, cho phép
thường dân xuất dương buôn bán. Đến giưa thế kỷ XVII, trước tình cảnh nhà Minh bước vào
giai đoạn suy tàn, quan lại nhung nhiễu khắp nơi, phong trào nông dân diễn ra liên tiếp, các
tầng lớp nhân dân bao gồm cả thương nhân, thợ thủ công, nông dân đã “tha phương cầu tḥc”
xuống phương Nam. Đặc biệt, là ṣ sụp đổ của nhà Minh vào năm 1644, người Mãn Châu
thiết lâ ̣p triều Thanh. Một bộ phận quan binh và dân thường trung thành với nhà Minh tiếp
tục bo nước ra đi. Nhà Thanh lúc mới thành lập cung thi hành chính sách cấm xuất ngoại khắt
khe nhằm ngăn chặn nhưng nô ḷc ra đi của dân chúng, đồng thời giảm thiểu nguy cơ họ gia
nhập các ḷc lượng chống đối triều đình đang hoạt động ở vung ven biển phía đông và đảo
Đài Loan. Mă ̣c du triều đình tăng cường các đạo luâ ̣t nghiêm ngă ̣t đối với di dân Hoa, nhưng
dân chúng ở vung duyên hải Đông Nam Trung Quốc đã tìm phương kế sinh nhai ở nước
ngoài qua nhiều thế kỷ. Từ cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX đánh dấu một quá trình phát
triển mạnh me của các cộng đồng người Hoa ở ĐNA. Cung với đó, khi nhịp độ buôn bán của
nước Tây Âu đến thị trường ĐNA nói chung được tăng cường mạnh me vào đầu thế kỷ XIX,
thì số lượng thương nhân tìm đến vung ĐNA và Việt Nam ngày càng gia tăng (Trang Quốc
Thổ, 2013, tr.33).
2.1.1.3. Chính trị, xã hội Việt Nam
Cuối thế kỷ XVI trở đi cung là thời ky lịch sử Việt Nam có nhưng biến động đặc
biệt với cục diện Trịnh – Nguyễn phân tranh. Hai thế ḷc phong kiến họ Trịnh và họ
Nguyễn thời ky này đang nổi lên rất mạnh, Đàng Ngoài do chúa Trịnh cai trị và Đàng
Trong thuộc quyền kiểm soát của chúa Nguyễn. Cả hai thế ḷc Đàng Ngoài và Đàng
Trong đều nhân danh bảo vệ triều đình nhà Lê đang suy yếu để giành quyền kiểm soát
đất nước. Các chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều có chính sách phát triển ngoại thương,
nhất là với Trung Quốc để tranh thủ tiềm ḷc kinh tế, đồng thời thông qua quan hệ
ngoại giao và buôn bán với nước ngoài để mua sắm vu khí và đạn dược nhằm tăng
cường tiềm ḷc quân ṣ chuẩn bị cho cuộc nội chiến lâu dài. Tính chất, qui mô của nền
ngoại thương này hoàn toàn khác với nhưng giai đoạn buôn bán qua biên giới hay
quan phương (do các sứ đoàn đảm nhiệm) của hai nước Việt Nam, Trung Hoa trước
đây.
Chính sách của chính quyền Đàng Ngoài đối với người Hoa
11
Chính quyền Đàng Ngoài (vua Lê – chúa Trịnh) luôn luôn theo đuổi chính sách
thận trọng, cảnh giác đối với người Hoa. Nhưng tḥc tế lịch sử cung cho thấy, triều
đình Thăng Long từ Mạc đến Lê – Trịnh đã từng bước nới long chính sách ngoại
thương. Đầu thế kỷ XVII, triều đình Lê – Trịnh cho phép người nước ngoài định cư tại
các cảng thị nội địa. Năm 1663, Trịnh Tạc đã ra lệnh khu biệt người Hoa không cho họ
ở lân lộn với dân Việt. Năm 1696, Trịnh Căn lại bắt người Hoa phải theo “quốc tục”
và nghiêm cấm nhân dân không được bắt chước theo y phục, phong tục, ngư ngôn của
họ. Sang thế kỷ XVIII, vân tiếp tục duy trì việc phân chia phạm vi cư trú đối với nội
dân và ngoại kiều. Riêng đối với ngoại kiều, triều đình có chủ trương tách biệt giưa
khu ṿc Thăng Long và các điểm cư trú khác ở ngoại vi. Năm 1717, triều đình tiếp tục
ban hành “chế độ khu xử” với khách buôn ngoại quốc một cách chặt che hơn (Trung
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc Gia – Viện Nghiên cứu Hán Nôm, 2011,
tr.72). Theo đó, Vạn Lai Triều (Hưng Yên) một lần nưa được chính thức quy định là
điểm tập trung của người nước ngoài (Ngô Cao Lãng, 1975, tr.269 – 270).
Chính sách của chính quyền Đàng Trong và triều Nguyễn đối với người Hoa
Ṣ nhập cư ồ ạt của người Hoa và ṣ hình thành các cộng đồng của họ như một
tḥc thể dân cư tương đối ổn định trong cơ cấu dân cư, dân tộc Việt Nam bắt đầu từ
thế kỷ XVII, một phần là kết quả của chính sách đón tiếp “nồng hậu” của chúa Nguyễn
và sau đó là triều Nguyễn đối với nhưng di dân Trung Hoa (Trần Khánh, 2000, tr.69).
Người Hoa không nhưng được phép cư trú vinh viễn tại Việt Nam mà còn được ghi
vào sổ bộ của chính quyền (nếu có nguyện vọng sinh sống lâu dài), không phải làm
nghia vụ quân dịch và lao động công ích, được trao quyền thu thuế đối với nhưng
người gioi nghề buôn bán và giao dịch, họ còn được hưởng nhiều chính sách ưu đãi
khác trong linh ṿc kinh tế,…
2.1.2. Tiến trình định cư của người Hoa
2.1.2.1. Giai đoạn cuối th́ kiỷ XVI đ́n giữa th́ kiỷ XVII
Ở Đàng Ngoài, một bộ phận người Hoa là thương nhân và cư dân phục vụ công
việc buôn bán, có mặt ở Thăng Long và Phố Hiến, từ trước thế kỷ XVI. Ở các thế kỷ
XVI, XVII, số lượng người Hoa tiếp tục tăng lên, đến cuối thế kỷ XVIII khoảng 5 – 6
vạn người (Châu Thị Hải, 1994, tr.204). Ở Đàng Trong, kể từ khi làm trấn thủ vung
Thuận Quảng, đến đầu thế kỷ XVII, với ý đồ cát cứ để chống lại họ Trịnh nên chúa
Nguyễn Hoàng chú tâm mở mang buôn bán với nước ngoài nhằm xây ḍng tiềm ḷc
12
cho Đàng Trong. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635), việc bang giao,
buôn bán với nước ngoài tiếp tục phát triển mạnh hơn nhằm thu hút ngoại ḷc để xây
ḍng, phát triển kinh tế. Thuyền buôn các nước đã đến các cảng thị nổi tiếng xứ Đàng
Trong. Việc hình thành các cảng thị Đàng Trong như Hội An (Quảng Nam), Thanh Hà
(Huế) và Nước Mặn (Bình Định) vào đầu thế kỷ XVII gắn liền với vai trò của các
thương nhân Hoa.
2.1.2.2. Giai đoạn giữa th́ kiỷ XVII đ́n cuối th́ kiỷ XVIII
Từ giưa thế kỷ XVII, cung với phong trào di dân mạnh me của người Hoa đến
các nước ĐNA sau biến động lớn về chính trị ở đất nước Trung Hoa, các cảng biển, đô
thị lớn của Việt Nam, nơi mà trước đây đã có người Hoa sinh sống, tiếp tục là điểm
dừng chân của các đoàn người tị nạn này. Chính sách đón tiếp “nồng hậu” của chúa
Nguyễn và sau đó là triều Nguyễn đối với nhưng di dân người Trung Hoa (Trần
Khánh, 2000), từ nửa sau thế kỷ XVII, đã tạo thuận lợi cho nhưng kiều dân Trung Hoa
được phép định cư ở nhưng trung tâm kinh tế, đô thị, hải cảng của Việt Nam, thuộc
miền Trung và Nam Bộ ngày nay. Bấy giờ, cộng đồng người Hoa đã dần hình thành
nên nhưng phố chợ, trung tâm kinh tế tại nhiều nơi như đặc biệt là các trung tâm kinh
tế mang tính quốc tế như Phố Hiến, Hội An, Chợ Lớn, Gia Định, Hà Tiên, Mỹ Tho...
2.1.2.3. Giai đoạn th́ kiỷ XIX
Nếu ở thế kỷ XVII, bộ phận người Hoa đến Việt Nam chủ yếu vì lý do chính trị,
thì từ thế kỷ XVIII trở đi, đặc biệt là từ nửa sau thế kỷ XIX người Hoa nhập cư lại xuất
phát từ lý do kinh tế. Đây là giai đoạn gia tăng nhanh chóng số lượng người Hoa ở
Việt Nam, nhất là ở khu ṿc Nam Bộ. Đồng thời, đây cung là giai đoạn người Hoa
vươn lên nắm giư các hoạt động kinh tế thương mại gồm cả nội thương và ngoại
thương. Chính trong giai đoạn này, miếu và hội quán của người Hoa đã được trung tu,
tôn tạo và xây mới với quy mô lớn và trải rộng ở nhiều khu ṿc trên cả nước.
2.2. Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội
2.2.1. Đặc điểm cư trú, hoat động kinh tế
Di cư vào Việt Nam, người Hoa đã nhanh chóng lập nên nhưng cộng đồng bền
vưng, họ thường cư trú đông hơn ở các đô thị, trung tâm thương mại, thành phố, thị
trấn hay các cửa khẩu, là nhưng nơi có điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế
thương nghiệp, dịch vụ, sản xuất tiểu thủ công nghiệp,... Đa số họ chọn lối sống quần
cư tập trung theo từng nhóm phương ngư, nhưng đồng thời cung xen ke với người Việt
13
và các dân tộc khác. Do vậy, các miếu, hội quán cung ra đời và phân bố gắn với từng
nhóm cộng đồng cư dân Hoa. Người Hoa tôn trọng nét đẹp văn hóa tín ngương dân
gian, thờ cúng nhiều vị thần thánh của cộng đồng, trong đó đặc biệt đề cao các tín thần
Thiên Hậu, Quan Thánh.
2.2.2. Tổ chức xã hội
Nhưng người Hoa (người “Đường”1, người Minh, người Thanh) lúc mới sang (từ
cuối thế kỷ XVI đến giưa thế kỷ XVII) họ cư trú trong các đơn vị khu phố có khuynh
hướng cư trú tập trung thành phố (Bắc Hòa phố, Minh Hương khách phố, Minh Bô ̣t
đại phố, Minh Bô ̣t tân phố… ). Một bộ phận cư trú tại các thôn, xã, nâ ̣u, thuô ̣c, chung
lân với người Viê ̣t, người Khmer, Chăm,... và được ṣ quản lý của các quan chức
người Viê ̣t hoă ̣c thủ linh các sắc dân khác (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tr.275,
291). Còn bộ phận người Hoa đến Việt Nam từ giưa thế kỷ XVIII, được chính quyền
tổ chức thành các đơn vị cư trú với tên gọi “phủ”, muô ̣n nhất là vào năm 1790 đã có
đơn vị này (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tr.256). Viê ̣c tổ chức đơn vị phủ ḍa
theo nguyên tắc địa dư là theo mô hình “phủ” thời Thanh ở cố quốc của họ, có thể 4
phủ, 5 phủ, 7 phủ tuy theo điều kiê ̣n về số lượng, thành phần cư dân có mă ̣t tại đơn vị
dinh, trấn nào đó của Viê ̣t Nam. Năm 1810, vua Gia Long tổ chức quản lý người Hoa
theo bang: “Sai bang trưởng Quảng Đông là Hà Đạt Hòa thủ 3 thợ làm nǵi ở
Quảng Đông…” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tr.801).
2.3. Những sự kiện tác động đến quá trình phát triển của các miếu, hội quán
Với tư cách là thiết chế văn hóa, xã hội quan trọng của cộng đồng, trong lịch sử
phát triển từ thế kỷ XVI – XIX, các miếu, hội quán đã chịu ṣ tác động từ nhưng
nguyên nhân khác nhau, trong đó chi phối mạnh me nhất là từ nhưng biến động về tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội trong, ngoài nước và ṣ kiện cụ thể ở từng địa phương.
2.3.1. Tình hình chính trị – xã hội của đất nước cuối thế kỷ XVIII và cuộc chiến
chúa Nguyễn – Tây Sơn
Đến cuối thế kỷ XVIII tình hình chính trị – xã hội ở Đàng Trong không được ổn
định đã tác động đến người Hoa. Trong thời ky chiến tranh Tây Sơn và chúa Nguyễn,
ḷc lượng người Hoa đã bị ảnh hưởng rất lớn vì chính họ là người ủng hộ các chúa
Nguyễn chống lại quân Tây Sơn. Ṣ kiện đốt phá Cu Lao Phố năm 1776 và ṣ kiện
1 Trong Đại Nam tḥc lục, sử nhà Nguyễn còn dung tên gọi này phổ biến cho đến năm 1826. Đến năm 1829, bắt đầu
dung tên gọi “người Thanh” hoă ̣c “người nước Thanh”, không dung tên gọi “người Đường” nưa.
14
thảm sát cầu Tham Lương (Phiên An) năm 1782 cho thấy mức độ tàn phá khủng khiếp
của cuộc chiến tranh này đối với cộng đồng người Hoa. Ba trung tâm kinh tế thương
mại lớn nhất của Nam Bộ lúc đó là Mỹ Tho Đại Phố, Hà Tiên cung với Cu Lao Phố
được hình thành vào thập niên 80 của thế kỷ XVII, đều hưng thịnh vào khoảng giưa
thế kỷ XVIII (nhưng năm 1750 đến 1760), nhưng sau đó gần như bị tàn phá vào cung
một lúc, Mỹ Tho và Hà Tiên vào năm 1771, Cu Lao Phố vào năm 1776 – 1777. Trong
khi đó tại khu ṿc miền Bắc, tình hình tương ṭ cung đã diễn ra, đặc biệt vung Hiến
doanh (phố Hiến) cung bị tàn phá trong thời gian cuộc chiến giưa Tây Sơn và ḷc
lượng quân đội nhà Lê Trịnh.
2.3.2. Sự tàn phá từ quân Xiêm và Chân Lap ở miền Nam
Trong thế kỷ XVIII, đã có nhưng thời điểm (nổi bật như các năm 1715, 1739, 1748,
1771) quân Chân Lạp được ṣ hậu thuân của Xiêm La đến đánh phá Hà Tiên và Mỹ Tho.
Nhưng lần như vậy đều gây ra nhưng nhưng ṣ hủy hoại nghiêm trọng đến các cơ sở kinh tế,
xã hội của các vung đất này trong đó có ṣ đốt phá các khu phố của người Hoa.
2.3.3. Những cuộc nổi loan trong nội bộ người Hoa
Từ rất sớm, nội bộ nhóm người Hoa cung xảy ra tranh chấp mà hậu quả của nó là
ở Mỹ Tho, viên phó tướng Hoàng Tiến nổi lên giết chủ tướng Dương Ngạn Địch vào
năm 1688, nhằm tḥc hiện ý đồ cát cứ, liên kết với người Chân Lạp thân Xiêm đắp
luy, mộ quân, sắm chiến thuyền chống lại chúa Nguyễn. Cuộc nổi loạn này làm cho
Mỹ Tho Đại phố bị tàn phá và cung làm giảm tiến trình phát triển của Mỹ Tho một
thời gian. Vào thời ky triều Nguyễn, đáng kể có cuộc binh biến của Lê Văn Khôi
nhưng năm 1833 – 1835 cung đã có nhưng ảnh hưởng nhất định đến người Hoa ở khu
ṿc Nam Bộ. Trong cuộc binh biến này có ṣ tham gia của các ḷc lượng người Hoa.
Trong lúc cuộc chiến đang diễn ra vào khoảng tháng 8 năm 1833 có nhiều trận đánh
ngay trong khu ṿc phố Sài Gòn và An Thông Hà, tức là tại nơi tập trung đông người
Hoa. Sau cuộc chiến, cung có nhưng ṣ nghi kỵ, trả thu của chính quyền triều Minh
Mạng đối với nhóm người này (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007b, tr.725 – 728).
2.3.4. Cuộc xâm lươc Việt Nam của thực dân Pháp
Trong khoảng thời gian Pháp chiếm Nam ky từ 1858 đến 1867 đã diễn ra các
cuộc càn quét của quân viễn chinh Pháp nhằm đánh bại quân triều đình nhưng chủ yếu
là để tiêu diệt ḷc lượng khởi nghia của nhân dân ta. Lúc đầu, nhưng di tích của người
Hoa hay người Việt thường bị phá hủy bởi ở đó cung là căn cứ để nhân dân tập hợp và
15
kháng c̣ lại quân xâm lược Pháp. Trong thời gian sau đó còn có hoạt động của các hội
kín, tiêu biểu là Thiên Địa Hội ở Nam Ky trong thời chống tḥc dân Pháp vốn xuất
phát từ phong trào “Phản Thanh phục Minh”.
Tiểu kết chương II
Tiến trình định cư của người Hoa tại Việt Nam dưới thời phong kiến có thể chia
thành ba giai đoạn: cuối thế kỷ XVI đến giưa thế kỷ XVII; giưa thế kỷ XVII đến cuối
thế kỷ XVIII; đầu thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XIX. Người Hoa mà đặc biệt là các
thương nhân dần dần đã có mặt tại các trung tâm kinh tế, đô thị, thương cảng,... của
Việt Nam với số lượng lớn. Đồng thời, họ có tḥc ḷc kinh tế vưng mạnh, có các mối
quan hệ chặt che qua việc thành lập các bang, miếu, hội quán. Trong suốt quá trình
thành lập và phát triển, các miếu, hội quán cung chịu tác động bởi nhiều ṣ kiện lịch
sử khác nhau, đặc biệt trong nhưng thời ky xã hội có nhiều biến động xáo trộn, bao
gồm cả nhưng ṣ kiện ảnh hưởng từ bên trong và bên ngoài của cộng đồng này.
CHƯƠNG III
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA MIẾU,
HỘI QUÁN NGƯỜI HOA Ở VIỆT NAM
3.1. Lịch sử hình thành và phát triển các miếu, hô ̣i quán
3.1.1. Giai đoan cuối thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII
Tại Phố Hiến: với ṣ ghi nhận thông tin từ bia ký vào năm 1635 đã có Đông Đô Quảng
hội ở phố Bắc Hòa trung thì có thể ḍ đoán niện đại khởi ḍng của Hội quán này vào khoảng
cuối thế kỷ XVI – đầu thế kỷ XVII. Tại Hội An: Cuối thế kỷ XVI – đầu thế kỷ XVII, đã có
ṣ xuất hiện các cơ sở kinh tế – xã hội và văn hóa của người Hoa ở vung Quảng Nam, đó là
các ngôi miếu Quan Đế (làng Trà Nhiêu) và Cẩm Hải cung làng Thanh Hà (gồm có miếu
Quan Thánh và Thiên Hâ ̣u cung) đều có trước năm 1653.
3.1.2. Giai đoan giữa thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII
Từ khoảng giưa thế kỷ XVII cho đến cuối thế kỷ XVIII, nhưng miếu và hội quán xuất
hiện ở hầu hết các khu định cư của người Hoa. Có thể kể đến nhưng miếu nổi tiếng như miếu
Quan Đế ở Hội An (1653), miếu Quan Đế ở Trấn Biên (1684), miếu Quan Đế ở Mỹ Tho
(1684), miếu Thiên Hậu ở Thanh Hà - Phú Xuân (1685), hội quán Phúc Kiến ở Hội An
- Xem thêm -