Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Bài thu hoạch cải cách hành chính huyện thăng binh (lhai)...

Tài liệu Bài thu hoạch cải cách hành chính huyện thăng binh (lhai)

.DOC
23
8748
75

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Đảng và Nhà nước ta xem việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ là một trong những nội dung thể hiện bản chất của xã hội mà còn là quy luật hình thành phát triển và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Theo đó dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta xây dựng. Từ lâu, Đảng ta rất coi trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào dân nên đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã hội đã được Đảng cộng sản Việt Nam xác định là một trong những nội dung cốt lõi, trọng tâm, đặc biệt là dân chủ hóa đời sống xã hội từ cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ”. Với ý nghĩa đó, dân là tất cả, bắt đầu từ dân, mọi việc do dân, kết thúc vì dân, dân vừa là điểm xuất phát, vừa là mục tiêu cuối cùng. 82 năm qua, vận dụng những quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, Đảng cộng sản Việt Nam đã phát huy dân chủ nhất là dân chủ trong đời sống xã hội. Chính vì vậy, ngày 18 tháng 2 năm 1998, Bộ chính trị đã ra chỉ thị số 30/CTTW về “xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở”, tiếp theo để cụ thể hóa Chỉ thị này, Thủ tướng chính phủ ra các nghị định 29/1998/NĐ-CP ngày 7/8/1998/; Nghị định số 71/1998/NĐ-CP ngày 7/8/1998; Nghị định số 79/2003/NĐ-CP, ngày 7/7/2003 và các văn bản hướng dẫn về “Ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã”, nhằm phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể vững mạnh góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Qua quá trình triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực tế đã cho thấy kết quả bước đầu là quan trọng. Tuy vậy, vẫn còn những thiếu sót, yếu kém như: quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực. Tệ quan liêu, cửa quyền, hách dịch, mệnh lệnh, tham nhũng, gây phiền hà cho dân vẫn còn khá phổ biến và nghiêm trọng mà chưa đẩy lùi được. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chậm đi vào cuộc sống. Do vây, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định “Tiếp tục hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nuớc đều vì lợi ích của nhân dân, cán bộ, công chức phái hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp và quyền làm chủ thông qua các cơ quan đại diện của mình. Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng 1 cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, những hành vi lợi dụng dân chủ làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội”. Quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đặc biệt là thực hiện theo pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20 tháng 4 năm 2007 của Ủy ban thường vụ Quốc hội đã làm chuyển biến đáng kể nhận thức của cấp ủy, chính quyền và đoàn thể, phát huy được quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay. Để không ngừng tăng cường việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và góp phần xem xét, đánh giá vấn đề một cách khách quan, khoa học, việc đi sâu nghiên cứu, tổng kết, đánh giá quá trình thực hiện ở địa phương có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Với những lý do đó, tôi xin chọn đề tài “Thực trạng việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ trên địa bàn xã Đại Quang giai đoạn 2007-2012” để làm bài tiểu luận tốt nghiệp. 2 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ, DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Quan điểm của Mác – Lênin về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa: V.I.Lênin quan niệm: Dân chủ là sự thống trị của đa số. Với nghĩa này có thể hiểu dân chủ được nhìn nhận như một quyền lực mà tất cả quyền lực thuộc về đa số người dân chứ không phải của một nhóm người, quyền lực này được nhân dân giao cho nhà nước của mình, là người đại diện cho mình. Theo V.I.Lênin, dân chủ được nhìn nhận như là một hình thức tổ chức nhà nước, một hình thái nhà nước, trong đó thừa nhận sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước để thực hiện sự thống trị đối với thiểu số những kẻ vi phạm dân chủ của nhân dân. Mức độ, phạm vi tham gia thật sự của quần chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước phản ánh trình độ phát triển của nền dân chủ, phản ánh những vấn đề cốt lõi nhất của dân chủ. Với tư cách là một nhà nước, một chế độ chính trị thì trong lịch sử có ba chế độ (nền) dân chủ. Đó là: nền dân chủ chủ nô, gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ; nền dân chủ tư sản, gắn với chế độ tư bản chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, muốn biết một nhà nước dân chủ có thực sự dân chủ hay không phải xem trong nhà nước ấy dân là ai và bản chất của chế độ xã hội ấy như thế nào. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô dùng pháp luật để lập ra nhà nước thông qua bầu cử và họ gọi đó là nhà nước dân chủ (cuối thế kỷ VIII đến thế kỷ VI tr.CN ở Aten và Hy Lạp cổ). Giai cấp chủ nô quy định trong luật: chỉ ai là dân mới được tham gia bầu ra nhà nước. “Dân” theo quan niệm của chủ nô gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số tri thức và người tự do. Đa số còn lại không phải là “dân” mà là “nô lệ” nên không được tham gia vào việc bầu ra nhà nước. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, nhà nước dân chủ tư sản được thành lập và đã đạt đuợc những thành tựu to lớn trong việc thực thi dân chủ. Tuy nhiên, trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản vẫn duy trì chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất để bảo vệ lợi ích chủ yếu của giai cấp tư sản. Do vậy, xét về bản chất, nhà nuớc tư sản vẫn không là nhà nước thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân. Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi bắt đầu một thời đại mới, trong đó, nhân dân lao động trở thành người làm chủ xã hội và lập ra nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa để thực hiện quyền lợi của dân – tức là xây dựng nhà nước dân chủ thực sự. Như vậy, thuật ngữ dân chủ chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại ba yếu tố: nhân dân, quyền lực công cộng và mối quan hệ giữa chúng. Thực ra, các yếu tố cấu 3 thành nội dung của khái niệm dân chủ đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử (trừ chế độ nguyên thuỷ), nhưng bản chất của dân chủ không nằm trong các yếu tố đó mà nằm trong mối quan hệ xác định giữa chúng: quan hệ sở hữu và chi phối quyền lực công cộng từ phía nhân dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hiện tượng hợp quy luật, là bước phát triển cao hơn về chất so với các kiểu dân chủ khác và bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người để con người có thể thực hiện những quyền tự nhiên của mình, tự làm chủ vận mệnh và quyết định những vấn đề của xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa thực chất là chế độ “do nhân dân tự quy định Nhà nước”, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, nhân dân tự tổ chức quyền lực Nhà nước qua bầu cử, tham gia quản lý và quyết định những vấn đề quan trọng, kiểm tra, giám sát các hoạt động của Nhà nước thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. 2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa: Đối với Hồ Chí Minh, tất cả mọi việc dù khó khăn đến mấy nhưng biết dựa vào sức dân thì bao giờ cũng thành công. Đó là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người và được thể hiện qua hai câu ca đơn giản, dễ hiểu: “Dễ mười lần không dân cũng chịu Khó trăm lần dân liệu cũng xong ” Tiếp thu và kế thừa các quan điểm về “dân chủ” của nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh khái niệm “dân chủ” một cách đơn giản, cô đọng và dễ hiểu, dễ thực hiện. Người nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ, nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Người viết: Nước ta là nước dân chủ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân Bao nhiêu quyền hạn đều của dân Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát triển theo hướng triệt để, rằng quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và nhà nước chỉ là cơ quan đại diện được trao quyền, nghĩa là quyết định cuối cùng vẫn là ở nhân dân. Nhân dân trao quyền lực cho Nhà nước qua bầu cử theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bằng hình thức bỏ phiếu kín. Nhưng nhân dân giữ lại quyền quyết định cuối cùng. 4 Điều đó, được thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người đòi hỏi kiên quyết thực hiện quyền bãi miễn, rằng “nhân dân có quyền bãi nhiễm đại biểu quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Trên cơ sở những quan điểm của các tác giả kinh điển và chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa, có thể đưa ra một số kết luận sau: - Dân chủ xã hội chủ nghĩa là “quyền lực của nhân dân” là “chính quyền của nhân dân lao động”. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là cái thuộc bản chất của chế độ ta, của nhà nước kiểu mới – nhà nước xã hội chủ nghĩa; - Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ toàn diện, có nội dung phong phú, được phát triển trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội. Nhưng thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự tham gia một cách bình đẳng và ngày càng rộng rãi của những người lao động vào công cuộc quản lý Nhà nước và của xã hội. - Sự tham gia của nhân dân và quản lý nhà nước và xã hội được thực hiện thông qua các hình thức: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ đại diện là hình thức mà qua đó nhân dân thực hiện sự “ủy quyền”, giao quyền lực của mình cho người, tổ chức mà nhân dân trực tiếp bầu ra. Những người và tổ chức ấy đại diện cho nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ trực tiếp là hình thức nhân dân tham gia trực tiếp có ý nghĩa quyết định đối với những công việc quan trọng của địa phương, cơ quan, đơn vị. Do vậy, nó có vai trò rất quan trọng trong quá trình dân chủ hóa nhà nước và xã hội của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về dân chủ xã hội chủ nghĩa: Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn xác định rõ phát huy dân chủ trong xã hội là một trong nội dung lớn của đường lối cách mạng nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc khẳng định dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng Nhà nước và nhân dân. Đảng ta đã luôn luôn không ngừng giữ gìn và phát huy dân chủ, đề cao quyền làm chủ của nhân dân lao động, coi đây là nhiệm vụ của toàn Đảng toàn dân. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu và ghi trong Nghị quyết vấn đề dân chủ là: xây dựng một Nhà nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa” vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng; mọi đường lối, chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước đều phải 5 phản ảnh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước. Chúng ta chủ trương xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân”. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân. Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức. Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết”. Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân tự tổ chức và thực hiện, trước hết và chủ yếu thông qua nhà nước của mình. Để có dân chủ thực sự, Đảng ta khẳng định: Trong chủ nghĩa xã hội, dân chủ và pháp luật phải đi đôi với nhau, pháp luật phải là “bà đỡ” của dân chủ, dân chủ và kỷ cương không bài trừ và phủ định nhau, mà trái lại, chúng nằm trong sự thống nhất biện chứng là điều kiện, tiền đề để tồn tại và phát triển của nhau. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay luôn gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện không ngừng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đảng ta cho rằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hình thức chính trị - nhà nước của xã hội, thừa nhận quyền tự do, bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lực, hệ thống chính trị là thiết chế đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng là để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Vì vậy, mức độ thực hiện quyền dân chủ của nhân dân phải được xem là thước đo đánh giá tính đúng đắn trong sự lãnh đạo của Đảng. Sứ mệnh lịch sử của Đảng cộng sản cầm quyền là lãnh đạo làm sao để nhân dân làm chủ ngày càng tốt hơn, dân chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và sâu sắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong công cuộc đổi mới hiện nay dân chủ và chủ nghĩa xã hội ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. 6 CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ ĐẠI QUANG GIAI ĐOẠN 2007-2012 1. Khái quát đặc điểm tình hình địa phương: 1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên: Đại Quang là một xã miền núi nằm về phía tây của Huyện Đại Lộc, cách trung tâm huyện lỵ 7 km, tổng số dân là 10.682 nhân khẩu. Phía đông giáp xã Đại Nghĩa, phía Tây giáp xã Đại Đồng, phía Nam giáp sông vu Gia, Phía bắc giáp dãy núi Sơn Gà. Toàn xã có 10 thôn, có Thôn Đồng Me nằm xen kẻ với các thôn của xã Đại Đồng là thôn xa nhất cách trung tâm xã gần 02 km. 1.2 Đặc điểm điều kiện kinh tế - xã hội: 1.2.1 Về hệ thống chính trị: Đảng bộ xã Đại Quang có 13 chi bộ trực thuộc, trong đó có 09 chi bộ thôn, 01 chi bộ HTX Nông nghiệp, 01 chi bộ Doanh nghiệp, 01 chi bộ Quân sự, 01 chi bộ Cơ quan xã. Ban chấp hành Đảng bộ có 11 đồng chí, Ban thường vụ có 03 đồng chí lãnh đạo trên tất cả các lĩnh vực của địa phương.Tổng số đảng viên của Đảng bộ có 173 đồng chí, trong đó nữ có 37 đồng chí. Trong những năm qua toàn thể đảng viên trong Đảng bộ luôn đoàn kết nhất trí một lòng quyết tâm xây dựng xã nhà vượt qua những khó khăn, ổn định về đời sống kinh tế cũng như chính trị, phát triển văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Từ những thành tựu đã đạt được Đảng bộ xã Đại Quang đã nhiều năm liền được công nhận là Đảng bộ “Trong sạch vững mạnh”. Hiện nay Ban chấp hành Đảng bộ xã đã phát hành lịch sử Đảng bộ xã giai đoạn 1930-1975, 1975-2010, và gần đây nhất Đảng bộ xã đã phát hành tập sách Đại Quang nhân vật và sự kiện tập 1. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội đã không ngừng được củng cố, kiện toàn và tăng cường phát huy hiệu lực trong việc lãnh đạo, quản lý điều hành xã hội. Cán bộ xã Đại Quang có 40 người. Trong đó 23 cán bộ công chức và chuyên trách và 17 cán bộ không chuyên trách. Những cán bộ chuyên trách và công chức của xã đều được đào tạo đạt chuẩn quy định (đều có bằng chuyên môn từ trung cấp trở lên và bằng trung cấp chính trị). Còn những cán bộ không chuyên trách là cán bộ dự nguồn nên vừa làm, vừa học nâng cao trình độ để đảm bảo đạt chuẩn quy định. 7 1.2.2 Đặc điểm kinh tế-xã hội: Tổng diện tích tự nhiên 3680,6 ha, diện tích đất Nông nghiệp là 509,26 ha, đất lâm nghiệp là 2299 ha, đất phi nông nghiệp là 559,81 ha, đất chưa sử dụng là 312,5 ha. Toàn xã có 2.914 hộ, 10.628 nhân khẩu. Trong đó nam: 5311 người, nữ 5371 người. Tốc độ tăng dân số bình quân hằng năm 1,2%. Mât độ dân số: 229 người/Km2. Lao động trong độ tuổi: 6270 người. Trong đó lao động Nông nghiệp: 4.517 hộ còn lại là lao động ngành nghề và dịch vụ Những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và quản lý điều hành của chính quyền, cộng với sự nổ lực phấn đấu của cán bộ và nhân dân trong toàn xã đã đưa nền kinh tế xã nhà tăng trưởng khá cao với tốc độ phát triển kinh tế bình quân hàng năm là 15%, đời sống nhân dân được ổn định và ngày càng cải thiện đáng kể. Văn hóa - xã hội có nhiều khởi sắc. Tình hình an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội luôn đảm bảo, công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo được kịp thời, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền ngày càng được củng cố. Thực hiện theo tinh thần Nghị quy Õt Đại hội Đảng bộ huyện Đại Lộc nhiệm kỳ 2000- 2005 là phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành huyện công nghiệp và Đại hội Đảng bộ xã Đại Quang lần thứ XV, XVI đã đề ra là phấn đấu đ Õn năm 2015 cơ bản trở thành xã công nghiệp. Trên tinh thần ấy, Đảng bộ và nhân dân x· nhà đã không ngừng phấn đấu trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng, nhằm tạo tiền đề để thực hiện thành công Nghị quyết. Tính đến nay Đại Quang đã đạt được những thành quả sau: * Trên lĩnh vực kinh tế: Giá trị tổng sản phẩm xã hội đến năm 2012 ước thực hiện 71,82 tỷ đồng, đạt 85% so với chỉ tiêu Nghị quyết Hội đồng nhân dân. Cơ cấu của từng ngành là: công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp: 70%, ngành nông nghiệp: 15%, ngành thương mại dịch vụ và du lịch: 15%. Tổng giá trị sản xuất trên địa bàn ước đạt 169 tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người là 13 triệu đồng / năm Về công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, xác định đây là ngành kinh tế mũi nhọn, xã chủ trương khai thác tiềm năng của từng ngành, từng thành phần kinh tế để phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp theo hướng kinh tế hàng hóa nhiều 8 thành phần, đáp ứng nhu cầu đời sống, giải quyết việc làm, đảm bảo nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng nông thôn mới. Về thương mại – dịch vụ đạt, với mục tiêu đưa thương mại – dịch vụ thành thế mạnh của xã, xã đã chủ trương xây dựng chợ Cầu Chìm thành chợ trung tâm của xã, đồng thời phát triển các ngành dịch vụ đáp ứng nhu cầu đời sống cho nhân dân. Về nông nghiệp đạt, xã chủ trương phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa hiệu quả và bền vững trên cơ sở giải quyết tốt nhu cầu lương thực, thực phẩm của nhân dân trên địa bàn. Nhằm thực hiện mục tiêu trên, xã đã tiến hành chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi, cơ giới hóa vào trong sản xuất nông nghiệp như mua máy gặt đập liên hợp nhằm góp phần vào nông nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. * Trên lĩnh vực văn hoá xã hội: Đối với công tác phát động phong trào xây dựng thôn văn hóa, gia đình văn hóa đến nay trên địa bàn xã đã có 9/9 thôn được xây dựng cụm văn hóa với nhiều hạng mục công trình, 85% gia đình đạt văn hóa, 20% tộc họ, 35% tổ đoàn kết đạt danh hiệu văn hóa,… với những kết quả đạt được như trên kết quả cho đến nay toàn xã đã có 7/10 thôn đạt thôn văn hóa cấp huyện, 2 thôn đạt văn hóa cấp tỉnh. Về công tác giáo dục – y tế: Toàn xã có 05 trường học: Trong đó trường mầm non có 02 cơ sở bán trú và 07 phòng học ở 07 thôn đang trong giai đoạn chuấn bị các điều kiện để đạt chuẩn quốc gia, có 02 trường tiểu học và 01 trường trung học cơ sở đã được công nhận trường chuẩn quốc gia, 01 trạm y tế đã được công nhận chuẩn quốc gia vào năm 2008, tỷ lệ người tham gia các hình thức bảo hiểm y tế đạt 45%; 01 đài truyền thanh phát song FM chuyên thu, phát tin tức từ đài huyện và những tin tức hoạt động của địa phương đặt tại Trung tâm nhà văn hóa của xã và một hợp tác xã dịch vụ sản xuất kinh doanh tổng hợp. Chính sách an sinh xã hội ngày càng đáp ứng nhu cầu của đời sống nhân dân. * Trên lĩnh vực an ninh quốc phòng: Ban chỉ huy Quân sự xã đã tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng và công tác quân sự địa phương: duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu phòng không bảo vệ tết nguyên đán, ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam và các ngày lễ lớn. Xây dựng lực lượng đảm bảo số lượng và chất lượng theo Nghị định 184/CP của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư 171/BQP và kế hoạch, chỉ tiêu huyện giao. 9 Tổng lực lượng là: 82đ/c ( Trong đó: 08 nữ); lực lượng DQCĐ: 27 đ/c (Trong đó 04 nữ), lực lượng DQBC: 15 đ/c; lực lượng CĐTC: 40 đ/c (trong đó: 03 nữ). Tham gia tốt công tác tập huấn tại trường quân sự tỉnh Quảng Nam, huấn luyện chính trị quân sự do Huyện đội tổ chức, tham gia huấn luyện lực lượng dân quân; hoàn thành tốt công tác diễn tập chiến đấu trị an trên địa bàn. Ngoài ra các công tác như: hậu cần- kỷ thuật; công tác Đảng, Đoàn, công tác chính trị đảm bảo thực hiện thường xuyên, liên tục. Thực hiện tốt công tác đăng ký độ tuổi 17 hằng năm đạt chỉ tiêu huyện giao. Thực hiện tốt công tác tuyển quân, giao quân 2. Quá trình triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở: 2.1 Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình triển khai quy chế dân chủ ở cơ sở: 2.1.1 Thuận lợi: Trong quá trình triển khai quy chế dân chủ ở xã có những thuận lợi sau: - Sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương trong việc triển khai pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11. - Công tác phối hợp giữa Mặt trận với các ban, ngành, đoàn thể về tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có sự đồng bộ và thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tốt quy chế dân chủ ở xã. - Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện rõ rệt. Năng lực quản lý, điều hành của Uỷ ban nhân dân ngày càng có hiệu quả, hiệu lực, góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, chính quyền và nhân dân, tạo nên sự phấn khởi, tin tưởng của cán bộ, công chức và nhân dân toàn xã, thúc đẩy thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước và các chương trình, kế hoạch của địa phương. 2.1.2 Khó khăn: Trong quá trình triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở xã vẫn còn một số khó khăn nhất định đó là : - Trình độ chuyên môn của cán bộ chưa được nâng cao nên trong giải quyết công việc của bộ phận tiếp nhận và hoàn trả hồ sơ còn thiếu khoa học, tình trạng giải quyết thủ tục hành chính đôi lúc chưa đúng hẹn. - Năng lực điều hành và quản lý Nhà nước còn bất cập, một số vấn đề đặt ra trước mắt, yêu cầu cuộc sống nhân dân chưa được giải quyết kịp thời. - Từ phía tổ chức, công dân một số do chưa nắm rõ quy trình thủ tục nên thực hiện chưa đúng hoặc bỏ qua bộ phận “một cửa” trực tiếp gặp lãnh đạo để yêu cầu giải quyết công việc. 10 - Một bộ phận cán bộ chưa nhận thức đúng và chưa coi trọng thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, lấy ý kiến đóng góp của nhân dân chưa chất lượng, hiệu quả, thiếu sự tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân,… - Một số chính sách bảo trợ xã hội, bình xét hộ nghèo,….vẫn còn chưa dân chủ, công khai, minh bạch nên vẫn còn gây bất bình trong nhân dân. - Việc thực hiện công khai nội dung các loại văn bản liên quan đến quyền và lợi ích của nhân dân chưa kịp thời. 2.2 Những thành tựu đạt được và hạn chế trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ trên địa bàn xã Đại Quang giai đoạn 2007-2012: 2.2.1 Thành tựu: Sau khi có Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18 tháng 2 năm 1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII), các Nghị định của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Trung ương, tỉnh, huyện về việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ. Đặc biệt là sự ban hành Pháp lệnh 34/PL-UBTVQH11 vào năm 2004 về việc thực hiện quy chế dân chủ ở xã , phường, thị trấn. Các đồng chí lãnh đạo của xã được học tập, quán triệt tại huyện sau đó về xây dựng kế hoạch, chương trình hành động triển khai trong Ban chấp hành Đảng bộ xã mở rộng đến các Bí thư chi bộ. Ban Thường vụ Đảng ủy xã tổ chức sinh hoạt Đảng bộ xã, mời báo cáo viên Ban tuyên giáo huyện ủy về truyền đạt chỉ thị 30-CT/TW cho đảng viên nắm. Đồng thời Thường trực Đảng ủy đã chỉ đạo chính quyền, mặt trận và các ban, ngành, đoàn thể xây dựng chương trình hành động cụ thể tổ chức cho nhân dân học tập. Trên cơ sở đó UBND xã ra quyết định thành lập Ban chỉ đạo triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của xã do đồng chí Bí thư, chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban. Để Quy chế dân chủ sớm đi vào cộc sống , Ban chỉ đạo của xã đã ban hành kế hoạch triển khai thực hiện, tổ chức họp và phân công các thành viên trong Ban chỉ đạo, các Đảng ủy viên đứng cánh ở từng thôn phối hợp với Ban Tuyên giáo xã triển khai cho nhân dân học tập thực hiện. Kết quả bước đầu đã được nhân dân hưởng ứng nhiệt tình. - Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã tăng cường vai trò của Nhà nước và tạo môi trường thông thoáng cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nhiều quy trình, thủ tục hành chính đã được đơn giản và công khai hóa, thời gian giải quyết được rút ngắn, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức cá nhân trong giao dịch hành chính đối với cơ quan Nhà nước. Hệ thống tổ chức bộ máy tiếp tục được kiện toàn tăng cường hơn về năng lực, hiệu lực hoạt động, quy chế tổ chức và hoạt động của UBND được bổ sung hoàn thiện. Kết quả giải quyết hồ sơ hành chính cho các tổ chức, cá nhân đúng hẹn đạt tỷ lệ cao. - Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tạo điều kiện cho nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình, tham gia các công việc quản lý ở địa phương, tham gia bầu cử đúng luật bầu đúng, bầu đủ, kiểm soát và đấu tranh chống tệ quan liêu, 11 tham nhũng. Tránh tình trạng một số cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhũng nhiễu trong nhân dân. - Việc cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” trong thời gian qua đã được các cấp ủy đảng, chính quyền rất quan tâm. Cải cách thủ tục hành chính là nhu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới và quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực khơi dậy mọi nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, chuyển nền hành chính tập trung quan liêu sang nền hành chính dựa trên cơ sở luật pháp và lấy việc phục vụ tốt các yêu cầu của nhân dân làm trọng tâm, tạo ra những bước đột phá mới góp phần tác động tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Qua 5 năm triển khai thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trên địa bàn xã, thực hiện theo pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 đã đạt được một số kết quả như sau: * Đối với những vấn đề dân biết: - Thông qua các kỳ họp Hội đồng nhân dân, thông qua các cuộc tiếp xúc cử tri, các buổi mittinh trong nhân dân và trên hệ thống đài truyền thanh thông báo kịp thời đến nhân dân các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chương trình, nhiệm vụ trọng tâm của xã, các dự án phát triển kinh tế. Cụ thể như: các chương trình vay vốn để phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, việc thu và sử dụng các loại quỹ từ nguồn huy động trong nhân dân, các dự toán thu, chi ngân sách xã hàng năm,…và đóng góp với cấp ủy Đảng, chính quyền những vấn đề nhân dân quan tâm. Xã đã cơ bản thông tin về những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân dân. Niêm yết công khai những quy định về nội quy cơ quan, về thời gian và quy chế tiếp công dân, những thủ tục về hộ tịch, hộ khẩu, địa chính, chính sách thương binh xã hội, quy định các khoản thu phí, lệ phí, thời gian giải quyết các thủ tục hành chính tại UBND xã đã giảm bớt các thủ tục rườm rà, gây phiền hà trong nhân dân, đa số nhân dân đồng tình hưởng ứng, đem lại niềm tin trong nhân dân. Đặc biệt mỗi khi có thiên tai bão, lụt Đài truyền thanh của xã đã thông báo kịp thời cho nhân dân biết để có biện pháp phòng, chống hiệu quả. - UBND xã đã thực hiện nghiêm túc những nội dung công khai để dân biết như chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các công trình dự án đầu tư trực tiếp cho cơ sở như Chương trình 134, 135, các nguồn vốn nhà nước đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng: điện, đường, trường, trạm, các chính sách hỗ trợ vùng đặc biệt khó khăn, vay vốn phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, các loại quỹ, các khoản phí, lệ phí, các khoản đóng góp khác. Hình thức công khai vừa qua hệ thống truyền thanh, các cuộc họp thôn, bản, các cuộc tiếp xúc cử tri... một số nội dung được công khai niêm yết tại trụ sở, khu văn hóa thôn để dân biết. 12 * Đối với những vấn đề được đưa ra để dân bàn và quyết định: - Những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của nhân dân đều được đưa ra nhân dân bàn bạc và thể hiện tính dân chủ như xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng, đặc biệt là bê tông hóa giao thông nông thôn, các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội có liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân. - Các nguồn kinh phí nhân dân đóng góp để xây dựng đường, làng, xây dựng sửa chữa các công trình phúc lợi của địa phương đều được đưa ra nhân dân họp bàn và quyết định công khai dân chủ. Nhân dân đã đóng góp xây dựng các tuyến đường giao nông thôn ( đường ĐX, ĐT, ĐTh) từ năm 2010 đến 2012 đạt được kết quả cụ thể như sau: Đơn vị tính: đồng STT Năm Nguồn đầu tư Ngân sách cấp của xã trên Nguồn huy động 1 2010 50.475.000 252.375.000 33.650.000 2 2011 22.023.100 374.392.000 44.046.200 3 2012 64.980.000 324.900.000 43.320.000 - Ủy ban nhân dân xã chỉ giám sát kiểm tra sau khi đã được nhân dân đóng góp ý kiến và thực hiện. - Các chế độ chính sách cho người có công với nước, chế độ bảo trợ xã hội được giải quyết kịp thời. Pháp lệnh thực hiện dân chủ cơ sở ngày càng rõ nét, các chương trình kinh tế - xã hội, các nghị quyết chuyên đề đều có sự tham gia góp ý của người dân, * Đối với những vấn đề được đưa ra để dân làm: - Kết quả bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam xã đã tổ chức tốt công tác hiệp thương, lựa chọn giới thiệu người tham gia ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã, cấp huyện đảm bảo đúng luật và dân chủ, công khai. Từ đó, nhân dân đã tích cực tham gia đi bầu cử để thực hiện quyền và trách nhiệm của mình, tỷ lệ cử tri bỏ phiếu bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân đạt 99,95%. - Công tác góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền ngày càng đi vào chiều sâu và thiết thực, từng bước làm cho bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ công chức ở cở trong sạch, vững mạnh, thể hiện rõ nhất ở các cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XIII, HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016, bầu trưởng thôn, nhân dân nhận thức được về quyền dân chủ trực tiếp và quyền dân chủ đại diện của mình, trong quá trình tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. 13 * Đối với những vấn đề được đưa ra để dân kiểm tra: - Kết quả 5 năm thực hiện quy chế dân chủ, kiện toàn Ban thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng mỗi ban 11 thành viên, đã thành lập 08 tổ hòa giải, thực hiện chức năng giám sát của mình, Ban thanh tra nhân dân đã cùng với chính quyền và các ngành có liên quan giải quyết hơn 150 kiến nghị của nhân dân, kết hợp với tổ hòa giải ở thôn đã hòa giải hơn 60 vụ mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, góp phần giảm bạo lực gia đình và bảo vệ hạnh phúc cho nhiều gia đình, giữ vững sự đoàn kết ở các khu dân cư. - Các công trình xây dựng cơ bản, quy hoạch đất sử dụng đất đều có sự tham gia giám sát của nhân dân. - Hai năm một lần trong mỗi nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cấp xã, Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận xã tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân và chủ tịch, phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã ở 09 thôn. Qua phần trình bày kiểm điểm của các đồng chí chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, nhân dân đã có những ý kiến đóng góp thật chân thật để những cán bộ hoàn thiện năng lực, phẩm chất tốt hơn. Đem lại quyền và lợi ích cho người dân nhiều hơn. .- Việc thực hiện quy chế dân chủ gắn với việc cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” được duy trì và chuyển biến tích cực, các thủ tục hành chính cơ bản được giải quyết nhanh, gọn, kịp thời giảm bớt phiền hà trong nhân dân. Phòng “Tiếp nhận và hoàn trả hồ sơ” theo cơ chế “Một cửa”của UBND xã Đại Quang được bố trí 04 cán bộ công chức phụ trách, gồm các ngành: Văn phòng – Thống kê, Tư pháp-Hộ tịch, Địa chính-xây dựng và Lao động – Thương binh xã hội, với trang thiết bị, cơ sở vật chất tương đối đảm bảo. Thủ tục hành chính trên các lĩnh vực như: đăng ký kết hôn, khai sinh, khai tử, đăng ký hộ tịch, hộ khẩu, chứng thực bản sao, xác định hộ nghèo, giải quyết các hồ sơ, thủ tục liên quan đến đất đai,… ngày càng được cải tiến theo hướng nhanh gọn cho tổ chức và công dân, phong cách làm việc của cán bộ công chức phòng “một cửa” được nâng lên, luôn lắng nghe, tiếp thu ý kiến đóng góp từ nhân dân. - UBND xã đã tổ chức họp giao ban cán bộ công chức phòng “một cửa” vào chiều thứ 2 hàng tuần để lắng nghe phản ánh và tâm tư nguyện vọng của các cán bộ, công chức. Chủ tịch UBND xã đã tiếp công dân vào ngày thứ 6 hàng tuần lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp của công dân. Qua quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, việc cải cách tài chính công của xã đã đạt được những kết quả quan trọng: hiệu quả sử dụng kinh phí trong quản lý ngày càng được nâng cao, tăng cường trách nhiệm và tiết kiệm trong các ban, ngành của cơ quan. 14 - Thực hiện quy chế dân chủ gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” vận động nhân dân xây dựng nếp sống văn minh, lành mạnh, bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội, giữ gìn vệ sinh môi trường xanh-sạch-đẹp. Cuộc vận động đã mang lại hiệu quả thiết thực, phát huy dân chủ, khơi dậy tiềm năng nội lực của nhân dân trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn hóa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã. Xây dựng gia đình văn hóa, thôn văn hóa, tộc văn hóa, được các cấp, các ngành, đơn vị, địa phương và các tổ chức đoàn thể chú trọng và triển khai thực hiện nghiêm túc, huy động được sự tham gia của toàn xã hội, của cộng đồng dân cư, các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy. Hiện nay toàn xã có 3/10 thôn được công nhận thôn văn hóa, 2.629/2.893 hộ đạt gia đình văn hóa, có 09 tộc phát động xây dựng tộc văn hóa. Toàn xã có 62 tổ đoàn kết, trong đó có 80% cổng tổ đoàn kết được xây dựng. Trong năm 2012 Ban Thường trực Mặt trận xã đã tổ chức thành công lễ kỷ niệm 82 năm ngày thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam và Hội thi “chung tay xây dựng nông thôn mới”. Có 10/10 thôn tổ chức cắm trại và tham gia hội thi thật sôi nổi. - Thực hiện quy chế dân chủ gắn với chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới: Thực hiện tốt quy chế dân chủ đem lại niềm tin trong nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội góp phần thực hiện thắng lợi kinh tế - xã hội của xã nhà, đặc biệt trong việc xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay. Đến thời điểm hiện tại, Đại Quang đã hoàn thành xong việc xây dựng đồ án và trình Ủy ban nhân dân huyện phê duyệt. Theo đề án, Đại Quang đạt 04/19 tiêu chí của chương trình. Trong năm 2012, địa phương quyết tâm từng bước thực hiện tiêu chí về Giao thông (tiêu chí 2), đặc biệt chú trọng thực hiện mạnh mẽ tiêu chí về môi trường (Tiêu chí 17). Mặt trận phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia vào quá trình xây dựng nông thôn mới, nhân dân đồng tình hưởng ứng đã đóng góp xây dựng các cơ sở hạ tầng, tu bổ lại các nhà văn hóa thôn. Xã đã xây dựng được các tuyến đường giao thông nông thôn như: xây dựng được 05 đường chính của xã có cống, cầu được đúc bằng bê tông cốt thép kiên cố, vận động nhân dân đóng góp xây dựng các tuyến đường liên thôn, xóm góp phần vào quá trình xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay. Thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn hiện nay, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, cùng với các cơ chế, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, việc phát huy và triển khai thực hiện quy chế dân chủ trên địa bàn xã đã góp phần huy động nhân dân trong việc phát triển kinh tế - xã hội của địa 15 phương và xây dựng các cơ sở hạ tầng góp phần vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong nông nghiệp, đã vận động nhân dân thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng con vật nuôi, đặc biệt đã liên hệ với công ty giống Thái Bình ký kết hợp đồng gieo lúa giống tại thôn Hòa Thạch góp phần đem lại thu nhập cho bà con nông dân và được nhân dân hưởng ứng.Từ đó, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, làm cho bộ mặt của xã ngày một thay đổi, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện về mặt vật chất và tinh thần. - Thực hiện quy chế dân chủ trong việc bình xét hộ nghèo: Tỷ lệ hộ nghèo của xã theo chuẩn còn cao đến nay là 13,82%. Hằng năm Ban chỉ đạo xã đều rà soát lại danh sách hộ nghèo, phân bổ chỉ tiêu xuống thôn. Việc bình xét hộ nghèo được tổ chức theo nguyên tắc công khai, dân chủ ở từng thôn. Căn cứ vào thu nhập bình quân và tài sản của hộ để biết hộ nghèo hay cận nghèo. Sau đó tổ chức họp dân lấy ý kiến biểu quyết đối với từng hộ bằng hình thức giơ tay, kết quả biểu quyết phải trên 50 % số người tham dự mới đưa vào danh sách đề nghị: hộ thoát nghèo, cận nghèo, hộ nghèo. 2.2.2 Hạn chế: - Công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ở xã chưa sâu rộng, thường xuyên; chưa chủ động đề ra các biện pháp cụ thể để thực hiện quy chế dân chủ gắn với việc cải cách thủ tục hành chính và nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. - Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ ở xã chưa chủ động tham mưu cho cấp ủy chỉ đạo quán triệt, hướng dẫn thực hiện, kiểm tra, sơ kết các chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ. - Việc triển khai, xây dựng thực hiện quy chế dân chủ trên địa bàn xã chưa nghiêm túc thực hiện dẫn đến tình trạng một số cán bộ tự đề cao quyền hạn của mình, còn biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, xa rời dân, không chịu lắng nghe ý kiến của nhân dân, chưa thực hiện tốt những nội dung của quy chế dân chủ, có tư tưởng cục bộ gây mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân. - Một bộ phận nhân dân chưa nhận thức đúng đắn vấn đề dân chủ gắn với kỷ cương, quyền lợi, gắn với trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, đã lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích cá nhân, lợi dụng quyền dân chủ để yêu sách, cố tình chống đối chính quyền, lôi kéo, kích động quần chúng nhân dân gây mất trật tự an toàn xã hội làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, chính quyền. - Việc thực hiện cải cách hành chính vẫn chưa đi vào chiều sâu, nhiều chế độ chính sách của người dân chưa được giải quyết kịp thời. 16 - Hoạt động của Ủy ban mặt trận tổ quốc và các đoàn thể đã được đổi mới và chú trọng nâng cao chất lượng song chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đổi mới, tăng tốc phát triển và hội nhập, vẫn mang nặng tính hình thức, hành chính chưa thực sự là lực lượng nòng cốt trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu và các hiện tượng tiêu cực của Ủy ban mặt trận và các đoàn thể còn hạn chế, hầu như chưa có vụ việc tiêu cực nào bị các đoàn thể nhân dân phát hiện, tố cáo. Các đoàn viên, hội viên với tư cách là công dân cũng chưa thực sự phát huy hết quyền và trách nhiệm. 2.2.3 Nguyên nhân tồn tại, hạn chế: * Nguyên nhân ưu điểm: - Sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên của cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, với những chủ trương, giải pháp đúng đắn nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho nhân dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc và những vấn đề còn bất cập trong quản lý, điều hành. - Sự phối hợp của Ủy ban Mặt trận, đoàn thể với chính quyền trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. - Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện tăng cường triển khai thực hiện quy chế dân chủ, các ngành cùng với ý thức trách nhiệm, trình độ dân trí của nhân dân được nâng cao đã tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình; đồng thời đã thực sự mang lại niềm tin trong nhân dân đối với việc thực hiện chủ trương này. * Nguyên nhân tồn tại, hạn chế: - Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ quy chế dân chủ do đó ngay từ khi triển khai thực hiện cũng như việc xây dựng kế hoạch chưa bám sát vào các quan điểm chỉ đạo, chưa phát huy được quyền dân chủ đại diện và quyền dân chủ trực tiếp. Xây dựng quy chế chưa phù hợp, chưa gắn dân chủ với kỷ cương xã hội, quyền hạn gắn với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ, bởi vậy chưa chống được tệ quan liêu, mệnh lệnh, xa rời dân của một số cán bộ. - Các quan điểm, chủ trương của Đảng chưa được thể chế hoá, cơ chế, chính sách tiến hành chưa đồng bộ, nhất là thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở còn bộc lộ nhiều thiếu sót, còn mang tính hình thức. Sự thiếu nhất quán trong các chính sách dẫn đến thiếu lòng tin trong nhân dân. - Nhận thức và hiểu biết của một số cán bộ về quy chế dân chủ còn hạn chế dẫn tới tổ chức thực hiện không tốt. - Hoạt động của Ban thanh tra nhân dân và tổ hoà giải ở thôn còn hạn chế, chưa phát huy được vai trò trong việc phối hợp để giải quyết những vụ việc mâu 17 thuẫn, những vụ tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân, do đó đã để cho việc gây mất đoàn kết kéo dài dẫn đến gây mất trật tự an toàn xã hội. Xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, chính quyền với Mặt trận, các đoàn thể còn thiếu đồng bộ, các đoàn thể chậm đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động, do đó chưa thu hút được quần chúng ưu tú tham gia hoạt động xã hội. - Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ hoạt động có lúc chưa thường xuyên, chưa chủ động xây dựng kế hoạch tự kiểm tra, tự đánh giá rút kinh nghiệm trong chỉ đạo. Do đó, chưa giúp được cấp uỷ những hình thức động viên các tổ chức, các cá nhân làm tốt, đồng thời chưa có các biện pháp tích cực nhằm uốn nắn giúp đỡ tổ chức, cá nhân chưa làm tốt. 18 CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP TIẾP TỤC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ ĐẠI QUANG TRONG THỜI GIAN ĐẾN 1. Phương hướng: Để thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ngày càng hiệu quả và không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh của toàn dân, cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể từ xã đến thôn cần phải có những phương hướng sau: Phát huy những thành tích đã đạt được trong thời gian qua và những bài học kinh nghiệm đã được đúc kết, đồng thời tiếp tục triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII), pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11. Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, phối kết hợp với nhiều cấp, nhiều ngành, sử dựng các hình thức tuyên truyền, phổ biến sinh động, phong phú, thiết thực và liên tục bền bỉ như thông qua hình thức tuyên truyền miệng, các Hội thi, cuộc thi và các buổi nói chuyện chuyên đề. 2. Giải pháp: Trên cơ sở những kết quả đã đạt được về công tác thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn xã trong thời gian đặc biệt là công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”. Để tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại xã trong thời gian đến. Cần thực hiện những giải pháp cụ thể sau: - Cần đổi mới nội dung, hình thức công khai cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương; đảm bảo những nội dung liên quan đến đời sống của nhân dân thì nhân dân phải được biết, được thảo luận và có ý kiến quyết định, tham gia giám sát; cần sửa đổi những nội dung đưa vào hương ước, quy ước của thôn sao cho ngắn gọn, thiết thực phù hợp để nhân dân thảo luận, đồng thuận và dễ nhớ, dễ thực hiện; chấn chỉnh cách làm hình thức, lấy lệ. Tiếp tục rà soát và bổ sung để đẩy mạnh cải cách hành chính, thủ tục hành chính “một cửa”, “một cửa liên thông”. - Tuyên truyền, phổ biến về việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở đến các tầng lớp nhân dân như tiếp tục triển khai pháp lệnh số 34/PL-UBTVQH11, kết hợp vận động các bộ, hội đoàn viên “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. - Đẩy mạnh công tác tổ chức đối thoại trực tiếp với nhân dân, nhất là các chương trình, dự án, lĩnh vực có liên quan nhiều đến đời sống nhân dân và kinh tếxã hội của địa phương. 19 - Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo cho cán bộ, công chức để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. - Bổ sung hoàn chỉnh quy chế hoạt động của UBND xã phù hợp với cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”. - Tăng cường cơ sở vật chất đảm bảo các điều kiện để thực hiện quy chế dân chủ phục vụ nhu cầu nhân dân. - Mặt trận và các đoàn thể đổi mới công tác nắm bắt tình hình và kịp thời phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân cho Đảng và Chính quyền có chủ trương, biện pháp giải quyết những công việc liên quan đến nhân dân; tăng cường công tác giám sát, kiểm tra thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; nghiên cứu cơ chế giám sát, phản biện nhân dân trên các lĩnh vực liên quan đến đời sống của nhân dân trên toàn xã; - Tiếp tục phát huy kết quả đã đạt được trong những năm qua, khắc phục nhanh những thiếu sót khuyết điểm, đồng thời đề ra những giải pháp tốt nhất nhằm hoàn thiện mô hình cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tiến tới thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” theo quy định của chính phủ để nhằm phục ngày càng tốt hơn các yêu cầu của tổ chức và công dân. - Đảng uỷ- HĐND xã tăng cường sự kiểm tra, đôn đốc về cải cách thủ tục hành chính với bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, các ban ngành chuyên môn trực thuộc UBND xã. - Sơ kết rút kinh nhiệm việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. - Tiếp tục thực hiện tư tưởng “lấy dân làm gốc” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với mọi công việc, tuyên truyền vận động nhân dân hiểu rõ và nắm nội dung từng việc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và giám sát việc thực hiện pháp lệnh 34/PL-UBTVQH11 thể hiện tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức khắc phục tình trạng thờ ơ, quan liêu đối với nhân dân. 3. Ý kiến đề xuất: Để việc thực hiện quy chế dân chủ trên địa bàn xã trong thời gian đến được thực hiện đồng bộ hơn. Bản thân xin đề xuất một số ý kiến, kiến nghị sau: - Cần kiện toàn Ban phối hợp thực hiện quy chế dân chủ ở xã, tổ chức các cuộc họp giao ban định kỳ nắm rõ tình hình tư tưởng trong nhân dân. - Tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, tăng cường đào tạo chất lượng đội đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan