Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu ẩn dụ với các nhóm từ liên quan đến ngôi nhà theo lí thuyết ngôn ngữ ...

Tài liệu Nghiên cứu ẩn dụ với các nhóm từ liên quan đến ngôi nhà theo lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận (có đối chiếu so sánh hai ngôn ngữ anh - việt)

.PDF
77
1499
81

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi Tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n NGUYỄN THANH TUẤN NGHIÊN CỨU ẨN DỤ VỚI CÁC NHÓM TỪ LIÊN QUAN ĐẾN NGÔI NHÀ THEO LÍ THUYẾT NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN (Có đối chiếu so sánh hai ngôn ngữ Anh - Việt) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hµ néi - 2009 ®¹i häc quèc gia hµ néi Tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n NGUYỄN THANH TUẤN NGHIÊN CỨU ẨN DỤ VỚI CÁC NHÓM TỪ LIÊN QUAN ĐẾN NGÔI NHÀ THEO LÍ THUYẾT NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN (Có đối chiếu so sánh hai ngôn ngữ Anh - Việt) Chuyªn ngµnh : Ng«n ng÷ häc M· sè : 60.22.01 LuËn v¨n th¹c sÜ ng«n ng÷ Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: GS - TS. Nguyễn Đức Tồn Hµ néi - 2009 MỤC LỤC Phần mở đầu .................................................................................................. 4 1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 4 2. Mục đích nghiên cứu..................................................................................... 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 5 3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................ 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 5 4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 5 5. Bố cục luận văn ............................................................................................ 5 Chương 1. Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài................................................ 6 1.1. Một số khái niệm cơ sở của tri nhận và hoạt động tri nhận ..................... 6 1.1.1. Tri nhận là gì? ............................................................................. 6 1.1.2. Tri nhận và tri giác ...................................................................... 7 1.1.3. Khoa học tri nhận ........................................................................ 8 1.1.4. Hoạt động tri nhận ....................................................................... 9 1.1.5. Tri thức hay sự hiểu biết .............................................................. 9 1.1.6. Thông tin ..................................................................................... 10 1.1.7. Phân tích ngữ nghĩa tri nhận ........................................................ 10 1.1.8. Khung........................................................................................... 11 1.1.9. Tri nhận và biểu trưng hóa ........................................................... 12 1.1.10. Tri nhận và phục chế tri nhận .................................................... 13 1.2. Ngôn ngữ học tri nhận ............................................................................ 13 1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận trên thế giới và Việt Nam ................................................................................... 13 1.2.2. Mô hình ( hay bức tranh ) về thế giới của ngôn ngữ học tri nhận ............................................................................................... 16 1.2.3. Đối tượng và nhiệm vụ của ngôn ngữ học tri nhận ...................... 17 1.2.3.1. Đối tượng .......................................................................... 17 1.2.3.2. Hai nguyên lí cơ bản .......................................................... 17 1.3. Ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận ......................................................................... 18 1.3.1. Ẩn dụ theo quan niệm truyền thống .............................................. 19 1.3.2. Ẩn dụ tri nhận ............................................................................... 19 1 1.4. Tiểu kết ................................................................................................. 22 Chương 2. Khảo sát ẩn dụ đối với các nhóm từ liên quan đến ngôi nhà trong tiếng Việt từ góc độ tri nhận .............................................. 23 2.1. Ngữ nghĩa và sự phát triển ẩn dụ của từ “nhà” ...................................... 23 2.2. Ngữ nghĩa và sự phát triển ẩn dụ của các từ liên quan đến kết cấu ngôi nhà .......................................................................................... 26 2.2.1. Móng nhà .................................................................................... 27 2.2.2. Tường nhà .................................................................................... 28 2.2.3. Vách nhà ...................................................................................... 28 2.2.4. Mái nhà ........................................................................................ 29 2.2.5. Trần nhà ....................................................................................... 29 2.2.6. Nóc nhà ........................................................................................ 30 2.2.7. Sàn nhà ......................................................................................... 30 2.2.8. Cột ( trụ ) nhà ............................................................................... 31 2.2.9. Bậc ( cầu thang ) ........................................................................... 31 2.2.10. Bếp ............................................................................................. 32 2.2.11. Phòng ......................................................................................... 32 2.3. Ngữ nghĩa và sự phát triển ẩn dụ của các từ chỉ các phần bên ngoài ngôi nhà ..................................................................................... 33 2.3.1. Cửa ............................................................................................... 33 2.3.2. Hàng rào ....................................................................................... 34 2.3.3. Vườn ............................................................................................ 36 2.3.4. Sân ............................................................................................... 38 2.3.5. Hành lang ……………………………………………………39 2.4. Ngữ nghĩa và sự phát triển ẩn dụ của các động từ liên quan đến ngôi nhà ........................................................................................ 40 2.4.1. Đào ............................................................................................... 41 2.4.2. Đổ ................................................................................................ 42 2.4.3. Xây/xây dựng/dựng xây ............................................................... 42 2.4.4. Quét .............................................................................................. 44 2.5. Tiểu kết ................................................................................................ 45 2 Chương 3. Khảo sát ẩn dụ đối với các nhóm từ liên quan đến ngôi nhà trong tiếng Anh từ góc độ tri nhận ( có đối chiếu với tiếng Việt ) .............................................................................................. 46 3.1. Ngữ nghĩa và ẩn dụ của từ “nhà” trong tiếng Anh ................................ 46 3.2. Ngữ nghĩa và sự phát triển ẩn dụ của các từ liên quan đến kết cấu ngôi nhà trong tiếng Anh .......................................................... 52 3.2.1. Giới thiệu về kết cấu ngôi nhà của người Anh ............................ 52 3.2.2. Ngữ nghĩa và sự phát triển ẩn dụ của các từ liên quan đến kết cấu ngôi nhà .................................................................... 55 3.2.2.1. Móng nhà (Foundation ) ................................................. 55 3.2.2.2. Tường nhà ( Wall ) ......................................................... 56 3.2.2.3. Mái nhà, nóc nhà ( House – top, roof ) ............................ 56 3.2.2.4. Trần nhà ( Ceiling ) .......................................................... 57 3.2.2.5. Sàn nhà ( Floor, parquet ) ................................................ 58 3.2.2.6. Cột ( The pillar ) ............................................................. 58 3.2.2.7. Cửa và cửa sổ ( Door and Window )……….... 59 3.3. Ngữ nghĩa và sự phát triển ẩn dụ của cỏc từ chỉ các phần bên ngoài ngôi nhà ..................................................................................... 60 3.3.1. Hàng rào ( Hedge and fence ) ....................................................... 60 3.3.2. Vườn ( Garden ) ........................................................................... 61 3.3.3. Sân ( Yard, court, courtyard ) ....................................................... 62 3.3.4. Hành lang ( Hallway, porch, corridor, lobby ) .............................. 