Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Nêu và lí giải những điểm khác nhau giữa chế định nuôi con nuôi trong luật hôn n...

Tài liệu Nêu và lí giải những điểm khác nhau giữa chế định nuôi con nuôi trong luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và luật nuôi con nuôi năm 2010 về điều kiện v

.DOC
12
67
89

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ BÀI NỘI DUNG I. Khái niệm II. Sự khác nhau về điều kiện và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi giữa Luật Nuôi con nuôi 2010 và chế định nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2000. 1. Điều kiện của việc nuôi con nuôi 1.1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi. 1.2. 1.2. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi. 2. Điều kiện về ý chí của các bên chủ thể 3. Hậu quả pháp lí của việc nuôi con nuôi 3.1. Về mối quan hệ ba bên giữa cha mẹ nuôi, con nuôi, cha mẹ đẻ 3.2. Vấn đề về báo cáo tình hình phát triển của con nuôi III. Những hạn chế cần sửa đổi bổ sung a. Vấn đề về điều kiện của việc nuôi con nuôi b. Hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi KẾT BÀI 1 MỞ BÀI Nuôi con nuôi trong xã hội ngày nay không còn là vần đề mới mẻ đã tồn tại từ lâu như một tất yếu của cuộc sống. Với nhiều lý do và mục đích khác nhau mà quan hệ nuôi con nuôi đã được hình thành nhưng trên hết vẫn là tấm lòng yêu thương đồng loại, tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống của nhân dân ta. Luật Nuôi con nuôi đã có hiệu lực năm 2010 đã kế thừa trên cơ sở luật Hôn nhân $ Gia đình năm 2000 nhưng cũng có nhiều điểm mới. Do vậy, em chọn đề tài: “Nêu và lí giải những điểm khác nhau giữa chế định nuôi con nuôi trong Luật HN và GĐ năm 2000 và Luật nuôi con nuôi năm 2010 về điều kiện và hậu quả pháp lí của việc nuôi con nuôi” NỘI DUNG Chương VIII :”Con Nuôi” của Luật Hôn nhân và Gia Đình năm 2000 bao gồm có 12 Điều quy định về vấn đề con nuôi từ Điều 67 đến Điều 78 thì Luật Nuôi con nuôi được Quốc hộikhoá XII thông qua tại kỳ họp thứ VII, ngày 17 tháng 6 năm 2010 gồm 5 chương, 52 điều quy định chi tiết về nuôi con nuôi trong nước, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về nuôi con nuôi IV. Khái niệm Khoản1 Điều 3 Luật Con Nuôi 2010 và khoản 1 Điều 67 Luật Hôn Nhân và Gia Đình 2000 đều quy định: Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ, con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Chế định nuôi con nuôi là chế định pháp lý bao gồm các quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh những vấn đề về nuôi con nuôi như điều kiện nuôi con nuôi, thực hiện, chấm dứt việc nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể có liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi, bao gồm cả các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. II. Sự khác nhau về điều kiện và hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi giữa Luật Nuôi con nuôi 2010 và chế định nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 1. Điều kiện của việc nuôi con nuôi 1.1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi. Luật Nuôi Con Nuôi đã thống nhất các điều kiện của người được nhận làm con nuôi trong nước và nước ngoài như nhau tại Điều 8. Điều 1 Nghị định 69/2006/ NĐ- CP còn quy định thêm các điều kiện cho trẻ em được nhận làm con nuôi ở nước ngoài. Sự khác nhau cơ bản vấn đề này cụ thể như sau : 2 Quy định về độ tuổi, theo Khoản 1 Điều 68 Luật Hôn Nhân & Gia Đình năm 2000 quy định “người được nhận làm con nuôi phải là người từ 15 tuổi trở xuống trừ trường hợp con nuôi là người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn”, còn Luật Nuôi Con Nuôi lại quy định tại Khoản 1 Điều 8 về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi là “Trẻ em dưới 16 tuổi”. Sự điều chỉnh về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi là để phù hợp với mục đích chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em được nhận làm con nuôi trong môi trường gia đình, đồng thời điều này phù hợp với độ tuổi được coi là trẻ em trong Luật chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Việc quy định 15 tuổi trở xuống có phần không phù hợp với thực tế và với bản chất của việc nuôi con nuôi vì mục đích nuôi con nuôi trước hết hướng tới đối tượng là trẻ em không được nuôi dưỡng, chăm sóc trong gia đình ruột thịt nên việc nuôi con nuôi là để tạo điều kiện cho trẻ em có một cuộc sống xứng đáng với quyền và lợi ích hợp pháp của các em. Nếu chỉ quy định độ tuổi mà không kèm theo điều kiện khác của người được cho làm con nuôi đã dẫn đến nhận thức rằng mọi trẻ em từ 15 tuổi trở xuống đều có thể được cho làm con nuôi. Điều này đã dẫn đến một số đối tượng nhận nuôi con nuôi nhằm những mục đích khác, không nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi. Ví dụ, việc cho trẻ em làm con nuôi của người có hoàn cảnh khó khăn hoặc có hộ khẩu nằm trong diện chính sách ưu đãi, diện Vùng đặc biệt khó khăn để được hưởng các chế độ đãi ngộ của nhà nước dành cho các đối tượng này, nhưng trẻ em được nhận nuôi vẫn sống ở nhà cha mẹ đẻ, quan hệ cha mẹ và con không được xác lập, thực hiện trên thực tế giữa người nhận nuôi và trẻ em được nhận nuôi… Đối với các trường hợp đặc biệt được nhận làm con nuôi, theo Khoản 1 Điều 68 Luật Hôn Nhân & Gia Đình năm 2000 quy định: Người trên 15 tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi người già yếu cô đơn. Còn tại Khoản 2 Điều 8 Luật Nuôi Con Nuôi lại quy định trường hợp ngoại lệ về độ tuổi người được nhận làm con nuôi là người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu được cha dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi. Luật Nuôi Con Nuôi: không quy định các trường hợp làm con nuôi là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi người già yếu cô đơn. Những trường hợp này chủ yếu là quan hệ phát sinh từ mục đích muốn chăm 3 sóc, phụng dưỡng, đây là công tác đảm bảo cuộc sống cho những người có hoàn cảnh đặc biệt được chính sách Nhà nước hỗ trợ và họ có những tổ chức cụ thể đảm bảo cho họ cuộ sống mà không cần đến hình thức nhận làm con nuôi. Luật nuôi con nuôi không đề cập đến các là trường hợp này phù hợp với mục đích và nguyên tắc nuôi con nuôi là để tìm mái ấm gia đình cho trẻ em, bảo đảm cho trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trong môi trường gia đình. Việc bảo đảm cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được nhận làm con nuôi, được chăm sóc, nuôi dưỡng, trưởng thành trong môi trường gia đình, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em – là mục đích cơ bản mang tính nhân đạo sâu sắc của Luật nuôi con nuôi. Ở độ tuổi từ 16 đến 18, các cá nhân chưa thể tự nuôi sống bản thân, tâm sinh lí cũng chưa phát triển hoàn thiện, chính vì vậy ở độ tuổi này cần được cha dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi để đảm bảo tính nhân đạo của việc nuôi con nuôi, đảm bảo cho trẻ em được hưởng đầy đủ các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái khi trẻ em có cha mẹ kết hôn với người nước ngoài và người cha, người mẹ kế của trẻ em muốn nhận trẻ em đó làm con nuôi. Quy định đối với người làm con nuôi, khoản 2 điều 68 Luật Hôn Nhân và Gia Đình năm 2000: “Một người chỉ có thể làm con nuôi một người hoặc của cả hai vợ chồng” còn tại khoản 3 Điều 8, Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 lại quy định: “một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng”. Quy định của luật Hôn Nhân và Gia Đình chưa làm rõ vấn đề một người đã có vợ hoặc chồng có được phép nhận con nuôi riêng hay không. Luật Nuôi Con Nuôi đã có sự thay đổi, hiểu theo quy định của khoản 3 điều 8, luật chỉ cho phép một người độc thân hoặc cả hai vợ chồng nhận con nuôi như vậy đồng nghĩa với việc Luật không cho phép người đã có vợ hoặc chồng nhận con nuôi riêng, việc nhận con nuôi cần có sự thống nhất của cả hai vợ chồng. Đây cũng một điều luật nhằm đảm bảo cho trẻ được cho làm con nuôi có một môi trường gia đình trọn vẹn, có sự yêu thương của tất cả các thành viên trong gia đình. 1.2. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi. Trường hợp nuôi con nuôi trong nước: Luật Nuôi Con Nuôi tiếp tục kế thừa một số điều kiện của người nhận con nuôi như: có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên, có tư cách đạo đức tốt…Và cũng nêu cụ thể những trường hợp không được nhận nuôi con nuôi tại khoản 1 và 2 Điều 14. 4 Về điều kiện thực tế để nuôi con nuôi, trong Luật Hôn Nhân & Gia Đình tại khoản 4 Điều 69 quy định : “có điều kiện thực tế đảm bảo việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi”, tại điểm c khoản 1 điều 14 Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 được bổ sung đầy đủ hơn là điều kiện về sức khoẻ, kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi, Luật Nuôi Con Nuôi có sự quy định cụ thể rõ ràng hơn về vấn đề này đã tạo sự thuận lợi cho những người có thẩm quyền trong việc xem xét điều kiện của người nhận nuôi, dễ giải quyết các trường hợp nhận nuôi con nuôi hơn. Tại khoản 3 điều 14 Luật Nuôi Con Nuôi 2010, “Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này”. Sự điều chỉnh này của những nhà làm Luật là hợp lí, bởi nếu cha dượng, mẹ kế muốn nhận con riêng của vợ hoặc chồng mà không đáp ứng đủ điều kiện trên thì sẽ ngăn cản việc trẻ em có một gia đình trọn vẹn. Quy định này nhằm đảm bảo cho con nuôi được sống trong môi trường gia đình với những người thân thuộc dù người nhận nuôi không có đủ các điều kiện trên nhưng lại có thể đảm bảo cho trẻ em có một cuộc sống ổn định về tinh thần. Về việc nhận nuôi con nuôi giữa những người có quan hệ họ hàng, tại Điều 13 Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 quy định cấm ông bà nhận cháu làm con nuôi, hoặc anh chị em nhận nhau làm con nuôi, tránh sự đảo lộn các thứ bậc trong gia đình, tránh làm ảnh hưởng đến thuần phong mĩ tục, không phù hợp với truyền thống dân tộc ta. Việc nuôi con nuôi phải làm phát sinh mối quan hệ cha mẹ và con; còn việc nuôi dưỡng là nghĩa vụ giữa các thành viên trong gia đình đối với nhau. Luật đã nêu : trường hợp cha mẹ bị chết thì ông bà (nội, ngoại) có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc cháu hoặc anh chị em có nghĩa vụ, chăm sóc em, đó là trách nhiệm nuôi dưỡng giữa các thành viên trong gia đình, không cần phải xác lập quan hệ nuôi con nuôi thì mới ràng buộc được trách nhiệm của các bên. Mặt khác, Luật Nuôi Con Nuôi có quy định này để ngăn chặn việc lợ dụng quan hệ nuôi con nuôi vì các mục đích lợi ích cá nhân khác không dựa trên chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em. Trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài: Khoản 1 Điều 105 Luật Hôn Nhân và Gia Đình năm 2000 xác định điều kiện của người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi dựa trên quy định của pháp luật nơi người đó mang quốc tịch. Tuy nhiên, theo Khoản 1 điều 37 NĐ 68/2002/NĐ-CP 5 thì việc xác định điều kiện của người xin nhận con nuôi lại dựa trên pháp luật Việt Nam và pháp luật nơi đó thường trú. Sở dĩ lại có quy định như vậy nhằm bảo đảm sự phù hợp giữa pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế. Như vậy Luật Hôn Nhân và Gia Đình có sự mâu thuẫn về vấn đề trên. Còn Khoản 1 Điều 29 Luật Nuôi Con Nuôi 2010 quy định: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật nơi người đó thường trú và quy định tại điều 14 của Luật này”. Luật Nuôi Con Nuôi đã giải quyết tình trạng mẫu thuận giữa các quy định trước đây, mặt khác Luật Nuôi Con Nuôi đã thể hiện sự kế thừa hợp lí trong NĐ 68/2002/NĐCP và NĐ 69/2006/ NĐ- CP. Vấn đề điều kiện của người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài còn được quy định tại điều 28 Luật Nuôi Con Nuôi 2010. Theo khoản 1 Điều 28: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam làm con nuôi”. Luật quy định chỉ cho làm con người nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở trong nước. Đây cũng là nguyên tắc được thừa nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế. Nếu việc nuôi dưỡng trong phạm vi gia đình không thể thực hiện được thì phải tính đến các biện pháp chăm sóc thay thế ở trong nước, trong đó có việc nuôi con nuôi. Chỉ sau khi đã xem xét thỏa đáng các giải pháp trong nước mà vẫn không tìm được mái ấm gia đình cho trẻ thì mới tính đến việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài và việc đó phải vì lợi ích tốt nhất của trẻ. Khoản 2 Điều 28 quy định về các trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài được nhận con nuôi đích danh. Có thể nhận thấy người nhận nuôi con nuôi không nhất thiết phải đáp ứng điều kiện định cư hoặc thường trú tại quốc gia kí kết hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam. Chỉ cần việc nuôi con nuôi thuộc một trong các trường hợp tại Khoản 2 Điều 28 thì người nhận nuôi con nuôi có thể nhận nuôi đích danh, người nước ngoài không thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam phải trả một khoản tiền bù đắp một phần chi phí cho việc giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài, bao gồm chi phí nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em từ khi được giới thiệu làm con nuôi đến khi hoàn thành thủ tục giao nhận con nuôi, xác minh nguồn gốc của người được giới thiệu làm con nuôi, giao nhận con nuôi và thù lao hợp lý cho nhân viên của cơ sở nuôi dưỡng. Cơ bản điều kiện của người xin nhận con nuôi có 6 yếu tố nước ngoài chủ yếu vẫn kế thừa các quy định trước đây của Luật Hôn Nhân & Gia Đình 2000 và các nghị định, thông tư khác của Chính Phủ. Điểm d Điều 28 Luật Nuôi Con Nuôi : “Người nước ngoài đang học tập , làm việc tại Việt Nam trong thời gian ít nhất là một năm”. So với quy định trước đây thì thời gian này được tăng thêm , theo mục 8 Nghị định 69/2006/NĐ- CP thì khoảng thời gian này chỉ là 6 tháng. Sự thay đổi này theo hướng chặt chẽ thêm các điều kiện đối với người nước ngoài nhận nuôi con nuôi là công dân Việt Nam. Mục 8 Điều 1 Nghị định 69/2006/ NĐ- CP có quy định về người nhận con nuôi có “quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ em được nhận làm con nuôi”; Luật Nuôi Con Nuôi quy định rõ ràng hơn về mối quan hệ này trong 2 trường hợp tại điểm a và điểm b khoản 2 điều 28: người nước ngoài nhận nuôi con nuôi là cha dượng, mẹ kế của người được nhận làm con nuôi; hoặc cô, dì, chú, bác của người được nhận làm con nuôi. Điều này nhằm đáp ứng tình hình thực tế, tạo điều kiện cho người con được sống với cha, mẹ đẻ ở nước ngoài và tạo cơ hội để người đó được hưởng trọn vẹn quyền lợi của người con trong quan hệ với cha dượng mẹ kế theo pháp luật nước ngoài. Quy định này cũng phù hợp với nguyên tắc tôn trọng quyền trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc, được sự chăm sóc, yêu thương của cha mẹ đẻ hoặc những người thân thích khác. Sự điều chỉnh này cũng phù hợp với điều 5 khi lựa chọn gia đình thay thế cho trẻ thì sẽ có sự ưu tiên đối với người nhận nuôi là cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, chú, dì, bác ruột của người được nhận làm con nuôi. Điều 15 Luật Nuôi Con Nuôi năm 2010 quy định trách nhiệm tìm gia đình thay thế cho trẻ em, nhằm bảo đảm trẻ em có cơ hội được nhận làm con nuôi trong nước. Việc tìm mái ấm được thực hiện ở 3 cấp, gồm: xã, tỉnh và Trung ương. Ở cấp xã, việc tìm gia đình thay thế được thực hiện bằng cách niêm yết tại trụ sở UBND trong thời hạn 60 ngày; ở cấp tỉnh, được thực hiện bằng cách thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh trong thời hạn 60 ngày; ở Trung ương được thực hiện bằng việc đăng trên cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp. Nếu hết thời hạn này mà không có người trong nước nhận làm con nuôi, thì trẻ em mới được giới thiệu làm con nuôi người nước ngoài. Bên cạnh đó, Điều 36 của luật còn quy định, nếu hết thời hạn nêu trên, trẻ em đang được xem xét để giới thiệu cho làm con nuôi người nước ngoài nhưng Sở Tư pháp chưa giới thiệu cho người xin con nuôi cụ thể nào đó, mà có người trong nước nhận trẻ em làm con nuôi thì vẫn được xem xét giải quyết. Như vậy, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được tạo cơ hội đến mức tối đa để tìm được mái ấm gia đình thay thế. Luật còn quy định công dân trong nước có nhu cầu và nguyện vọng nhận trẻ em làm con nuôi mà chưa 7 xác định được trẻ em cần nhận làm con nuôi, thì có thể đăng ký nhu cầu với Sở Tư pháp nơi thường trú (Điều 16), nếu có trẻ em để giới thiệu thì Sở Tư pháp giới thiệu người đó đến UBND cấp xã nơi thường trú để xem xét giải quyết. 2. Điều kiện về ý chí của các bên chủ thể: Luật Hôn Nhân & Gia Đình 2000 chưa quy định rõ ràng về các hình thức nuôi con nuôi và hậu quả pháp lý của việc cha mẹ đẻ cho con nuôi, cụ thể là về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đẻ với con đem cho người khác nuôi, như vậy về mặt ý chí của các bên chủ thể của Luật này còn lỏng lẻo. Theo Luật Nuôi Con Nuôi, việc cho trẻ em làm con nuôi vẫn cần phải có dự đồng ý của cha mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ em từ 09 tuổi trở lên. Luật còn quy định rõ sự đồng ý này là phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực không bị ép buộc, không bị đe doạ hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác (Điều 21). Trong việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, cũng phải bảo đảm quyền được thể hiện ý kiến, quyền được lựa chọn của trẻ em để tránh tư tưởng áp đặt từ phía người lớn. Luật Nuôi Con Nuôi còn quy định: Cha, mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày, đây là quy định nhằm tránh các trường hợp cha mẹ đẻ và các cá nhân tổ chức khác có sự thoả thuận cho trẻ làm con nuôi trước khi sinh, hoặc cha mẹ đẻ trong hoàn cảnh đặc biệt đã chấp nhận con vừa sinh ra làm con nuôi mà không có sự suy nghĩ kĩ lưỡng. Vai trò của UBND trong việc tư vấn đối với cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ theo quy định của Khoản 2 Điều 21, nội dung tư vấn về các vấn đề như mục đích nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ giữa các bên liên quan sau khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập. Trong Nghị định 19/2011/NĐ- CP hướng dẫn thi hành Luật Nuôi Con Nuôi, trước hết công chức tư pháp- hộ tịch phải tư vấn để trẻ em tiếp tục được chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của gia đình, trường hợp cho trẻ cho trẻ em làm con nuôi là giải pháp cuối cùng vì lợi ích tốt nhất của trẻ em thì công chức tư pháp – hộ tịch phải tư vấn đầy đủ cho những người liên quan về mục đích nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ giữa các bên sau khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập. Sự tư vấn của UBND sẽ giúp cho cha mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ hiểu rõ các vấn đề về nuôi con nuôi , đặc biệt là những hậu quả pháp lí của việc nuôi con nuôi, từ đó cha mẹ đẻ có suy nghĩ kĩ lưỡng hơn về việc quyết định có cho trẻ làm con nuôi hay không. Đối với trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài , việc lấy ý kiến của các chủ thể được quy định tại điều 21 Luật Nuôi Con Nuôi sẽ thuộc trách nhiệm của Sở Tư pháp, việc lấy ý kiến phải lập thành văn bản và có chữ kí hoặc điểm chỉ của người được 8 lấy ý kiến. Đây là một quy định mới của Luật Nuôi Con Nuôi 2010 so với Luật Hôn Nhân & Gia Đình 2000 đồng thời cũng tương thích với công ước quốc tế về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước. 3. Hậu quả pháp lí của việc nuôi con nuôi: Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi là những vấn đề pháp lí phát sinh khi quan hệ nuôi con nuôi được pháp luật công nhận. 3.1. Về mối quan hệ ba bên giữa cha mẹ nuôi, con nuôi, cha mẹ đẻ Luật Hôn Nhân & Gia Đình năm 2000 khi quy định về hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi chỉ chú trọng điều chỉnh quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, có rất ít quy định về mối quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con nuôi, quan hệ giữa cha mẹ nuôi với cha mẹ đẻ. Luật Nuôi Con Nuôi đã quy định cụ thể hơn về mối quan hệ 3 bên này, từ đó tạo ra cơ sở pháp lí để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mỗi bên chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi: Đối với quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi, Khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi Con Nuôi quy định: “kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi cũng có quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Điều luật này có sự kế thừa Điều 74 của Luật Hôn Nhân & Gia Đình năm 2000. Có nghĩa là kể từ thời điểm đăng kí nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi sẽ có quyền và nghĩa vụ đối với con như chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, là người đại diện pháp luật cho con chưa thành niên, mất năng lực hành vi, ngược lại con nuôi cũng phải làm tròn vai trò và trách nhiệm của mình theo quy định của pháp luật, cha mẹ nuôi và con nuôi có quyền hưởng di sản thừa kế của nhau theo quy định của pháp luật thừa kế…Và khoản 4 Điều 24 cũng quy định rõ “Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi”. Luật Nuôi Con Nuôi quy định thêm về mối quan hệ pháp lí giữa con nuôi và các thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi, khi trở thành thành viên trong gia đình cha mẹ nuôi, con nuôi sẽ có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó, có quyền và nghĩa vụ với các thành viên khác trong gia đình như con đẻ. Những quy định này đã cụ thể hóa vai trò, quyền và nghĩa vụ của con nuôi và cha mẹ nuôi, điều này giúp con nuôi có thể hoà nhập vào gia đình của cha mẹ nuôi, không có sự 9 phân biệt đối xử giữa con nuôi và con đẻ. Như vậy mối quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi trong Luật Nuôi Con Nuôi có sự gắn bó chặt chẽ hơn về quyền và nghĩa vụ với cha mẹ nuôi. Luật Hôn Nhân & Gia Đình 2000 quy định rất ít về vấn đề mối quan hệ giữa con nuôi và cha mẹ đẻ. Đối với vấn đề nhân thân, Luật Hôn Nhân & Gia Đình năm 2000 chỉ quy định về quyền của con liệt sĩ, thương binh, con của người có công với Cách mạng. Về vấn đề tài sản, cha mẹ đẻ và con đã được cho làm con nuôi vẫn có quyền thừa kế di sản của nhau. Đối với quyền và nghĩa vụ khác, Luật không có quy định cụ thể, điều này gây ra khó khăn trong việc xác định quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con nuôi trên thực tế. Chính vì vậy khoản 4 Điều 24 Luật Nuôi Con Nuôi nêu trên đã quy định rõ về quyền cha mẹ đẻ sau khi cho con nuôi. Luật Nuôi Con Nuôi đã rút ra được những kẽ hở của Luật Hôn Nhân và Gia Đình, từ đó quy định cụ thể hơn về mối quan hệ pháp lí 3 bên sau khi việc nuôi con nuôi được xác lập so với Luật Hôn Nhân & Gia Đình năm 2000. 3.2. Vấn đề về báo cáo tình hình phát triển của con nuôi Một điểm mới nữa là cha mẹ nuôi phải có nghĩa vụ báo cáo tình hình phát triển của con nuôi với các cơ quan có thẩm quyền. Nghĩa vụ này được đặt ra đối với cả trường hợp nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Theo quy định trước đây cha mẹ nuôi phải báo cáo tình hình phát triển của con nuôi 6 tháng một lần trong 3 năm đầu tiên, sau đó mỗi năm báo cáo một lần cho đến khi 18 tuổi ( Điều 1 khoản 13 Nghị định 69/2006/NĐ- CP) . Việc báo cáo định kì phải được thưc hiện đến khi trẻ 18 tuổi là quá dài, điều này dẫn tới sự khó khăn đối những với cá nhân ở vùng sâu vùng xa, hoặc những vùng có giao thông hay thông tin liên lạc còn hạn chế, gây ra các hiện tượng bất cập khi xử lí các báo cáo. Để hạn chế tình trạng này Luật Nuôi Con Nuôi quy đinh cha mẹ nuôi phải có trách nhiệm báo cáo tình hình phát triển của con nuôi trong 3 năm đầu tiên, nội dung báo cáo là về tình trạng sức khoẻ, thể chất, tinh thần, sự hoà nhập của con nuôi với cha mẹ nuôi, gia đình, cộng đồng (Điều 39 Luật NCN). Quy định này vừa mang tính khả thi, tương đồng với pháp luật các nước khác trên thế giới, đồng thời lại không gây ra những khó khăn cho việc báo cáo. III. Những hạn chế cần sửa đổi bổ sung 1. Vấn đề về điều kiện của việc nuôi con nuôi Tại Điều 4 Luật Nuôi Con Nuôi quy định nguyên tắc: tôn trọng quyền trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc. Tức là, cha mẹ đẻ không còn khả năng nuôi dưỡng giáo dục thì mới có thể cho trẻ làm con nuôi, nguyên tắc này lại không được cụ 10 thể hoá trong các quy định về điều kiên của người được nhận nuôi. Sự thiếu sót này có thể dẫn đến tình trạng mặc dù cha mẹ đẻ vẫn có đủ điều kiện nuôi dưõng nhưng vẫn cho trẻ làm con nuôi để nhằm mục đích khác. Điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới ý nghĩa của việc nuôi con nuôi, tạo điều kiện cho những thủ đoạn lách luật nhằm những mục đích không tốt, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của trẻ em. Do đó, Luật cần bổ sung thêm quy định về khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc của cha mẹ đẻ, cha mẹ đẻ chỉ được cho con đẻ của mình làm con nuôi người khác trong trường hợp không có khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ. Bên cạnh đó cũng cần đưa ra những hình phạt nghiêm khắc đối với việc lạm dụng cho và nhận nuôi con nuôi. 4.2.Hệ quả pháp lý của nuôi con nuôi Về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chưa được quy định trong Luật Nuôi Con Nuôi. Nó chỉ được quy định tại điều 24 thuộc chương 2- Nuôi con nuôi trong nước, nhưng không phải trường hợp nào cũng áp dụng được Điều 24. Một quan hệ pháp luật có yếu tố nước ngoài sẽ chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, do vậy sẽ rất dễ gây đến việc mâu thuẫn, không phù hợp giữa các hệ thống pháp luật. Vì vậy cần phải có những văn bản hướng dẫn cụ thể hơn trong vấn đề này, đặc biệt là việc giải quyết hậu quả pháp lý việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam hay tại nơi con nuôi thường trú. KẾT BÀI Trong đời sống xã hội hiện nay nuôi con nuôi thực tế vẫn còn tồn tại khá nhiều và không phải trường hợp nuôi con nuôi nào cũng đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì thế giải quyết tốt vấn đề nuôi con nuôi thực tế một mặt đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi, mặt khác còn có ý nghĩa xã hội sâu sắc, thể hiện tính nhân văn trong chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó giải quyết tốt vấn đề nuôi con nuôi thực tế là góp phần bảo vệ sự ổn định bền vững trong mối quan hệ tình cảm gia đình rất đáng trân trọng đó là truyền thống quý báu. 11 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trêng §¹i häc LuËt Hµ Néi, Gi¸o tr×nh luËt h«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam, Nxb. C«ng an nh©n d©n, Hµ Néi, 2009. 2. Trung t©m ®µo t¹o tõ xa, §¹i häc HuÕ, Gi¸o tr×nh luËt h«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam, Nxb. C«ng an nh©n d©n, Hµ Néi, 2003. 3. NguyÔn Ngäc §iÖn, B×nh luËn khoa häc LuËt h«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam, TËp 1, Nxb. TrÎ Thµnh phè Hå ChÝ Minh, Thµnh phè Hå ChÝ Minh, 2002. 4. LuËt h«n nh©n vµ gia ®×nh ViÖt Nam n¨m 2000. 5. Luật Nuôi con nuôi năm 2010. 6. NghÞ quyÕt cña Héi ®ång thÈm ph¸n Toµ ¸n nh©n d©n tèi cao sè 02/2000/NQ-H§TP ngµy 23/12/2000 híng dÉn TAND c¸c cÊp ¸p dông mét sè quy ®Þnh cña LuËt h«n nh©n vµ gia ®×nh. 7. Nghị định số 12/2003/NĐ-CP của Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa học. 8. NghÞ quyÕt cña Quèc héi sè 35/2000/QH10 ngµy 09/06/2000 vÒ viÖc thi hµnh LuËt h«n nh©n vµ gia ®×nh n¨m 2000. 9. NghÞ ®Þnh cña ChÝnh phñ sè 70/2001/N§-CP ngµy 03/10/2001 quy ®Þnh chi tiÕt thi hµnh LuËt h«n nh©n vµ gia ®×nh n¨m 2000. 10. NghÞ ®Þnh cña ChÝnh phñ sè 158/2005/N§-CP ngµy 27/12/2005 vÒ ®¨ng kÝ vµ qu¶n lÝ hé tÞch. 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan