ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------
NGUYỄN THỊ QUỲNH THÚY
MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM CẢI CÁCH KINH TẾ
Ở TRUNG QUỐC - NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP
CÁC ĐẶC KHU KINH TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Châu Á học
Hà Nội - 2013
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------
NGUYỄN THỊ QUỲNH THÚY
MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM CẢI CÁCH KINH TẾ
Ở TRUNG QUỐC - NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP
CÁC ĐẶC KHU KINH TẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Châu Á học
Mã số: 60.31.50
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM SỸ THÀNH
Hà Nội - 2013
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu luận văn là hoàn toàn trung thực. Luận văn
có kế thừa các công trình nghiên cứu của ngƣời đi trƣớc và có bổ
sung của những tƣ liệu, số liệu cập nhật.
Học viên
Nguyễn Thị Quỳnh Thúy
3
LỜI CẢM ƠN
Sau hơn hai năm thƣc hiện nghiêm túc và khẩn trƣơng chƣơng trình cao
học Châu Á học, Khoa Đông Phƣơng, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, luận văn cao học với đề tài “Mô hình
thí điểm cải cách kinh tế ở Trung Quốc – Nghiên cứu trƣờng hợp các đặc khu
kinh tế” đã đƣợc hoàn thành với sự cố gắng, nỗ lực của bản thân cùng với
sự giúp đỡ của các thầy cô giáo.
Để hoàn thành luận văn cao học này, trƣớc hết, tôi xin gửi cảm ơn
chân thành đến cơ sở đào tạo , Khoa Đông Phƣơng, Trƣờng Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; các thầy cô giáo giảng
dạy các môn chuyên đề để cho tôi có đƣợc kiến thức ngày càng toàn diện và
sâu sắc về các lĩnh vực có liên quan đến đề tài cũng nhƣ nghiên cứu Trung
Quốc học. Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn chân thành đến TS. Phạm Sỹ Thành,
ngƣời hƣớng dẫn khoa học cho tôi trong suốt thời gian hoàn thành luận văn
này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, xong luận văn mới là kết quả nghiên cứu
bƣớc đầu, nên không tránh khỏi những hạn chế về nhận thức. Tôi mong
nhận đƣợc sự góp ý của thầy cô, bạn bè để có thể hoàn thiện nghiên cứu hơn
nữa.
Hà Nội, ngày 12/12/2013
Học viên
Nguyễn Thị Quỳnh Thúy
4
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1
CHƢƠNG 1. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHUYỂN ĐỔI KINH TẾ VÀ 15
THỰC TIỄN CHUYỂN ĐỔI TẠI CÁC NƢỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
THUỘC HỆ THỐNG CỔ ĐIỂN
1.1. Lý thuyết chung về phƣơng thức chuyển đổi kinh tế
15
1.1.1. Mục tiêu và giới hạn của chuyển đổi kinh tế
15
1.1.2. Tốc độ và trình tự của chuyển đổi kinh tế
18
1.2. So sánh lợi ích – chi phí của hai phƣơng thức chuyển đổi kinh tế
28
1.2.1. Bản chất của chuyển đổi kinh tế
29
1.2.2. Các dạng chi phí chuyển đổi
33
1.3. Lựa chọn các dạng thức chuyển đổi và chi phí của từng dạng thức
33
1.3.1. Xây dựng mô hình các dạng thức chuyển đổi
35
1.3.2. Lựa chọn phƣơng thức chuyển đổi với những điều kiện khác nhau
39
1.4. Chuyển đổi kinh tế ở Nga và Trung-Đông Âu
39
1.4.1. Khái quát quá trình chuyển đổi kinh tế ở Trung- Đông Âu và Nga
43
1.4.2. Chuyển đổi kinh tế theo liệu pháp sốc tại Nga và Trung – Đông 45
Âu: Trƣờng hợp cải cách chế độ sở hữu
Tiểu kết chƣơng 1
53
CHƢƠNG 2. CHUYỂN ĐỔI KINH TẾ THEO MÔ HÌNH THÍ ĐIỂM CẢI 55
CÁCH Ở TRUNG QUỐC (KỂ TỪ NĂM 1978)
2.1. Một số lĩnh vực từng tiến hành cải cách theo mô hình thí điểm tại 55
Trung Quốc kể từ năm 1978
2.1.1. Chế độ khoán trách nhiệm kinh doanh trong sản xuất nông nghiệp
55
2.1.2. Thí điểm thành lập đặc khu kinh tế (special economic zone)
61
5
2.1.3. Thí điểm cải cách doanh nghiệp nhà nƣớc
63
2.1.4. Thí điểm cải cách thể chế quản lí ngoại tệ
69
2.1.5. Thí điểm về mở cửa đối ngoại
71
2.2. Những đặc trƣng của quá trình chuyển đổi theo mô hình thí điểm cải
74
cách tại Trung Quốc
2.2.1. Giải quyết những vấn đề ngoài thể chế tạo nguồn lực cải cách các
74
lnxh vực trong thể chế cũ
2.2.2. Các cải cách mang tính cục bộ lớn
81
2.3. Lý giải về việc Trung Quốc lựa chọn chuyển đổi theo mô hình thí
83
điểm cải cách từ góc độ Kinh tế học Chính trị
2.3.1. Hai dạng thức “phản hồi” của cấp trên trong “hệ thống Đảng –
84
Nhà nƣớc” (Party – State System)
2.3.2. Kết cấu quyền lực chính trị của Trung Quốc và tác động đến lựa
87
chọn phƣơng thức chuyển đổi
Tiểu kết chƣơng 2
91
CHƢƠNG 3. ĐẶC TRƢNG THÍ ĐIỂM CẢI CÁCH THÔNG QUA
93
NGHIÊN CỨU VỀ CÁC ĐẶC KHU KINH TẾ (ĐKKT)
3.1. Quá trình thành lập các ĐKKT
93
3.1.1. Đặc khu kinh tế trong chiến lƣợc cải cách kinh tế của Trung Quốc
93
3.1.2. Ý nghĩa xây dựng ĐKKT của Trung Quốc
98
3.1.3. Quá trình xây dựng các ĐKKT
100
3.2.Tính chất thí điểm chính sách trong sự phát triển của các đặc khu kinh tế
101
3.2.1. Chính sách Quản lý nhà nƣớc đối với ĐKKT
101
3.2.2. Các chính sách ƣu đãi về thuế
106
3.2.3. Chính sách về lao động và tiền lƣơng
109
3.2.4. Các chính sách ƣu đãi về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, ngoại hối
110
3.2.5. Chính sách đất đai
112
3.2.6. Chính sách về thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm
114
6
3.3. Những hiệu quả và bất cập trong sự phát triển của đặc khu - ƣu 115
nhƣợc điểm của mô hình thí điểm
3.3.2. Một số vấn đề tồn tại trong quá trình hình thành và phát triển các ĐKKT
115
3.4. Ƣu – nhƣợc điểm của chuyển đổi theo phƣơng thức thí điểm cải cách 120
và phƣơng thức shock
Tiểu kết chƣơng 3
122
KẾT LUẬN
128
TÀI LIỆU THAM KHẢO
130
7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi chính thức tiến hành cải cách (năm 1978) đến nay, kinh tế
Trung Quốc đã có những chuyển biến làm thế giới phải khâm phục. Trong
giai đoạn 1978 – 2007, Trung Quốc duy trì đƣợc mức tăng trƣởng GDP bình
quân 9,7%/năm, cao hơn rất nhiều so với mức trung bình 3% của thế giới.
Trong suốt chiều dài từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX, mức GDP bình quân của
Trung Quốc hầu nhƣ không có sự chuyển biến đáng kể nào. Trong tiến trình
ấy, xuất hiện hai mốc thời gian mà GDP bình quân xuất hiện quỹ tích khác so
với thời gian trƣớc. Đó là khoảng năm 1850 và 1978. Sau cuộc chiến tranh
Nha phiến lần thứ nhất (1840), Trung Quốc từ chỗ chiếm 32,88% trong tổng
GDP toàn thế giới đã đánh mất vị trí của mình, và kéo dài đà suy thoái trầm
trọng đó cho đến năm 1973. Quốc gia này chỉ khởi sắc sau khi tiến hành
chuyển đổi dƣới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình vào năm 1978. Từ mốc thời
gian này trở đi, quỹ tích phát triển của đƣờng GDP bình quân đã thay đổi với
một tốc độ đáng kinh ngạc. Có thể nói không quá rằng về tăng trƣởng tổng
sản phẩm quốc nội, nhƣ̃ng gì mà Trung Quố c đa ̣t đƣơ ̣c trong giai đoa ̣n hơn 30
năm qua bằ ng 1000 năm trƣớc đó của quố c gia này cô ̣ng la ̣i . Bất kể sự trỗi
dậy của Trung Quốc đƣợc coi nhƣ là một cơ hội hay là sự “uy hiếp” đối với
thế giới thì chúng ta đều phải thừa nhận rằng “con rồng Trung Hoa” đã tỉnh
giấc.
Lý giải về nguyên nhân thành công của quá trình chuyển đổi kinh tế tại
Trung Quố c tƣ̀ năm 1978 đến nay , các nghiên cứu thƣờng tập trung vào
3
khía cạnh chính: (i) sƣ̣ tái phân phố i quyề n tài sản ; (ii) xây dƣ̣ng thể chế kinh
tế thi ̣trƣờng và (iii) tâ ̣n du ̣ng vai trò của thi ̣trƣờng bên ngoài – quá trình hội
nhâ ̣p.
8
Nguyên nhân quan trọng đầu tiên đó là cải cách đã tiến hành phân định
lại quyền tài sản hƣớng đến chủ thể quyền tài sản cụ thể. Điều này tạo ra động
lực phát triển vô cùng mạnh mẽ. Trƣớc khi tiến hành chuyển đổi năm 1978,
chế độ quyền tài sản phổ biến nhất ở Trung Quốc là chế độ quyền tài sản công
hữu với quyền sở hữu (ownership) nằm trong tay nhà nƣớc, và chủ sở hữu
danh nghĩa là “toàn dân”. Ở nông thôn, chế độ sở hữu tập thế với sự hiện diện
của các hợp tác xã đƣợc coi là một hình thức “chuẩn – sở hữu nhà nƣớc” và là
hình thức sở hữu hợp pháp duy nhất trong sản xuất nông nghiệp. Việc coi
kinh tế xã hội chủ nghĩa = địa vị thống trị của chế độ quốc hữu + kinh tế kế
hoạch [51, 59] khiến Trung Quốc luôn phải đối diện với những khó khăn lớn
bởi bản thân chế độ quyền tài sản công hữu tồn tại nhiều hạn chế rõ rệt.
Chế độ quyền tài sản công hữu mang đặc tính rõ nét của một chế độ
quyền tài sản tàn khuyết (残缺产权制度). Biểu hiện của đặc tính này là giữa
quyền tài sản đƣợc ghi nhận và bảo vệ bởi luật pháp (hoặc luật tục) với quyền
tài sản thực thi trong thực tế luôn tồn tại sự bất cân xứng. Barzel [9] chỉ ra
rằng việc phân định/giới định quyền sở hữu về một tài sản nào đó trên khía
cạnh pháp luật luôn dễ dàng và có chi phí thấp hơn rất nhiều so với việc thực
thi nó trong thực tế. Bởi lẽ bất kể quyền tài sản đƣợc phân định nhƣ thế nào
(hình thái cực đoan - chế độ công hữu, hay ở một thái cực khác - chế độ tƣ
hữu) thì trong hoạt động kinh tế vẫn luôn tồn tại một “trƣờng/miền công
cộng” (public domain). Nghĩa là, chi phí để thực hiện quyền sở hữu quá lớn
khiến chủ thể quyền tài sản khó lòng đảm bảo đƣợc khả năng ngăn cản, “loại
trừ” ngƣời khác sử dụng. Barzel [9] gọi quyền lợi của cá nhân xác lập đƣợc ở
trong “trƣờng/miền công cộng” này là “cƣớp đoạt phúc lợi” (walfare capture).
Việc tài sản bị sử dụng “miễn phí” nhƣ sẽ gây ra những tổn thất phúc lợi hoặc
làm “hao tán tiền tô” (rent dissipation). Mà hậu quả trực tiếp dễ nhận thấy
nhất là khả năng làm cạn kiệt các nguồn lực mang tính công cộng.
9
Bên cạnh đó, sự tồn tại của một chế độ quyền tài sản công hữu mang tính
tàn khuyết còn khiến cho cơ chế khích lệ (incentive regime) không phát huy
tác dụng khi chế độ quyền tài sản này chỉ tạo điều kiện để các “phi chủ thể sở
hữu” đƣợc khuyến khích sử dụng miễn phí nhƣng lại không phải chịu trách
nhiệm gì với hành vi của mình. Nhìn lại sự phát triển của công xã nhân dân và
các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở nông thôn hay các xí nghiệp quốc
doanh (sau này là doanh nghiệp nhà nƣớc) ở thành thị có thể thấy rõ những
tác hại này của chế độ quyền tài sản công hữu. Khi tất cả tài sản là của chung,
làm nhiều làm ít đều hƣởng đãi ngộ nhƣ nhau, kinh doanh lỗ hay lãi đều
không ảnh hƣởng đến thu nhập của cá nhân thì giám đốc xí nghiệp, công nhân
viên chức trong nhà máy và nông dân trong hợp tác xã đều chỉ làm việc “cầm
chừng” cho đủ chỉ tiêu và vừa đủ hoàn thành kế hoạch đƣợc giao. Nhƣng khi
thực hiện những cải cách về chế độ sở hữu, thành tích của kinh tế nông
nghiệp và của các doanh nghiệp nhà nƣớc (một thời gian đầu) đã thay đổi
hoàn toàn hoặc khởi sắc hơn rất nhiều.
Nguyên nhân thứ hai là xây dựng và vận dụng thể chế kinh tế thị trƣờng.
Xung quanh vấn đề vì sao thể chế kinh tế kế hoạch ở các nƣớc xã hội chủ
nghĩa lại vận hành kém hiệu quả, các nhà kinh tế học nổi tiếng thế giới đã
triển khai nhiều đợt tranh luận sôi nổi [51]. Trong đó, có thể kể đến những
phê phán xuất sắc của L. von Misses (1881 - 1973), F. von Hayek (1899 1992) hay những phản biện của các nhà kinh tế bênh vực cho kinh tế kế hoạch
nhƣ M. Dobb (1900 - 1976), M. Taylor (1855 - 1932), P. Lerner (1903 - 1982)
và O. Lange (1904 - 1965). Những tranh luận của các nhà kinh tế nêu trên chủ
yếu xoay quanh vấn đề chính phủ có thể thay thế thị trƣờng để cung cấp tín
hiệu quan trọng bậc nhất (là giá cả) trong việc điều phối và phân bổ các nguồn
lực hay không? Kinh tế thị trƣờng có thể làm tăng lƣợng của cải xã hội. Lí
thuyết kinh tế học Tân cổ điển chỉ ra rằng việc chuyển từ định giá theo kế
hoạch sang thị trƣờng định giá khiến cho mức thặng dƣ của ngƣời tiêu dùng
10
và ngƣời sản xuất tăng lên. Do giá kế hoạch tƣơng đối cố định và phản ứng
kém linh hoạt với những dịch chuyển khỏi điểm cân bằng của quan hệ cung
cầu, nên giá kế hoạch thƣờng chệch khỏi mức “giá cân bằng” của thị trƣờng.
Điều này khiến cho sản xuất trong nền kinh tế thị trƣờng nếu không rơi vào
tình trạng thiếu hụt thì cũng bị dƣ thừa quá mức, tất yếu sẽ gây ra những tổn
thất thặng dƣ cho ngƣời sản xuất và tiêu dùng.
Cách giải thích của Kinh tế học Hợp đồng đơn giản hơn. J. Buchanan chỉ
ra rằng, tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá hiệu quả là tính nhất trí cao của sự
đồng thuận. “Đồng thuận” có nghĩa là những bên tham gia giao dịch sau khi
trải qua sự cân nhắc về chi phí – lợi ích, cho rằng một giao dịch thực hiện sắp
xếp/phân bổ nguồn lực là có lợi cho bản thân, hoặc ít nhất là vô hại. “Không
đồng thuận” vì có nghĩa là các bên hoặc một bên tham gia giao dịch cho rằng
giao dịch không đem lại ích lợi cho họ. Điều cần chú ỳ là trong giao dịch ấy,
các chủ thể giao dịch là những chủ thể bình đẳng, có quyền tự quyết, do vậy,
giao dịch về bản chất là một quá trình trao đổi tự do và tự nguyện. Kinh tế học
dễ dàng chứng minh đƣợc xét từ góc độ xã hội, giao dịch mà trong đó ít nhất
một bên không “đồng thuận” có tổng hiệu dụng thấp hơn so với giao dịch có
sự đồng thuận của tất cả các bên. Trong một giao dịch tự do trên thị trƣờng,
khi một bên nhận thấy giao dịch cho rằng giao dịch không làm tăng "độ thỏa
dụng" (phúc lợi) của mình hoặc sẽ làm mình bị thiệt hại họ có thể sẽ rút lui.
Sự rút lui hàm ý các giao dịch tự do trên thị trƣờng cho phép chủ thể giao dịch
tránh đƣợc các tổn thất không cần thiết,xét từ góc độ kinh tế, khi một chủ thể
rút lui khỏi giao dịch không hiệu quả họ đã hạn chế việc các nguồn lực bị
phân bổ lãng phí, kém hiệu quả. Nền kinh tế kế hoạch với cách quản lí thông
qua cơ chế mệnh lệnh hành chính luôn xuất hiện tình trạng ít nhất một bên
tham gia giao dịch không đồng thuận. Do vậy, việc thực hiện chuyển đổi từ
cơ chế điều phối mệnh lệnh sang cơ chế điều phối đàm phán tự do khiến hiệu
11
quả của giao dịch đƣợc cải thiện rõ rệt, qua đó nâng cao tổng lƣợng của cải xã
hội.
Những nỗ lực cải cách theo hƣớng thị trƣờng hóa trƣớc hết tập trung vào
cải cách giá cả. Trong đó, một kinh nghiệm đáng lƣu ý là việc thực hiện “chế
độ hai giá” (价格双轨制) – giá do nhà nƣớc qui định (giá kế hoạch) và giá thị
trƣờng. Trung Quốc trƣớc cải cách hầu nhƣ không tồn tại thị trƣờng với ý
nghĩa thực sự của nó. Các hàng hóa tiêu dùng và tƣ liệu sản xuất đều đƣợc lƣu
thông theo chế độ phân phối. Đến đầu thập niên 1980, sau khi các loại hình
doanh nghiệp phi quốc hữu xuất hiện và đạt đƣợc sự phát triển mạnh, thể chế
phân phối này không thể tiếp tục tồn tại lƣu dài, nếu không các doanh nghiệp
này sẽ không thể tiếp tục tồn tại và phát triển. Trƣớc tình hình đó, năm 1979,
chính phủ Trung Quốc ban hành “Một số quyết định về việc mở rộng quyền
tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh”, cho phép
doanh nghiệp tự mình tiêu thụ toàn bộ số sản phẩm “vƣợt kế hoạch”. Tháng 1
năm 1985, Cục Vật giá quốc gia và Cục vật tƣ quốc gia ban hành văn bản
“Thông báo về việc buông luông giá đối với các sản phẩm công nghiệp mang
tính tƣ liệu sản xuất vƣợt kế hoạch”. Văn bản này cho phép các doanh nghiệp
mua bán sản phẩm “ngoài kế hoạch” theo giá thị trƣờng. Đối với các doanh
nghiệp nhà nƣớc từ trƣớc năm 1983 vẫn có quyền nhận vật tƣ theo kế hoạch
nhà nƣớc thì đƣợc tiếp tục mua số vật tƣ cần cho sản xuất theo giá nhà nƣớc
phân phối, dựa trên cơ số phân phối năm 1983. Số tƣ liệu sản xuất cần có nếu
vƣợt quá cơ số năm 1983 thì phải mua lại theo giá thị trƣờng. Hiện nay, hầu
hết các hàng hóa và tƣ liệu sản xuất ở Trung Quốc đều do thị trƣờng định giá.
Nguyên nhân thứ ba, Trung Quốc đã tận dụng đƣợc các cơ hội từ quá
trình hội nhập của mình. Nhìn lại lịch sử phát triển của Trung Quốc và nhìn
vào mức độ gắn kết của Trung Quốc với nền kinh tế thế giới hiện nay, chúng
ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng nếu quá trình cải cách không gắn liền với mở
cửa thì rất có thể những thành tựu ngày hôm nay sẽ không còn ấn tƣợng nhƣ
12
những gì chúng ta đang chứng kiến. Năm 1980, thời điểm mà Trung Quốc
mới bắt đầu tiến hành quá trình chuyển đổi (transformation), quốc gia này chỉ
chiếm hơn 2% tổng GDP thế giới và chƣa đầy 2% tổng giá trị thƣơng mại
toàn cầu [8, 11-13]. 30 năm sau, tỉ trọng GDP của quốc gia này đã chiếm
khoảng 9% của toàn thế giới và cũng đóng góp khoảng 9% trong tổng mức
thƣơng mại toàn cầu. Năm 2009, FDI vào Trung Quốc chiếm 7% lƣợng FDI
toàn cầu trong khi con số này của năm 1980 chỉ là 1%, đồng thời lƣợng vốn
đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài của Trung Quốc cũng tăng từ mức không đáng
kể (năm 2004) lên 4% toàn cầu (năm 2009) [8, 11-13].
Tuy nhiên, các nghiên cứu so sánh để tìm hiểu về nguyên nhân thành
công của quá trin
̀ h chuyể n đổ i kinh tế ta ̣i Trung Quố c chƣa thƣ̣c sƣ̣ nhiề u. Đặc
biê ̣t, thiế u các nghiên cƣ́u và nghiên cứu so sánh sau về quá trình chuyển đổi
tại Trung Quốc:
(i) Nghiên cƣ́u cách thƣ́c chuyể n đổ i của quố c gia này tƣ̀ góc đô ̣ thuầ n
túy lý thuyết kinh tế học;
(ii) So sánh tƣ̀ góc đô ̣ thuầ n túy lí thuyế t cách thƣ́c chuyể n đổ i của Trung
Quố c với các cách thƣ́c của quố c gia Đông Âu, Nga v.v.;
(iii) Các nghiên cứu trƣờng hợp về
cách thức chuyển đổi , quá trình
hoạch định chính sách chuyển đổi, điề u kiê ̣n ban đầ u của chuyể n đổ i , thiế t lâ ̣p
các thể chế mới trong quá trình chuyển đổi v.v.
Tầ m quan tro ̣ng của viê ̣c nghiên cƣ́u về cách thƣ́c chuyể n đổ i
thể hiê ̣n
ngày càng rõ nét sau khi “mô hình Trung Quốc” đƣợc nêu lên nhƣ một tƣơng
phản với “mô hình chuyển đổi s hock” không chỉ về cách thƣ́c mà cả về kế t
quả. Khi tiế ng nói của Đồ ng thuâ ̣n Washington ngày càng yế u và quan điể m
về Đồ ng thuâ ̣n Bắ c Kinh ngày càng nổ i bâ ̣t , thâ ̣m chí có quan điể m cho rằ ng
mô hiǹ h Trung Quố c mới là điề u m à các quốc gia chuyển đổi cần mô phỏng .
Tuy rằ ng các tranh luâ ̣n về cách thƣ́c – hành vi – kế t quả chuyể n đổ i vẫn tồ n
tại nhiều tranh luận nhƣng có một điểm cần khẳng định là nghiên cứu về cách
13
thƣ́c chuyể n đổ i tƣ̀ góc đô ̣ lí thuyết không chỉ có ý nghĩa trong quá khứ mà
còn có ý nghĩa ở hiện tại bởi quá trình chuyển đổi
– đố i với nhiề u quố c gia
nhƣ Trung Quố c, Viê ̣t Nam – vẫn chƣa dƣ̀ng la ̣i.
Xuấ t phát tƣ̀ thƣ̣c tiễn nghiên cƣ́u về quá triǹ h chuyể n đổ i cũng nhƣ ý
nghĩa của việc nghiên cứu này , tôi lƣ̣a cho ̣n đề tài nghiên cƣ́u về cách thƣ́c
chuyể n đổ i ta ̣i Trung Quố c thông qua mô ̣t mô hiǹ h đă ̣c thù – mô hiǹ h thí điể m
cải cách. Thông qua viê ̣c nghiên cƣ́u mô hiǹ h này , tôi muố n làm rõ bản chất
chuyể n đổ i tƣ̀ng bƣớc /phầ n/tiê ̣m tiế n của Trung Quố c . Thông qua nghiên cƣ́u
mô hiǹ h, tôi cũng muố n tim
̀ hiể u về viê ̣c cách thức nào giúp Trung Quốc có
thể chuyể n đổ i tƣ̀ng bƣớc/phầ n/tiê ̣m tiế n nhƣ vâ ̣y.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cùng với quá trình chuyển đổi tại các nƣớc xã hội chủ nghĩa thuộc hệ
thố ng cổ điể n ngày càng đi sâu, các kết quả của chuyển đổi ngày càng hiện rõ,
mƣờng tƣơ ̣ng của mo ̣i ngƣời về quá trình chuyển đổi kinh tế ngày càng chân
thƣ̣c hơn thì các nghiên cƣ́u về kinh tế ho ̣c chuyể n đổ i cũng ngày càng nhâ ̣n
đƣơ ̣c nhiề u sƣ̣ quan tâm và chấ t vấ n hơn . Sƣ̣ chấ t vấ n diễn ra với các giả thiế t
nghiên cƣ́u không còn phù h ợp với thực tiễn chuyển đổi hoặc với chính bản
thân quá trình chuyể n đổ i ta ̣i các quố c gia khác nhau.
Trọng tâm nghiên cứu đợt thứ nhất về chuyển đổi chủ yếu là các nghiên
cƣ́u mang tính khuyế n nghi ̣chính sách . Mục đích của các nghiên cƣ́u này là
tác động đến tầng lớp hoạch định chính sách nhằm từ đó tác động đến kết quả
trên mo ̣i phƣơng diê ̣n của quá trình chuyể n đổ i . Các nghiên cứu này phần lớn
bắ t nguồ n tƣ̀ nhu cầ u trƣớc mắ t, mô ̣t số thâ ̣m chí đƣơ ̣c tiế n hành với tƣ cách là
“đơn đă ̣t hàng” của các chính phủ . Nhƣng hƣ́ng thú với các da ̣ng nghiên cƣ́u
này tại phƣơng Tây cũng suy giảm chỉ sau vài năm . Trái ngƣợc với điều này ,
các nghiên cứu về chuyển đổi kể cả tƣ̀ góc đô ̣ lý thuyế t hay nghiên cƣ́u thƣ̣c
chƣ́ng đề u đã đa ̣t đƣơ ̣c sƣ̣ phát triể n liên tu ̣c và lâu dài.
14
Trung tâm nghiên cƣ́u chiń h sách kinh tế châu Âu (CEPR) đã thành lâ ̣p
chƣơng trin
̀ h nghiên cƣ́u Kinh tế ho ̣c chuyể n đổ i ngo ài các lĩnh vực nghiên
cƣ́u kinh tế truyề n thố ng nhƣ kinh tế vi ̃ mô , kinh tế ngành, thƣơng ma ̣i, chính
sách công, tài chính v.v.
J.E. Stiglitz [45] trong tác phẩ m “Chủ nghiã xã hô ̣i đi về đâu – Lý thuyết
và bằng chứng của chuyể n đổ i thể chế kinh tế ” đã tiế n hành so sánh về kế t
quả của quá trình chuyển đổi theo liệu pháp shock và tiệm tiến . Trong đó, ông
chú trọng phân tić h nguyên nhân dẫn đế n sƣ̣ thấ t ba ̣i của Nga trong viê ̣c theo
đuổ i chuyể n đổ i theo liê ̣u pháp shock . Chẳ ng ha ̣n, “hiể u sai về các khái niê ̣m
cơ bản nhấ t của kinh tế thi ̣trƣờng” , tiế p thu mô ̣t cách máy móc các lí thuyế t
của trƣờng phái kinh tế tân cổ điển Mỹ . Thƣ́ hai, lầ m lẫn phƣơng thƣ́c và kế t
quả, chẳ ng ha ̣n coi tƣ nhân hóa là mu ̣c đić h cuố i cùng của chuyể n đổ i chƣ́
không phải là mô ̣t công cu ̣ của quá triǹ h chuyể n đổ i . Thƣ́ ba, xuấ t hiê ̣n các
vấ n đề về mă ̣t quyế t sách khi làm theo các kiế n nghi ̣của các chuyên gia kinh
tế . Bên ca ̣nh đó , Stiglitz cũng đề câ ̣p đế n thành công của Trung Quố c trong
viê ̣c thƣ̣c hiê ̣n chuyể n đổ i tƣ̀ng phầ n , nhƣng ông vẫn giƣ̃ thái đô ̣ hoài nghi với
cái gọi là “kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa”.
Dƣơng Tiể u Khải trong nghiên cƣ́u “Chuyể n đổ i kinh tế và chuyể n đổ i
hiế n pháp và chính tri”̣ có quan điể m hoàn toàn t rái ngƣợc với Stiglitz [45],
theo đó ông kich
̣ liê ̣t phê phán viê ̣c dùng “shock” và “tiê ̣m tiế n” để coi là cơ
sở đánh giá thành công hay thấ t ba ̣i của chuyể n đổ i kinh tế ta ̣i Nga và Trung
Quố c. Dƣơng Tiể u Khải cho rằ ng : chuyể n đổ i kinh tế chỉ là mô ̣t bô ̣ phâ ̣n của
quá trình chuyển đổi về chính trị và hiến pháp
, nhƣ̃ng nhà kinh tế ủng hô ̣
chuyể n đổ i “tƣ̀ng phầ n” là thiế u suy xét đế n mă ̣t hiế n chính , do đó chỉ căn cƣ́
vào hiệu quả kinh tế trƣớc mắt để đánh giá thành bại của quá trình chuyển
đổ i. Do đó, không thể dùng thành công của mô hiǹ h tiê ̣m tiế n ta ̣i Trung Quố c
để phủ định thất bại của mô hình shock của Nga , muố n có đánh giá chiń h xác
15
nhấ t thì phải dƣ̣a vào xem xét biể u hiê ̣n của hai quố c gia
– hai mô hiǹ h –
trong dài ha ̣n.
Kolodko [43] trong cuố n sách “Từ shock đến trị liệu: kinh tế chính trị
của các nƣớc chuyển đổi hậu xã hội chủ nghĩa” cho rằ ng trong trong các liñ h
vƣ̣c khác nhau, “shock” và “tiê ̣m tiế n” có các lƣ̣a cho ̣n khác nhau . (1) Về mă ̣t
tƣ̣ do hóa kinh tế và ổ n đinh
̣ kinh tế vi ̃ mô
, phải phân tích cẩn thận về tiǹ h
hình tiền tệ và tài chính , nế u mƣ́c đô ̣ kiể m soát kinh tế trƣớc khi chuyể n đổ i
tƣơng đố i lớn, khi chuyể n đổ i xuấ t hiê ̣n tiǹ h tra ̣ng tài chiń h không ổ n đinh
̣ thì
viê ̣c lƣ̣a cho ̣n “shock” có thể đa ̣t đƣơ ̣c tiǹ h tra ̣ng tƣ̣ do hóa . (2) Về chuyể n đổ i
kế t cấ u và cải cách thể chế , bao gồ m tƣ nhân hóa , kế t cấ u quản tri ̣công ty thì
phải áp dụng phƣơng thức chuyển đổi tiệm tiến . (3) Trong liñ h vƣ̣c tái cấ u
trúc cơ cấu vi mô của ngành , phải có các khoản đầ u tƣ mới , phải đóng cửa
nhà máy cũ , phải điều động lại các lao động và nâng cao sức cạnh tranh của
ngành. Trong liñ h vƣ̣c này có thể áp du ̣ng chuyể n đổ i theo liê ̣u pháp shock.
K. Janos [47] trong cuố n “Suy nghĩ v ề chuyển đổi của các quốc gia hậu
xã hội chủ nghĩa” đã tiế n hành quy na ̣p về các xu thế đã diễn ra ta ̣i các quố c
gia chuyể n đổ i , bao gồ m: thị trƣờng hóa , sƣ̣ phát triể n của khu vƣ̣c tƣ nhân ,
tái xuất hiện sự mất cân bằng vĩ mô , sƣ̣ phát triể n của chính thể lập hiến , sƣ̣
phát triển của chế độ dân chủ, đinh
̣ nghiã la ̣i các tổ chƣ́c dân sƣ̣, bấ t bình đẳ ng
về phúc lơ ̣i v.v. Mà những nhân tố tác động chủ yếu đến hƣớng đi của các xu
thế này là năng lƣ̣c xƣ̉ lí của chính phủ, sƣ́c ma ̣nh của phe đố i lâ ̣p với chính
đảng chấ p chính, khả năng chịu đựng hy sinh của nhân dân và các yếu tố bên
ngoài quốc gia. Kornai đă ̣c biê ̣t nhấ n ma ̣nh rằ ng , tại các quốc gia chuyển đổi ,
sƣ̣ xuấ t hiê ̣n của các xu thế này vẫn còn tồ n ta ̣i quá nhiề u yế u tố bấ t đinh.
̣
Leonid Polishchuk [48] trong bài viế t “Sƣ̣ tiế n hóa của nhu cầ u về thể
chế trong các nề n kinh tế chuyể n đổ i” kế t hơ ̣p với thƣ̣c tiễn chuyể n đổ i của
Nga để nghiên cứu về viê ̣c thiế t kế thể chế ta ̣i các nề n kinh tế chuyể n đổ i
Ông cho rằ ng, khi mới chuyể n đổ i , các tập đoàn tài phiệt và công nghiệp độc
16
.
quyề n nhóm hoàn toàn không ủng hô ̣ thâ ̣m chí chố ng đố i la ̣i viê ̣c thiế t kế các
thể chế nhằ m bảo vê ̣ quyề n tài sản (property rights). Nhƣng khi chuyể n đổ i
tiế n hành đƣơ ̣c mô ̣t thời gian tƣơng đố i dài
, đă ̣c biê ̣t sau khủng hoảng tài
chính năm 1997, yêu cầ u về mô ̣t nề n tài chiń h – kinh tế có đô ̣ minh ba ̣ch , ổn
đinh
̣ và hiê ̣u quả ngày càng lên cao , điề u này khiế n các chủ thể kinh tế dù
muố n hay không cũng đề u phải dầ n đƣa các hoa ̣t đô ̣ng của miǹ h ra công khai .
Đồng nghĩa với việc các chủ thể này phải bỏ một nguồn lực để hỗ trợ cho việc
xây dƣ̣ng các thể chế đảm bảo cho sƣ̣ vâ ̣n hành của kinh tế thi ̣trƣờng nhƣ luâ ̣t
pháp, chính sách công v .v. Tuy vâ ̣y , xây dƣ̣ng nhà nƣớc pháp quyề n là mô ̣t
cuô ̣c thỏa thuâ ̣n chin
́ h tri ̣lâu dài.
David M.Kotz [38] trong cuố n sách “Cu ộc cách mạng đến từ thƣợng
tầ ng: Sƣ̣ su ̣p đổ của Nga” đã cho rằ ng Trung Quố c thƣ̣c hiê ̣n “chiế n lƣơ ̣c
chuyể n đổ i do chin
́ h phủ chỉ đa ̣o” tố t hơn nhiề u so với “chiế n lƣơ ̣c chuyể n đổ i
do chủ nghiã tƣ̣ do mới đinh
̣ hƣớng” của Nga . Nhƣng đồ ng thời ông cũng cho
rằ ng, chuyể n đổ i kinh tế Trung Quố c không thể tránh khỏi viê ̣c dẫn đế n sƣ̣
xuấ t hiê ̣n của tầ ng lớp tinh anh mới . Nhóm tinh anh này không chỉ chạy theo
lơ ̣i nhuâ ̣n kinh tế mà còn theo đuổ i quyề n lƣ̣c v ề chính trị, đồ ng thời cũng có
thể đòi hỏi áp du ̣ng các chính sách chuyể n đổ i của chủ nghĩa tự do mới. Kotz
[38] cũng cho rằng, viê ̣c Trung Quố c gia nhâ ̣p WTO năm 2001 ở một mức độ
nhấ t đinh
̣ thể hiê ̣n viê ̣c tƣ̀ bỏ mô ̣t phầ n
chiế n lƣơ ̣c chuyể n đổ i do chính phủ
chủ đạo.
Mark Knell và Christine Rider dựa trên lí thuyết của chủ nghĩa Keynes
mới phê phán sự sùng bái mù quáng của phƣơng thức cải cách shock vào thị
trƣờng tự do. Họ cho rằng phƣơng án chuyển đội thị trƣờng hóa và tự do hóa
đã bỏ qua một sự thật rất quan trọng: quan hệ kinh tế giữa mọi ngƣời không
chỉ là một dạng quan hệ trao đổi đơn thuần, mà còn là dạng quan hệ sản xuất
phức tạp; mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trƣờng là quan hệ bổ sung chứ
không phải là quan hệ loại trừ - thay thế; cơ chế giá cả không chỉ là một biện
17
pháp điều phối nguồn lực mà còn có chức năng tài chính, chức năng chiến
lƣợc và chức năng sản xuất; tƣ hữu hóa không nhất thiết sẽ tạo ra sự cải thiện
về hiệu suất sản xuất [18]. A. Amsden, J. Kochaniwicz và L. Taylor cho rằng
bƣớc quá độ sang chủ nghĩa tƣ bản cần có “bàn tay hữu hình” hơn “bàn tay vô
hình” mà chủ nghĩa tự do mới đề xƣớng. Sự thành công của kinh tế tƣ bản
chủ nghĩa phụ thuộc vào các thể chế tạo đƣợc sự đầu tƣ trong thời gian dài
cũng nhƣ có khả năng chịu đựng rủi ro, nhƣng chỉ có nhà nƣớc mới đủ năng
lực để đảm trách xây dựng những thể chế này [7]. Theo họ, “chủ nghĩa tƣ
bản” mà Đông Âu xây dựng không giống với phƣơng Tây bởi nó khuyết thiếu
những thể chế hạt nhân đảm bảo cho sự tích lũy tƣ bản lâu dài.
Peter Murrel cho rằng các cải cách shock coi toàn bộ xã hội là một dạng
công cụ điều phối, phân bổ nguồn lực, do vậy nó thiết kế một thể chế phân bổ
hoàn hảo với hi vọng đƣa cải cách một bƣớc đạt đến thành công, chuyển đổi
từng phần thì coi xã hội là một công cụ “gia chế” thông tin, thông tin xã hội
cần một quá trình tích lũy, bất kì phƣơng án cải cách nào ban đầu cũng cho
rằng đều phải dựa vào cơ sở là các thông tin của xã hội cũ, đối với cải cách,
những ngƣời thực thi nó chỉ có thể đi từng bƣớc (P. Murrel, 1994). Giáo sƣ M.
Aoki cho rằng thể chế kinh tế là một hệ thống diễn tiến (tiến hóa) phức tạp,
bên trong thể chế này có cơ chế tự tăng cƣờng, giữa các thể chế khách nhau sẽ
tồn tại tính bổ sung lẫn nhau, nếu tính bổ sung này càng lớn thì chi phí của cải
cách càng cao [50]. Khi tiến hành các cải cách đồng bộ với quy mô lớn, cho
dù phƣơng hƣớng chung đã xác định rõ thì trong quá trình và kết quả chuyển
đổi vẫn còn nhiều điều khó lƣờng, trong quá trình định ra sự phát triển còn
xuất hiện các tập đoàn lợi ích khác nhau, điều này gây ra nhiều khó khăn cho
việc thúc đẩy cải cách, do vậy, phƣơng thức chuyển đổi tiệm tiện có tính khả
thi cao hơn cả [50]. Gernot Grabber và David Stark cho rằng xét từ quan điểm
tiến hóa, nếu không có tính đa dạng thì không có sự lựa chọn, sự biến đổi
nhanh chóng của thể chế và tổ chức thƣờng thƣờng hi sinh hiệu suất lâu dài.
18
Ngƣợc lại, sự tồn tại của thể chế cũ, những va chạm, xung đột trong chuyển
đổi sẽ giữ lại tính đa dạng của thể chế, điều này tạo ra không gian lựa chọn và
xuất hiện rộng hơn cho các thể chế mới, từ đó thúc đẩy thể chế phát triển [14].
Buchanan chỉ ra rằng, sự vận hành có hiệu quả của thể chế thị trƣờng dựa vào
kết cấu thể chế có khả năng thúc đẩy giao dịch tự do và những cá nhân có thể
thích ứng đồng thời hành động theo ý niệm thị trƣờng. Mà những kết cấu thể
chế và cá nhân nhƣ nêu trên lại là kết quả của một thời kì lịch sử lâu dài, cách
nghĩ cho rằng kinh tế thị trƣờng có thể hình thành và phát huy tác dụng trong
điều kiện không có lịch sử, không có kết cấu thể chế và ý niệm thị trƣờng là
một cách nghĩ hoàn toàn hoang tƣởng [44].
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn . Luâ ̣n văn lấ y “cách thƣ́c chuyể n
đổ i” kinh tế làm đố i tƣơ ̣ng nghiên cƣ́
u chiń h . Để làm rõ đƣơ ̣c đố i tƣơ ̣ng
nghiên cƣ́u này , luâ ̣n văn tiế n hành nghiên cƣ́u về mô ̣t mô hiǹ h đă ̣c thù trong
cách thức ấy, làm nên cách thức ấy – đó là “mô hiǹ h thí điể m cải cách”.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn . Về p hạm vi thời gian , luâ ̣n văn có
phạm vi nghiên cứu là từ năm 1978 – 2011. Về pha ̣m vi không gian, luâ ̣n văn
nghiên cƣ́u 4 đă ̣c khu kinh tế của Trung Quố c đa ̣i lu ̣c.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Luâ ̣n văn hƣớng đế n thƣ̣c hiê ̣n hai nhóm mu ̣c tiê u là mu ̣c tiêu tổ ng quát
và mục tiêu cụ thể.
Mục tiêu tổng quát bao gồm:
- Khái quát lại các lí thuyết liên quan đến chuyển đổi kinh tế
- Khái quát và xây dựng mô hình về hai dạng thức chuyển đổi kinh tế đã
tồ n ta ̣i trên thế giới,
- Tƣ̀ góc đô ̣ lí thuyế t , tìm ra và phân tích ƣu – nhƣơ ̣c điể m , của từng mô
hình.
Nhóm mục tiêu cụ thể bao gồm:
19
- Khái quát quá trình chuyển đổi của các quốc gia Trung
– Đông Âu ,
Nga và Trung Quố c.
- Sƣ̉ du ̣ng các lí thuyết kinh tế học hiện đại để làm rõ mô hình thí điểm
cải cách của Trung Quốc có vị trí và ý nghĩa nhƣ thế nào trong quá trình
chuyể n đổ i của quố c gia này.
- Làm rõ ƣu – nhƣơ ̣c điể m của cách thƣ́c chuyể n đổ i kinh tế của Trung
Quố c trƣớc kia.
- Thông qua nghiên cƣ́u trƣờng hơ ̣p các đă ̣c khu kinh tế để gắ n nghiên
cƣ́u lí thuyế t với nghiên cƣ́u trƣờng hơ ̣p.
5. Phƣơng pháp nghiên cƣ́u
Để thƣ̣c hiê ̣n nghiên cƣ́u này , luâ ̣n văn sƣ̉ du ̣ng các lí thuyế t của Kinh tế
học thể chế mới nhƣ:
- Lý thuyết về quyền tài sản
Các lý thuyết của kinh tế học thông tin nhƣ:
- Lý thuyết ủy thác – đa ̣i diê ̣n
- Lý thuyết cơ chế khích lệ
Các lý thuyết của kinh tế học chuyển đổ i về mu ̣c tiêu , mô hình, kế t quả
của chuyển đổi. Đồng thời, các lý thuyết và công cụ phân tích của kinh tế học
nói chung cũng đƣợc sử dụng nhằm phản ánh đƣợc bản chất của quá trình
chuyể n đổ i kinh tế ta ̣i Trung Quố c.
Các số liệu đƣợc sử dụng trong nghiên cứu là số liệu thứ cấp và mang
tính trung thực vì đều đƣợc trích dẫn nguồn cụ thể.
6. Ý nghĩa của đề tài
Xuấ t phát tƣ̀ thƣ̣c tiễn nghiên cƣ́u về quá triǹ h chuyể n đổ i cũng nhƣ ý
nghĩa của việc nghiên cứu này , tôi lƣ̣a cho ̣n đề tài nghiên cƣ́u về cách thƣ́c
20
- Xem thêm -