63 3.4. Ngữ nghĩa và sự phát triển ẩn dụ của những động từ liên quan đến ngôi nhà ........................................................................................ 64 3.4.1. Đào (Dig ) .................................................................................... 64 3.4.2. Đổ (Cast ) ..................................................................................... 65 3.4.3. Xây (Build ) ................................................................................. 65 3.4.4. Quét ( Sweep ) .............................................................................. 66 3.5. Tiểu kết ................................................................................................. 67 Phần kết luận ................................................................................................. 68 Tài liệu tham khảo ......................................................................................... 71 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ẩn dụ đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong mỗi hệ thống ngôn ngữ cũng như trong đời sống giao tiếp hàng ngày. Trong hệ thống ngôn ngữ, ẩn dụ là một trong hai phương thức quan trọng để tạo thêm những nghĩa mới cho từ ngữ, phát triển tính đa nghĩa của từ. Trong giao tiếp hiện thực sống động, ẩn dụ càng tỏ ra đắc lực hơn trong việc giúp con người có thể diễn tả một cách tế vi nhất hoặc khéo léo nhất những nội dung của đời sống xã hội. Nghiên cứu ẩn dụ trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có một lịch sử khá lâu dài, song thời gian gần đây, với sự phát triển nở rộ của khuynh hướng nghiên cứu ngôn ngữ theo lý thuyết tri nhận thì những nghiên cứu mới về ẩn dụ đứng từ góc độ tri nhận xuất hiện chưa phải là nhiều. Đứng trước tình hình trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Nghiên cứu ẩn dụ của các nhóm từ liên quan đến ngôi nhà theo lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận (có so sánh đối chiếu với tiếng Anh) với mong muốn tiếp cận việc nghiên cứu ẩn dụ theo một hướng đi còn mới mẻ, thông qua một đối tượng quen thuộc gần gũi với tất cả mọi dân tộc là ngôi nhà, từ đó có thể thấy được những nét đặc thù trong tư duy và ngôn ngữ của mỗi dân tộc khi tri nhận về thế giới. 2. Mục đích nghiên cứu Qua luận văn, chúng tôi muốn xác lập một bức tranh về ẩn dụ hoá qua lớp từ ngữ liên quan đến ngôi nhà trong tiếng Việt. Đồng thời, bằng sự so sánh đối chiếu với một ngôn ngữ khác là tiếng Anh, luận văn hy vọng sẽ chỉ ra được những khác biệt mang tính đặc thù về tư duy và ngôn ngữ của hai dân tộc trong cách cảm, cách nghĩ về cùng một sự vật, hiện tượng rất gần gũi là ngôi nhà. 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là lớp từ ngữ trong tiếng Việt (có đối chiếu với tiếng Anh) liên quan đến ngôi nhà (từ lúc bắt đầu xây dựng nhà cho đến khi ngôi nhà hoàn chỉnh như một hiện thực). Lớp từ ngữ kể trên sẽ được phân tích ngữ nghĩa từ góc độ ẩn dụ tri nhận trong sự đối chiếu hai ngôn ngữ. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các lớp từ ngữ liên quan đến ngôi nhà trong các cuốn từ điển có uy tín của hai ngôn ngữ Việt và Anh, đồng thời kết hợp với sự mẫn cảm ngôn ngữ của một người bản ngữ sử dụng tiếng Việt. Ngoài ra luận văn còn khai thác các tài liệu có liên quan khác trong phạm vi hai ngôn ngữ Anh - Việt. 4. Phương pháp nghiên cứu Hai phương pháp ngôn ngữ học chủ đạo được luận văn sử dụng là phương pháp miêu tả đồng đại và phương pháp đối chiếu. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp liên ngành cũng như một số thủ pháp thích hợp khác như thống kê, phân tích ngữ nghĩa, cải biến. 5. Bố cục luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính của luận văn được chia làm 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài Chương 2: Khảo sát ẩn dụ đối với các nhóm từ liên quan đến ngôi nhà theo lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận Chương 3: So sánh đối chiếu ẩn dụ đối với các nhóm từ liên quan đến ngôi nhà trong tiếng Anh và tiếng Việt theo lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận. 5 Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ SỞ CỦA TRI NHẬN VÀ HOẠT ĐỘNG TRI NHẬN 1.1.1. Tri nhận là gì? Khái niệm tri nhận (cognition) có nguồn gốc từ tiếng La tinh trong sự kết hợp nghĩa của hai từ cognition (nhận thức) và cogitation (tư duy, suy nghĩ). Nó biểu hiện một quá trình nhận thức hoặc là tổng thể những quá trình tâm lí (tinh thần, tư duy), tri giác, phạm trù hoá, lời nói..phục vụ cho việc xử lí và chế biến thông tin. Nó bao gồm cả việc con người nhận thức và đánh giá bản thân mình trong thế giới xung quanh và xây dựng bức tranh thế giới đặc biệt - tất cả những cái tạo thành cơ sở cho hành vi của con người. Tri nhận là tất cả những quá trình trong đó những dữ liệu cảm tính được cải biến khi truyền vào trong não dưới dạng những biểu tượng tinh thần (hình ảnh, mệnh đề, khung, cảnh ) để có thể lưu lại trong trí nhớ con người. Theo Trần Văn Cơ, đôi khi tri nhận còn được định nghĩa như là sự tính toán (computation), nghĩa là xử lí thông tin dưới dạng những kí hiệu, cải biến nó từ dạng này sang dạng khác, thành mật mã khác, cấu trúc khác. Trong Anh ngữ đương đại, cognition được ghi nhận có ba nghĩa. Nghĩa thứ nhất chỉ hành động nhận thức, nghĩa thứ hai chỉ cái nhận thức được, nghĩa thứ ba được ghi bằng từ knowledge có nghĩa là “hiểu biết” nhưng từ này ngày nay đã gần như không còn được dùng. Trong tiếng Pháp, từ cognition được ghi nhận từ thế kỷ XIV và dùng trong triết học, ý nghĩa của nó được ghi là tương đương với từ connaissance, có nghĩa là sự/điều hiểu biết. 6 Trong cách dùng của giới Việt ngữ học hiện nay, tri nhận là một thuật ngữ được vay mượn từ tiếng Hán nhưng có sư biến đổi, bởi như Diệp Quang Ban đã chỉ ra trong một bài viết gần đây, trong các cuốn từ điển Hán Việt hoàn toàn không có từ tri nhận mà chỉ có từ nhận tri. Từ nhận tri có thể được hiểu tương đương với từ nhận biết và một lần nữa có thể diễn đạt bằng một từ dân dã của tiếng Việt: từ nhận thức.Chính vì thế, tác giả Diệp Quang Ban đề nghị dùng khái niệm ngôn ngữ học nhận thức thay cho ngôn ngữ học tri nhận. (tạp chớ Ngụn ngữ số 2/2008). 1.1.2. Tri nhận và tri giác Sau khi đã làm rõ về khái niệm tri nhận, chúng ta cần phân biệt khái niệm tri nhận với một khái niệm gần gũi, có nhiều liên quan và đôi khi có thế gây ra sự lầm lẫn đối với một số người, đó là khái niệm tri giác. Nếu như tri nhận là quá trình xử lí thông tin, chế biến thông tin để tạo ra kiến thức, tri thức của con người thì tri giác (perception) lại thuộc cấp độ cảm tính của quá trình nhận thức. Quan hệ giữa tri nhận và tri giác là quan hệ có tính nhân quả, theo đó con đường từ tri giác tới tri nhận là con đường tất yếu để con người nắm bắt về thế giới khách quan, bắt đầu từ những cứ liệu quan trọng do tri giác cảm tính cung cấp. Tri giác có 3 đặc điểm: 1. Tri giác luôn luôn cụ thể, nó cung cấp những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể của sự vật và không phân biệt những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. 2. Tri giác không tồn tại riêng lẻ, chúng có thể hợp tác với nhau và trong những trường hợp nhất định, có thể thay thế cho nhau. Có thể thấy điều này qua những cách nói trong đời sống giao tiếp hàng ngày của người Việt như: nếm trải mùi đời, cái vali trông nặng nhỉ, bát phở trông ngon quá, đã nghe rét mướt luồn trong gió. 7 3. Tri giác có khả năng biến những sự kiện, sự vật trừu tượng hoặc không thể quan sát trực tiếp được thành những sự vật gần gũi, có thể tri giác một cách dễ dàng hơn. Có thể thấy điều này qua những cách nói trong đời sống hàng ngày như: tương lai mờ mịt, tình yêu cháy bỏng, suy nghĩ đắng cay… Tri giác vốn là đối tượng đã được bàn nhiều đến trong tâm lí học và triết học, song trong ngôn ngữ học tiền tri nhận thì nó ít được chú ý tới do sự quan tâm quá nhiều của giới ngôn ngữ học đối với vấn đề hình thái. Nhưng từ khi ngôn ngữ học chuyển sang lấy ngữ nghĩa làm trọng tâm nghiên cứu thì vấn đề tri giác lại được quan tâm đến nhiều hơn mà một trong những đại biểu tiên phong là Wierzbicka (1980). Bà khẳng định rằng, những vấn đề liên quan đến tri giác cũng là vấn đề của ngôn ngữ học, chúng hoặc là đang hình thành, hoặc có thể được hình thành như những vấn đề về ý nghĩa (dẫn theo Trần Văn Cơ [2, 94] ). Có một điều rất quan trọng là, khi viết về tri giác, nhiều nhà triết học đặc biệt lưu tâm đến việc xác định những từ ngữ như trông thấy, nghe thấy hoặc cảm thấy xem có bao nhiêu ý nghĩa, đó là những ý nghĩa gì và chúng liên hệ với nhau như thế nào. 1.1.3. Khoa học tri nhận Trước khi nói đến ngôn ngữ học tri nhận, khoa học tri nhận (cognitive science) đã được hình thành vào những thập niên 60 - 70 của thế kỷ trước trên cơ sở một môn khoa học được biết đến với tên gọi “trí tuệ nhân tạo”. Đây là môn khoa học có nhiệm vụ nghiên cứu và mô hình hoá các quá trình trí tuệ của con người. Nhờ đó người ta nghĩ rằng cần phải nghiên cứu những phương thức nào đó giúp cho việc “mổ xẻ” kiến thức. Từ đó, khoa học tri nhận ra đời. Nếu ngược dòng lịch sử một cách xa xưa hơn, tri nhận luận đã có cội nguồn từ thời cổ đại qua các nghiên cứu về logic học, triết học, tâm lí học, 8 sinh lí học. Triết học cổ đại đã có một chương riêng với tên gọi nhận thức luận (gnosiology) 1.1.4. Hoạt động tri nhận Hoạt động tri nhận (coginitive activity) được hiểu là quá trình thiết định giá trị (nghĩa) của biểu thức ngôn ngữ, nghĩa là tính thông tin của nó. Nói rộng ra, hoạt động tri nhận tạo cho con người khả năng đi đến một quyết định và/hoặc một sự hiểu biết nhất định. Tóm lại, đó là hoạt động tư duy dẫn đến chỗ thông hiểu (thuyết giải) một cái gì đó. Kết quả của hoạt động tri nhận là sự tạo ra một hệ thống những ý niệm giúp con người hiểu biết, giả định, suy nghĩ và/hoặc tưởng tượng về các đối tượng của thế giới hiện thực và các thế giới khả dĩ. Điều đó thuộc về hệ thống ý niệm của con người. Hoạt động tri nhận của con người có quan hệ trực tiếp với môi trường sống nên nó mang đặc thù văn hoá dân tộc. Hoạt động tri nhận là một bộ phận cấu thành của ý thức con người, nó được triển khai trong những điều kiện văn hoá nhất định và có khả năng phản ánh những tiêu chuẩn đạo đức, những nguyên tắc chính trị, tôn giáo và những thành tố khác của văn hoá. Do đó, có quan niệm rằng hoạt động tri nhận như một tập hợp những quy trình chuyển đổi một hiện thực này sang một hiện thực khác. Tham gia vào hoạt động tri nhận có những hệ thống xử lí thông tin khác nhau vì thế những cấu trúc ý thức được tạo ra không đồng nhất và phụ thuộc vào kênh theo đó thông tin được truyền đến cho con người. 1.1.5. Tri thức, hay sự hiểu biết Tri thức là thuật ngữ được dùng rất phổ biến trong khoa học tri nhận. Nó liên quan đến những vấn đề sau: a) Cái gì sinh ra tri thức?; b) Sự phát triển của tri thức xảy ra như thế nào?; c) Có thể có những loại tri thức nào đối lập nhau?; d) Những cơ chế và/hoặc quy trình nào xác định được tính 9 chất của việc thu nhận tri thức và trong những qúa trình nào xuất hiện tri thức?; e) Dưới dạng nào, ở đâu và trong những cấu trúc nào tri thức được trình diện cho trí tuệ con người, những hệ thống trình diện tri thức nào tồn tại và chúng tương tác với nhau như thế nào?; g) Vấn đề chủng loại và bản thể của tri thức; h) Vấn đề về sử dụng tri thức trong các quá trình tư duy và hoạt động lời nói. 1.1.6. Thông tin Thông tin (information) là tất cả những dữ liệu con người nhận được từ bên ngoài theo nhiều kênh khác nhau: kênh thu nhận cảm tính và kênh vận động - cảm giác, và cả những dữ liệu đã được hệ thần kinh trung ương xử lí và được con người lựa chọn, thuyết giải và lưu giữ trong đầu dưới dạng biểu hiện tinh thần. Khoa học tri nhận trước hết quan tâm đến thông tin tri nhận - một loại thông tin đặc trưng của con người được tiếp nhận qua kinh nghiệm nhận thức thế giới khi tri giác và khái quát hoá kinh nghiệm này. Loại thứ hai là thông tin tinh thần, là đối tượng riêng của khoa học tri nhận, có vai trò quan trọng như một “mật mã bên trong” (Fodor, 1981). Jackendoff (1993) thì quan niệm rằng nhiệm vụ của lí thuyết tri nhận là nghiên cứu cấu trúc của thông tin tinh thần và những nguyên tắc “vi tính hoá” (computation) thông tin đó. Thông tin tinh thần có quan hệ với các không gian tinh thần chứa đựng nội dung về thế giới hiện thực cũng như về những kế hoạch, niềm tin, chủ đích. Loại thứ ba là thông tin ý niệm, được xem như kết quả của hoạt động tri nhận của con người do con người xử lí và cấu trúc hoá thành tri thức. Thông tin ý niệm có thể cung cấp những tin tức về sự tình khách quan trong thế giới và những tin tức về các thế giới khả hữu với những sự tình trong các thế giới đó. 10 1.1.7. Phân tích ngữ nghĩa tri nhận Lịch sử phát triển của ngôn ngữ học có thể được hiểu như là sự thay thế các hệ hình khoa học, nghĩa là thay đổi những quan điểm xuất phát về đối tượng và phương pháp luận nghiên cứu. Hệ hình tri nhận, trong khi cùng tồn tại với những hình hệ khoa học khác trong khoa học về ngôn ngữ, nó chỉ rõ một khuynh hướng nghiên cứu mới lấy nguyên lí “dĩ nhân vi trung” làm cơ sở phương pháp luận chuyển hướng nghiên cứu từ cấu trúc của ngôn ngữ sang cấu trúc của quá trình tinh thần. Phân tích ngữ nghĩa tri nhận trước hết là phân tích ý niệm (concept)đơn vị trung tâm của ngôn ngữ học tri nhận. Yu.S. Stepanov quan niệm về ý niệm như sau: “í niệm tựa như một khối kết đông của nền văn hoá trong ý thức con người; dưới dạng của nó, nền văn hoá đi vào thế giới ý thức (tư duy) của con người, và, mặt khác, ý niệm là cái mà nhờ đó, con người người bình thường, không phải là “người sáng tạo ra những giá trị văn hoá” (mà) chính con người đó đi vào văn hoá, và trong một số trường hợp nhất định có tác động đến văn hoá. í niệm được coi là đơn vị của tư duy, là yếu tố của ý thức, nó là sự kiện của lời nói, gắn chặt với người nói và luôn định hướng đến người nghe. í niệm mang tính chủ quan với nghĩa nó là một mảng của bức tranh thế giới, thế nên nó phản ánh lăng kính của ý thức ngôn ngữ dân tộc và mang tính dân tộc một cách sâu sắc. Tóm lại, ý niệm chứa đựng 3 thành tố: thành tố khái niệm, thành tố cảm xúc - hình tượng và thành tố văn hoá. Ngoài ra, còn phải bàn đến hệ thống ý niệm - được hiểu là tổng hoà tất cả những ý niệm có trong trí tuệ của con người. 1.1.8. Khung Khung (frame) được hiểu là phương thức lưu trữ các biểu tượng trong bộ nhớ. Nó là đơn vị của tri thức được tổ chức xung quanh một khái niệm nào đó và chứa đựng những dữ liệu về cái cơ bản, cái điển hình và cái khả dĩ 11 đối với khái niệm đó. Khung cho biết cụ thể cái gì là đặc trưng và điển hình trong một nền văn hoá nhất định, cái gì không phải thế. Khung đặc biệt quan trọng đối với những tình tiết nhất định của mối tương tác xã hội, nó tổ chức sự thông hiểu của chúng ta đối với thế giới nói chung, đồng thời tổ chức cả hành vi thường nhật của mỗi cá thể. Liên quan với mỗi khung có các dạng của thông tin: về việc sử dụng nó, về chuyện phải chờ đợi sau đó, phải làm gì nếu như sự chờ đợi không được khẳng định. 1.1.9. Tri nhận và biểu trưng hoá Biểu trưng hoá (symbolisation) là một trong những phương pháp mà ngôn ngữ học tri nhận rất quan tâm nghiên cứu. Trong khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài, con người bộc lộ những nhu cầu nhận thức của mình dưới dạng cảm nhận những sự vật khách quan thông qua hình ảnh của chúng. Ngoài khái niệm là trung tâm của bức tranh khoa học về thế giới, con người còn tạo ra cho mình một thế giới khác nằm giữa thế giới khách quan và con người. Đó là thế giới của cảm nhận và tưởng tượng, hay còn có thể gọi là thế giới trung chuyển. Cơ chế của phương pháp này thể hiện ở chỗ con người đưa lên bề mặt những cảm nhận có ý nghĩa liên quan đến quá trình ý thức hiện thực và làm cho nó tương đồng với mình. Do chỗ con người sống trong thế giới khách quan nên con người chịu tác động của những sự kiện bên ngoài. Điều kiện chính để tạo ra thế giới trung chuyển là hành động biểu trưng hoá, nhờ đó mà khách hể có được những thuộc tính của chủ thể và chủ thể có được những thuộc tính của khách thể. Biểu trưng hoá ngôn ngữ là quá trình con người sử dụng ngôn ngữ để biểu hiện nghĩa biểu trưng. Những biểu thức ngôn ngữ chứa đựng nghĩa biểu trưng thường là cái biểu hiện những khái niệm trừu tượng, những sự kiện không quan sát trực tiếp được. Sự hiện diện điển hình của biểu trưng hoá 12 ngôn ngữ có thể dễ dàng tìm thấy trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ, ca dao. Chẳng hạn, biểu trưng của liễu, đào trong liễu yếu đào tơ; khói, lửa trong không có lửa sao có khói. 1.1.10. Tri nhận và phục chế tri nhận Khái niệm phục chế thường được hiểu như sự khôi phục lại cái cũ đã bị hư hỏng qua thời gian sử dụng. Trong ngôn ngữ học, có hiện tượng phục chế một ngôn ngữ bị lãng quên, thậm chí phục chế một phạm trù nào đó của ngữ pháp, từ vựng. Do đó, phục chế mang tính chất lịch sử và thuộc về lịch đại. Ngôn ngữ học tri nhận chủ trương dùng phục chế với nghĩa “tái tạo lại quá trình tri nhận hoặc một khâu nào đó trong quá trình này”. Thực chất đây là sự thuyết giải ý nghĩa những từ, cụm từ chứa nội dung tri nhận, tìm ra những biểu tượng tinh thần trong nó. Đơn vị phục chế biểu tượng tinh thần là ý niệm và bức tranh ngôn ngữ về thế giới với tư cách là không gian tồn tại của ý niệm. Phục chế một ý niệm nào đó là “vẽ” ra một bức tranh bằng chất liệu ngôn ngữ về nội dung của ý niệm đó, trình bày sự hiểu biết của mình về ý niệm đó. Bức tranh ngôn ngữ về thế giới chính là sự phục chế một mảng nào đó của thế giới mà con người tri nhận. 1.2. NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN 1.2.1.Tình hình nghiên cứu ngôn ngữ học tri nhận trên thế giới và Việt Nam. Muốn tìm về sự ra đời của ngôn ngữ hoc tri nhận, ta phải ngược dòng thời gian trở về những năm 60 của thế kỷ XX và bắt đầu từ ngữ pháp cải biến và ngữ pháp tạo sinh với vai trò của nhà ngôn ngữ học toán học Noam Chomsky. Bằng việc xuất bản cuốn sách Các cấu trúc cú pháp (1957), Chomsky đã kêu gọi ngôn ngữ học phải trở thành một bộ phân của tâm lí 13 học tri nhận, phải coi ngôn ngữ là một hệ thống tri nhận, mục tiêu tối thượng của ngôn ngữ học là tìm hiểu cái cơ chế phổ quát của ngôn ngữ tiềm ẩn trong trí não con người. Việc sáng lập ra lí thuyết về ngữ pháp tạo sinh của Chomsky kế thừa nhiều thành quả của cuộc cách mạng tri nhận cũng như những ngành khoa học khác thuộc khoa học tri nhận. Ông viết: “Cuộc cách mạng tri nhận thể hiện sự quan tâm đến các trạng thái của trí não, đến việc chúng biểu hiện ra sao trong hành vi của con người, đặc biệt trong các trạng thái tri nhận của nó: tri thức, sự thông hiểu, giải thích, niềm tin và v.v…Cách tiếp cận với tư duy và hoạt động của con người trong những thuật ngữ trên làm cho tâm lí học và một phân môn cấu thành nó - ngôn ngữ học biến thành mọt bộ phận của các khoa học tự nhiên vốn nghiên cứu bản chất của con người và các biểu hiện của nó, mà chủ yếu là bộ não” (dẫn theo Lý Toàn Thắng, [18,12]) Cho đến những năm 70 của thế kỉ XX, cùng với sự ảnh hưởng của tâm lí học tri nhận, trong ngôn ngữ học bắt đầu xuất hiện những nghiên cứu đầu tiên mang hơi hướng tri nhận luận và được khơi nguồn cảm hứng từ sự chia ly và tranh đấu với hệ tư tưởng của ngữ pháp tạo sinh. Bước đột phá trên con đường hình thành của ngôn ngữ học tri nhận là việc các nhà nghiên cứu thấy rằng nhất thiết phải tách ra khảo sát trong số các khả năng tri nhận của con người khả năng ngôn ngữ - cái khả năng nói và hiểu những điều nghe thấy và miêu tả các tri thức ngôn ngữ được lưu trữ trong đầu óc con người dưới dạng các biểu hiện tinh thần (mental representation) đặc biệt. Thời điểm ra đời của ngôn ngữ học tri nhận đựơc tính một cách chính danh vào năm 1989, năm thành lập Hội ngôn ngữ học tri nhận tại Duisburg (Đức) và ra mắt tạp chí Ngôn ngữ học tri nhận (Cognitive Linguistics). Trong vòng 20 năm qua, ngôn ngữ học tri nhận đã dần xác định được đối tượng và phạm vi nghiên cứu của mình, các tư tưởng và khái niệm then chốt, 14 các nguyên lí và phương pháp chủ đạo. Có thể đưa ra một quan niệm sơ bộ về ngôn ngữ học tri nhận như sau: Đó là một khuynh hướng mới của ngôn ngữ học hiện đại, tiến hành nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự cảm thụ của con người về thế giới khách quan cũng như cái cách thức mà con người tri giác và ý niệm hoá các sự vật và sự tình của thế giới khách quan đó.( Lý Toàn Thắng, [18,15-16]) Trên thực tế có hai cách nhìn nhận về phạm vi nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận. Theo nghĩa hẹp, ngôn ngữ học tri nhận chủ yếu là ngữ nghĩa học tri nhận Mỹ (của Lakoff và Johnson) và ngữ pháp học tri nhận Mỹ (của Langacker) cùng với một số nghiên cứu khác của các học giả châu Âu như Rudzka- Ostyn, Taylor, Geeraerts, Haiman. Theo nghĩa rộng, ngôn ngữ học tri nhận bao gồm nhiều đường hướng nghiên cứu khác nhau như: ngữ nghĩa học khung và ngữ nghĩa kết cấu của Fillmore, loại hình học tri nhận của Talmy, Hawkins, Croft, lí thuyết ngữ nghĩa của Wierzbicka, lí luận không gian tinh thần của Fauconnier. Ở Việt Nam, ngôn ngữ học tri nhận vẫn còn là một lĩnh vực tương đối mới mẻ, mới bắt đầu được quan tâm khoảng hơn chục năm trở lại đây. Một trong những người đi tiên phong cần được kể đến đầu tiên có lẽ là Nguyễn Đức Tồn, tác giả của một số bài báo đã được công bố từ những năm 90 của thế kỷ trước đặc biệt là tác phẩm: Tìm hiểu đặc trưng văn hoá dân tộc của ngôn ngữ và tư duy của người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác) (NXB ĐHQGHN, 2002). Sau đó, Lớ Toàn Thắng đã cho xuất bản chuyên luận bàn về ngôn ngữ học tri nhận ở Việt Nam với tên gọi Ngôn ngữ học tri nhận - từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt ( NXBKHXH, HN, 2005). Chuyên luận tiếp theo phải kể đến là cuốn Ngôn ngữ học tri nhận (Ghi chép và suy nghĩ ) của Trần Văn Cơ (NXBKHXH, HN, 2007). Một số công trình khác tuy không nhắc đến ngôn ngữ học tri nhận nhưng 15 tinh thần và thực chất vẫn nằm trong phạm vi trung tâm chú ý của ngôn ngữ học tri nhận. Đó là các tác phẩm như: Đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy (NXBKHXH, HN,2008) của Nguyễn Đức Tồn, Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam của Trần Ngọc Thêm (NXB Tổng hợp TP.HCM, 2004) (chương 2 -Văn hoá nhận thức), Quy luật ngôn ngữ, quyển 5, Bản thể ngôn ngữ của Hồ Lê (NXBKHXH, HN, 2004), Tiếng Việt phong phú của Băng Giang (NXB Văn hoá, HN, 1997). Ngoài ra còn có một số những bài viết khác đăng rải rác từ những năm 90 của thế kỷ trước trở lại đây của các tác giả như Nguyễn Đức Tồn, Lý Toàn Thắng, Trần Văn Cơ, Trần Trương Mỹ Dung, Hữu Đạt, Nguyễn Hoà, Nguyễn Đức Dân, Diệp Quang Ban, Đào Thị Hà Ninh, Ly Lan, Lê Văn Thanh .v.v.. Tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ học tri nhận mà chúng tôi vừa điểm qua như trên đặt ra những thuận lợi nhất định và cũng nhiều thách thức cho những ai tiếp tục bước đi trên con đường còn nhiều mới mẻ này. 1.2.2. Mô hình (hay bức tranh) về thế giới của ngôn ngữ học tri nhận Như vậy, ngôn ngữ học tri nhận là khuynh hướng ngôn ngữ học nghiên cứu vốn kinh nghiệm và sự cảm thụ của con người về thế giới khách quan. Nói cách khác, nó lấy con người làm trung tâm (nguyên lí dĩ nhân vi trung) và hướng đến cái mục đích tinh tế sau cùng làm làm sao phân biệt được những cách thức khác nhau của con người khi họ nhận thức về thế giới trong sự tính chủ quan của mỗi bản thể và mỗi cộng đồng. Cũng có nghĩa rằng, nhiệm vụ của ngôn ngữ học tri nhận là còn phải chỉ ra được những tương đồng và nhất là những khác biệt của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc khi họ tri giác và ý niệm hoá mỗi sự vật, sự tình của thế giới khách quan. Chính ở chỗ này, có một khái niệm quan trọng cần được làm rõ, đó là mô hình (hay bức tranh) về thế giới - cái khung đầu tiên để phân biệt sự hình dung khác nhau của mỗi cộng đồng về thế giới. 16 Mô hình (hay bức tranh) về thế giới (world view/ picture) có những nguyên lí cơ bản như sau: 1. Hình ảnh thế giới là sự ánh xạ của thế giới sự vật trong tâm lí con người, được môi giới bởi các ý nghĩa sự vật và các sơ đồ tri nhận tương ứng và chịu sự chi phối của phản xạ có ý thức. Thế giới được trình ra cho mỗi con người riêng biệt thông qua các ý nghĩa sự vật vốn dường như được đặt chồng lên trên sự tri giác về thế giới ấy. Con người không “định danh” các hình ảnh cảm tính về sự vật - ý nghĩa sự vật chỉ là thành tố của các hình ảnh này, là cái gắn kết chúng lại cho con người, là cái làm cho bản thân sự tồn tại của những hình ảnh này trở nên có thể. 2. Mô hình (hay bức tranh) thế giới là hạt nhân hay thành tố cơ sở của thế giới quan con người. Trong các ngôn ngữ, bức tranh này có thể biến đổi bởi mỗi bức tranh ngôn ngữ đều liên quan đến một logic nhìn nhận thế giới, tri giác và nhận thức thế giới riêng biệt của người bản ngữ. Như vậy, nhiệm vụ sau cùng của việc nghiên cứu bức tranh thế giới là làm sáng tỏ mối quan hệ giữa con người và thế giới của nó, chỉ ra được nhữung đặc trưng bản sắc dân tộc của mỗi mô hình thế giới trên mỗi ngữ liệu cụ thể của mỗi cộng đồng. Cuối cùng, phải phát hiện ra những nhân tố tiềm ẩn đứng đằng sau những sự khác biệt trong cách nhìn thế giới của mỗi ngôn ngữ. 1.2/3. Đối tượng và nhiệm vụ của ngôn ngữ học tri nhận 1.2.3.1. Đối tượng Đối tượng của ngôn ngữ học tri nhận là ngôn ngữ tự nhiên của con người trong mối quan hệ với con người, thực hiện chức năng làm công cụ của tư duy, công cụ xử lí và chế biến thông tin để tạo ra tri thức và xúc cảm cho con người. Với đối tượng như trên, ngôn ngữ học tri nhận có những nguyên lí sau đây 17 1.2.3.2. Hai nguyên lí cơ bản Nguyên lí 1: Ngôn ngữ học tri nhận nghiên cứu ngôn ngữ trong mối quan hệ với con người, lấy con người làm trung tâm, khi con người hành động và nhận thức. Nguyên lí 2: Ngôn ngữ phản ánh mối tương tác giữa những nhân tố tâm lí, giao tiếp, chức năng và văn hoá. Điều này có nghĩa là: a) Với tư cách là thành quả của trí tuệ con người, ngôn ngữ và cấu trúc của nó chỉ rõ trí tuệ làm việc như thế nào. Cấu trúc ngôn ngữ phản ánh những tiêu chí chức năng dựa trên sự sử dụng ngôn ngữ như một công cụ giao tiếp. ` b) Là phương tiện giao tiếp quan trọng bậc nhất giữa các thành viên trong xã hội, ngôn ngữ phản ánh nhiều bình diện của một nền văn hoá. Cấu trúc ngôn ngữ được cấu tạo bởi hai nhân tố quan trọng: nhân tố bên trong – trí tuệ của cá thể người nói và nhân tố bên ngoài - nền văn hoá chung cho nhiều người nói cùng một thứ tiếng. 1.3. ẨN DỤ VÀ ẨN DỤ TRI NHẬN 1.3.1. Ẩn dụ theo quan niệm truyền thống Theo cách nhìn truyền thống trong giới Việt ngữ học, ẩn dụ được coi là một phương thức phát triển nghĩa mới của từ hoặc sử dụng từ theo chức năng tu từ. Về việc coi ẩn dụ như một phương thức phát triển nghĩa của từ, các tác giả như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp đã có những phân tích, nhận định tương đối kỹ lưỡng. Trong giáo trình Từ vựng học tiếng Việt, Nguyễn Thiện Giáp đã chỉ ra bản chất của phương thức phát triển nghĩa ẩn dụ là dựa vào sự giống nhau giữa các sự vật hiện tượng được đem ra so sánh với nhau. Chẳng hạn, căn cứ vào sự giống nhau về hình thức để từ mũi (bộ phận cơ thể) phái sinh thành mũi dao, mũi thuyền, mũi đất. Căn cứ vào sự giống nhau 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan