Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu đề xuất giải pháp củng cố và phát triển làng nghề phi nông nghiệp ng...

Tài liệu Nghiên cứu đề xuất giải pháp củng cố và phát triển làng nghề phi nông nghiệp ngoại thành tp. hồ chí minh

.PDF
92
180
83

Mô tả:

UỶ BAN NHÂN DÂN TP.HỒ CHÍ MINH SỞ KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ ***** ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ PHI NÔNG NGHIỆP NGOẠI THÀNH TP. HỒ CHÍ MINH ðồng chủ nhiệm ñề tài PGS.TS Đào Duy Huân Th.S Nguyễn Hữu Hoài Phú DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Tháng 02 năm 2006 PHẦN MỞ ĐẦU 1. ĐẶT VẤN ĐỀ LN (LN) ở TP.HCM rất đa dạng, phong phú và chiếm một vị trí quan trọng. Các cơ sở sản xuất ở LN có vốn đầu tư không lớn, nhưng giá trị làm ra không nhỏ, thời gian thu hồi vốn nhanh. Cơ sở hạ tầng LN không đòi hỏi cao như các ngành công nghiệp hiện đại, các khu công nghiệp tập trung. Những nơi không thuận lợi trong việc phát triển công nghiệp quy mô lớn thì có thể phát triển tiểu thủ công nghiệp nông thôn. Việc quản lý cơ sở LN không phức tạp, phù hợp trình độ của chủ hộ, chủ doanh nghiệp xuất thân là nông dân. Thị trường trong nước rộng lớn với trên 80 triệu người, thị trường du lịch và xuất khẩu ngày càng lớn, nhất là đối với hàng thủ công mỹ nghệ và hàng chế biến nông sản nhiệt đới. Tiềm năng về lao động tuy hạn chế về trình độ chuyên môn, kỹ thuật và kiến thức về thị trường, nhưng lực lượng lao động nông thôn có những mặt mạnh cơ bản, cơ cấu lao động trẻ chiếm đa số, trình độ văn hoá cấp II trở lên chiếm 70%, cần cù, tiếp thu kỹ thuật nhanh và có tinh thần cộng đồng. Nguồn nguyên liệu sẵn có trong nông thôn trước hết là sản phẩm từ nông lâm ngư nghiệp, các nguyên liệu phi nông nghiệp khác. Có nhiều nghề và LN truyền thống bước đầu đã thích ứng nhanh với cơ chế thị trường để phát triển. Nếu có những giải pháp thích hợp để phát huy những tiềm năng này, LN sẽ có bước phát triển mới. Tuy vậy, trong cơ chế thị trường, các LN đang gặp phải khó khăn như thiếu vốn, trang thiết bị thô sơ, lạc hậu, thị trường tiêu thụ hạn chế, tiếp thị yếu, việc hợp tác sản xuất tiêu thụ giữa các hộ trong LN chưa thật sự gắn bó, những mô hình tổ hợp tác sản xuất giản đơn, hiệp hội nghề nghiệp chưa được phát triển, hoạt động còn mang tính tự phát. Vì vậy, việc tiếp tục phân tích đánh giá lại để từ đó có cách nhìn toàn diện chính xác LN có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra các chính sách vĩ mô nhằm khôi phục và phát triển các LN ở nông thôn trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế là việc làm cần thiết hiện nay đối 2 với TP.HCM. Vì những lý do trên, nhóm tác giả nhận đăng ký và thực hiện đề tài “ Nghiên cứu đề xuất các giải pháp củng cố và phát triển LN phi nông nghiệp ngoại thành TP.HCM ”. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Từ năm 1990 ñến nay, có nhiều bài viết, hội thảo và đề tài nghiên cứu về LN Việt Nam, trong đó có Làng nghề TP.HCM, song đáng chú ý nhất là các đề tài của PGS.TS. Vũ Trọng Khải, TS. Trần Du Lịch và của PGS.TS Tôn Nữ Quỳnh Trân đã nghiên cứu sâu Làng xã ở châu Á và ở Việt Nam năm 1995; LN thủ công truyền thống tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2000; LN thủ công truyền thống tại TP.HCM năm 2000 ... Các tác phẩm của các nhà nghiên cứu trên đã phân tích sâu sắc nhiều nội dung có liên quan đến LN nói chung và TP.HCM nói riêng. Tuy vậy các ñề tài trên chủ yếu nghiên cứu làng nghề TP.HCM trước năm 2000, vẫn chưa có ñề tài nào đi sâu phân tích đánh giá 10 LN ở các huyện Củ Chi, Hóc Môn và Thủ Đức từ năm 2000- 2005. Chính vì vậy, đề tài này tập trung đi sâu phân tích 10 LN nói trên từ năm 2000- 2005, từ đó đưa ra giải pháp củng cố và phát triển trong giai đoạn hiện nay. Đây là điểm khác biệt, mới mà các nhà khoa học kể trên chưa đề cập đến. 3. MỤC TIÊU VÀ GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nhằm đạt ba mục tiêu sau: - Về lý luận, làm rõ thêm một số lý thuyết có liên quan đến LN và LN phi nông nghiệp, các đặc trưng, tiêu chí đánh giá, vị trí vai trò của LN và kinh nghiệm phát triển LN một số nước có thể nghiên cứu vận dụng ở TP.HCM. - Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển LN trên giác độ kết quả đạt được và chưa đạt được về kinh tế và an sinh xã hội ở ngoại thành TP. Hồ Chí Minh. 3 - Phân tích, dự báo các yếu tố bên ngoài, bên trong tác động đến LN nảy sinh các cơ hội- thách thức, điểm mạnh - yếu, để đề xuất định hướng và giải pháp phù hợp để phát triển LN ngoại thành, TP.HCM. 3.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu đã được xác định giới hạn trên mấy phạm vi sau: - Về không gian, đề tài tiến hành trên địa bàn 2 quận ven và 2 huyện huyện ngoại thành là Thủ Đức, quận 12, Hóc Môn, Củ Chi; với hướng trọng tâm tập trung nghiên cứu các LN phi nông nghiệp. - Về thời gian, tập trung nghiên cứu đánh giá các LN đang tồn tại. Các định hướng phát triển phải phù hợp cho trước mắt và tối thiểu đến năm 2010. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Phương pháp tiếp cận Phương pháp tiếp cận chung của đề tài là dựa trên quan điểm coi LN là đặc trưng và chịu sự tác động chi phối thường xuyên, trực tiếp, mạnh mẽ của con người và môi trường sống, một phần rất lớn tùy thuộc bởi cấu trúc không gian lãnh thổ, tập quán sinh sống. Xét trên bình diện tổng thể ở ngoại thành TP.HCM là sự kết nối hài hòa giữa phát triển sinh thái tự nhiên và tập quán sinh sống, sao cho phát huy hiệu ứng tốt nhất để LN có thể phát triển bền vững. Theo phương hướng đó và từ thực trạng của TP Hồ Chí Minh là mật độ dân cư cao, cơ sở hạ tầng kỹ thuật quá tải và xuống cấp; trong khi, khu vực ngoại thành còn điều kiện mặt bằng để phát triển. Sản xuất LN phi nông nghiệp đang dần dần tiếp cận theo hướng mới và từng bước gắn với khai thác tiềm năng tại địa bàn để phát triển đa dạng. Vấn đề đặt ra là cần phải có những giải pháp gì để LN phi nông nghiệp có khả năng SXKD hiệu quả, có thể tồn tại lâu dài phù hợp với điều kiện ngoại thành TP.Hồ Chí Minh trong tiến trình CNH, HĐH. 4 4.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài 4.2.1. Điều tra thực địa, xử lý số liệu - Khảo sát tổng quát: Trước khi thực hiện điều tra chi tiết, đã tiến hành đợt khảo sát diện rộng trên toàn bộ địa bàn 2 quận mới và 2 huyện vùng ngoại thành, nhằm giúp cho nhóm đề tài nắm khái quát điều kiện sinh thái – cảnh quan và phân bố các loại hình đối tượng sản xuất LN chủ yếu ở các vùng. - Điều tra theo mẫu soạn sẵn với 86 thông tin để thu thập, trắc định và ghi chép các số liệu về những chỉ tiêu trên các hộ sản xuất LN trong phạm vi 2 quận mới và 2 huyện. Điều tra định lượng (426 phiếu), định tính ngẫu nhiên (20 phiếu). - Xử lý số liệu điều tra: Mẫu phiếu điều tra các hộ sản xuất LN được cấu trúc thành các nhóm yếu tố: các đặc trưng của hộ, điều kiện sản xuất, kết quả sản xuất, kỹ thuật & công nghệ sản xuất, tình hình tiêu thụ sản phẩm, vốn và lợi nhuận, các hỗ trợ của địa phương & nguyện vọng của hộ dân. 4.2.2. Phân tích- tổng hợp những thông tin từ các tài liệu, đề tài, dự án. 4.3.3. Phương pháp chuyên gia thông qua tổ chức hội thảo để thu thập thông tin từ các hộ sản xuất của các LN và các chuyên gia am hiểu lĩnh vực LN. 5. NỘI DUNG BÁO CÁO ĐỀ TÀI: Phần mở đầu; Phần 1: Cơ sở lý luận về LN phi nông nghiệp; Phần 2: Hiện trạng phát triển LN phi nông nghiệp ngoại thành, TP.HCM; Phần 3: Định hướng mục tiêu và các giải pháp phát triển LN; Phần Kiến nghị và kết luận. 5 PHẦN 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LN PHI NÔNG NGHIỆP 1.1. TỔNG QUAN VỀ LÀNG NGHỀ 1.1.1. Khái niệm về LN Trong lịch sử phát triển phạm trù làng gắn liền với cộng đồng dân cư ở nông thôn. Thông thường, khi nói đến hoạt động kinh tế của làng, trước hết là nói đến hoạt động truyền thống là hoạt động sản xuất nông nghiệp. Quan niệm về LN trước hết gắn liền với các hoạt động tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn. Trong quan niệm LN bao gồm 2 nội dung đáng lưu ý: - Trước hết, là một làng ở nông thôn gắn liền với cộng đồng dân cư và có các đặc trưng của một làng xã nông thôn, - Hai là, gắn liền với một hoạt động kinh tế phi nông nghiệp (NN) nào đó của cộng đồng (như làm mộc, làm gốm, dệt vải.v.v). Như vậy, có thể hình dung chung nhất : “làng” + “nghề” phi NN đến một qui mô nào đó thì gọi là Làng nghề. Cho đến nay, trong giới nghiên cứu còn có nhiều cách hiểu và quan niệm khác nhau về Làng nghề. Nhiều vấn đề đặt ra khi tiếp cận quan niệm về Làng nghề. Ví dụ, nên xem xét các nghề nghiệp đó đã hình thành từ lâu hay là mới được hình thành; tỷ lệ của các hoạt động liên quan đến nghề của làng có vị trí như thế nào trong hoạt động của làng đó (như tỷ lệ số hộ, số lao động, tỷ lệ về thu nhập so với toàn bộ số hộ số lao động, số thu nhập của làng đó)… Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Làng nghề là những làng sống bằng hoặc chủ yếu bằng nghề thủ công ở nông thôn Việt Nam. Trước 1945, các Làng nghề được tổ chức chỉ khác các làng nông nghiệp ở chỗ nó có phường nghề và thờ cúng tổ nghề. Xóm làng tuy có chợ nhưng không thành dãy phố, không có cửa hàng cửa hiệu. Các gia đình tập hợp theo huyết thống (dòng họ) và theo quan hệ xóm giềng, 6 theo lứa tuổi (giáp), theo thiết chế hành chính (dân hàng xã, kỳ mục và lí dịch). Các công việc làng-giáp (cúng thành hoàng, lễ hội) do giáp đảm nhiệm, còn việc hàng xã, lễ hội hàng xã, bổ thuế, phu dịch, lính, do hội đồng kì mục, lí dịch và giáp phối hợp hoạt động. Ngoài việc làng-giáp-xã, dân thợ còn họp nhau lại thành phường nghề. Cố kết trong phường nghề chủ yếu là thờ cúng tổ nghề, giúp nhau bằng cách cho vay vốn hoặc nguyên liệu, hàng hoá, phường nghề chưa được như phường hội Châu Âu. Trong các LN đã có quan hệ thuê mướn lao động, nhưng chưa hình thành các công trường thủ công, hầu hết dân làng làm nông – công kết hợp. Một số LN tiêu biểu ở Việt Nam: làng gốm Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội), làng đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh), làng dệt La Khê (Hà Tây), làng làm giấy (Bưởi, Hà Nội), vv. Ngày nay các LN đang được phục hồi nhưng diện mạo của nó đã thay đổi. Tuy vậy, quan hệ chủ - thợ và đội ngũ người làm thuê đã xuất hiện, cùng với sự hình thành những xí nghiệp cỡ nhỏ.”1 Để phản ánh quy mô các hoạt động tiểu thủ công nghiệp trong từng làng ở nông thôn, thường phải xem xét nhiều tiêu chí. 1.1.2. Các tiêu chí phân loại LN Việc phân loại LN cũng có nhiều tiêu chí khác nhau. Có thể phân loại LN ở nước ta theo những tiêu chí sau đây: - Theo lịch sử hình thành và phát triển của LN. LN được chia thành LN truyền thống và LN mới; - Theo sản phẩm chính của LN, LN được hình thành làng đồ gỗ, làng chiếu cói, làng gốm sứ, vv ; - Theo tính ổn định, LN được chia thành LN có xu hướng phát triển, LN đang mai một, v.v. 1 Từ điển Bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển Bách khoa,Hà Nội, 2002. 7 Bên cạnh các cách phân loại trên còn có thể có những cách phân loại khác tuỳ từng nhu cầu của công tác quản lý trong đó có cách phân loại LN của Phó Giáo sư - Tiến sĩ Tôn Nữ Quỳnh Trân trong đề tài “LN thủ công truyền thống tại TP.HCM”, Sở Khoa học- Công nghệ và Môi trường-Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn, năm 2000. 1.1.3. Tiêu chí LN được vận dụng trong đề tài: Trong đề tài này, tiêu chí LN, nghề truyền thống, LN truyền thống, LN mới và khái niệm ngành nghề nông thôn được thực hiện theo Quyết định 132/2000QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ và công văn số 757/BNN/CBNLS ngày 22/3/2001 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng dẫn lập Quy hoạch Phát triển ngành nghề nông thôn đến 2010. Như sau: - LN là: Làng (thôn, ấp) ở nông thôn có ngành nghề phi nông nghiệp phát triển tới mức trở thành nguồn sống chính hoặc nguồn thu nhập quan trọng của người dân trong làng. Về mặt định lượng LN là làng có từ 35-40% số hộ trở lên có tham gia hoạt động ngành nghề và có thể sinh sống bằng chính nguồn thu nhập từ ngành nghề (thu nhập từ ngành nghề chiếm trên 50% tổng thu nhập của các hộ) và giá trị sản lượng của ngành nghề chiếm trên 50% tổng giá trị sản lượng của địa phương. (Trong quá trình nghiên cứu xây dựng Quy hoạch Phát triển ngành nghề thủ công theo hướng công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (năm 2003), đã điều chỉnh tiêu chí LN là: làng đáp ứng được một trong hai tiêu chuẩn: hơn 20% số hộ trong làng tham gia sản xuất hàng thủ công hoặc chính quyền công nhận nghề thủ công có ý nghĩa quan trọng với làng đó). - Nghề truyền thống bao gồm những nghề thủ công nghiệp có từ trước thời thuộc Pháp còn tồn tại đến ngày nay (từ khi hình thành đến nay khoảng 100 năm 8 trở lên), kể cả những nghề đã được cải tiến hoặc sử dụng những máy móc hiện đại để hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ những công nghệ truyền thống. - LN truyền thống đạt các tiêu chí LN, đã hình thành từ lâu đời (khoảng100 năm trở lên), sản phẩm có tính cách riêng biệt, được nhiều nơi biết đến. Đối với những làng đã từng có 50 hộ hoặc có từ 1/3 tổng số hộ hay lao động cùng làm một nghề truyền thống cũng được gọi là “LN truyền thống”. - LN mới hình thành do phát triển từ các LN truyền thống hoặc tiếp thu những nghề mới và đạt tiêu chí của LN. - LN phi nông nghiệp là các ngành nghề nông thôn được quy định tại quyết định 132/2000/QĐ-TTG, ngày 24/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ Về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn gồm: a. Sản xuất tiểu, thủ công nghiệp ở nông thôn; b. Chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản; c. Sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ, mây tre đan, gốm sư, thuỷ tinh, dệt may, cơ khí nhỏ ở nông thôn; d. Xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn; e. Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; f. Xây dựng, vận tải trong nội bộ xã, liên xã và các dịch vụ khác phục vụ sản xuất và đời sống dân cư nông thôn. 1.1.4. Tiêu chí chủ yếu làm cơ sở cho việc đánh giá LN Hiện nay có nhiều cách thức tiếp cận để đánh giá LN, Đối với các tiêu chí định lượng, hiện nay còn có những quan niệm khác nhau. Nhiều nhà nghiên cứu, tổ chức chỉ đạo về kinh tế đưa ra những mức độ khác nhau của các tiêu chí định lượng về LN. Song trong đề tài này, chúng tôi sử dụng các tiêu chí cơ bản sau đây: * Những tiêu chí có thể định lượng: 9 • Tỷ lệ số hộ tham gia làm ngành nghề so với số hộ của làng đó; • Tỷ lệ số lao động tham gia ngành nghề đó (trong tổng số lao động); • Tỷ lệ thu nhập của ngành nghề đó so với tổng thu nhập của dân cư trong LN; • Nhà xưởng, thiết bị và ứng dụng tiến bộ KHKT trong LN; • Trình độ tay nghề của nghệ nhân và người lao động LN; • Nguồn gốc vốn của LN; • Nguyên liệu đảm bảo cho sự phát triển LN; • Sản phẩm LN tạo ra; • Thị trường tiêu thụ Sản phẩm LN; • Khả năng cạnh tranh của Sản phẩm LN; • Bảo vệ môi trường của LN; • Hiệu quả SXKD của LN; • Đóng góp về kinh tế, văn hoá, xã hội của LN; • Khả năng liên kết với các DN của các LN; * Những tiêu chí khó định lượng: • Sản phẩm làm ra có thể hiện được tính mỹ nghệ, mang đậm nét yếu tố văn hoá và bản sắc của từng địa phương hoặc là dân tộc; • Sản xuất theo những quy trình tương đối ổn định và được lưu truyền từ đời này sang đời khác; Tiêu chí định lượng thì nên xem xét là LN khi số lao động tham gia hoạt động ngành nghề chiếm 50% lao động của làng trở lên; thu nhập từ hoạt động ngành nghề cũng chiếm trên 50% trở lên so với tổng thu nhập của làng. Ở nhiều địa phương hiện nay, ở nhiều LN, giá trị thu nhập phi NN đã chiếm 60 – 70% tổng thu nhập của làng. 10 1.2. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN LN Ở MỘT SỐ NƯỚC CÓ THỂ VẬN DỤNG Ở TP.HCM 1.2.1. Nhật Bản 1.2.1.1. Ban hành Luật phát triển nghề thủ công truyền thống làm cơ sở cho phát triển LN. - Bối cảnh ra đời của luật phát triển nghề thủ công truyền thống Sau những năm 1950, kinh tế Nhật Bản đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao độ hiếm thấy trên thế giới, mức sống của nhân dân cũng được nâng cao trên phạm vị rộng lớn. Sản xuất thủ công chuyển sang sản xuất bằng máy diễn ra nhanh chóng, tiêu thụ thì được tiêu chuẩn hoá, cách sống thì được Âu hoá, gia đình thì được hạt nhân hoá… nên ý thức cuộc sống cũng thay đổi rất lớn, việc kế thừa những tập quán và trí tuệ vốn có của Nhật Bản bị mất dần đi. Trong khi đó, hàng thủ công truyền thống có qui mô sản xuất nhỏ và vừa là chủ yếu, khó cải thiện môi trường và khó nắm bắt thông tin của người tiêu thụ… nên khó cạnh tranh được về giá cả, tính năng sử dụng và mất dần nhu cầu. Lực lượng lao động lại bị cuốn hút ra thành phố nên những tinh hoa của nghề cũng dần bị mai một. Ngành nghề truyền thống quí báu một khi đã mất đi thì không dễ dàng khôi phục lại được, tình hình đó đòi hỏi cấp bách phải có đối sách của Nhà nước. Năm 1974, theo đề án chung của 5 Đảng, “Luật phát triển nghề thủ công truyền thống” (gọi tắt là “luật nghề truyền thống”) đã được ban hành. Đây là bộ luật đặc biệt nhằm khôi phục và phát triển nghề thủ công truyền thống vốn bị hổng trong chính sách từ trước đó. Nội dung của luật nhằm phát triển các cơ sở qui mô vừa và nhỏ về ngành nghề thủ công truyền thống trên các khía cạnh như phát triển mẫu mã của hàng thủ công, phát triển kỹ năng của thợ thủ công... Tuy nhiên, bộ luật đặc biệt tập trung vào các sản phẩm làm bằng tay của ngành nghề thủ công truyền thống để bảo tồn và nuôi dưỡng chính sách phát triển chúng. Trải qua gần 30 năm thực hiện, bộ luật này đã được 11 sửa đổi 2 lần và phối hợp với các luật khác như luật Bảo tồn các giá trị văn hoá (ra đời năm 1925), luật Khuyến khích phát triển năng lực lao động (ra đời năm 1969)… đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra lối sống và văn hoá Nhật bản. - Cơ chế hoạt động của luật phát triển nghề thủ công truyền thống + Nguyên tắc xác định sản phẩm thủ công truyền thống: sản phẩm phải có lịch sử tồn tại trên dưới 100 năm; Quá trình sản xuất phải được thực hiện bằng tay với những đặc điểm đặc trưng khu vực trong nguyên, vật liệu hoặc kỹ thuật chế tác. Chính phủ sau khi nhận đơn, tổ chức một ban tư vấn nhằm điều tra đối với mặt hàng được yêu cầu. Dựa trên kết quả thẩm tra, Bộ Công thương (Bộ chủ trì hỗ trợ cho nghề thủ công truyền thống theo luật) chính thức công nhận đó là sản phẩm thủ công truyền thống và đề ra các biện pháp hỗ trợ. + Sự bảo lãnh của chính quyền địa phương: các sản phẩm thủ công truyền thống mang đậm nét đặc trưng của địa phương, do đó chính quyền địa phương (thống đốc hay thị trưởng) cần bảo lãnh cho sản phẩm đó ở giai đoạn xét duyệt. Cơ chế này được tạo nên để có thể phối hợp tốt giữa sự hỗ trợ của chính quyền Trung ương và địa phương. Nhìn chung, kinh phí tài trợ cho các sản phẩm được công nhận sẽ do chính phủ cấp một nửa, phần còn lại do địa phương đảm nhiệm. 1.2.1.2. Các chính sách cụ thể của chính phủ dựa trên luật phát triển nghề thủ công truyền thống Tổng mức bao cấp để phát triển nghề thủ công truyền thống của Nhật Bản vào khoảng một tỷ yên, trong đó mức hỗ trợ trực tiếp vào khu vực sản xuất là khoảng 200 triệu yên và hỗ trợ phát triển cho cơ sở nghề thủ công truyền thống là 800 triệu yên, tập trung ở các hoạt động sau: - Đào tạo lực lượng kế tục: sau gần 30 năm vận hành luật, có thể thấy hầu như mỗi khu vực sản xuất đều đã có một dự án đào tạo thợ thủ công kế tục. Do kỹ thuật thủ công truyền thống được truyền từ người nọ sang người kia, nên việc kế 12 tục công nghệ đúng đắn là vô cùng quan trọng. Kỹ thuật viên giỏi của khu vực sản xuất trở thành người hướng dẫn tiếp tục cho các thế hệ trẻ hơn. Lương trả cho hướng dẫn viên và chi phí nguyên vật liệu lấy từ nguồn bao cấp. - Xúc tiến thương mại: chính sách này rất có hiệu quả đối với lớp người kế cận, khi nhu cầu vẫn ở mức thấp, các cuộc triển lãm trưng bày và bán sản phẩm được tổ chức ở địa phương hoặc ở những khu vực tiêu thụ lớn. Do các cửa hàng bán buôn đang mất dần vai trò của mình, bước ngoặt của quá trình tiêu thụ sản phẩm chính là ở nơi sản xuất và là việc tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng. Chính quyền các địa phương đã dành khoảng 2 tỷ yên bên cạnh khoản bao cấp từ chính phủ cho công tác này. - Xây dựng nhà triển lãm nghề thủ công quốc gia: nhà triển lãm này được xây dựng để lưu giữ tài liệu về các địa phương có nghề thủ công và để thực hiện các dự án đào tạo. Trên cả nước Nhật Bản đã có khoảng 30 toà nhà như vậy. Gần đây có một dự án kết hợp với ngành du lịch và đã mang lại kết quả rất khả quan, với việc lấy quản lý theo kiểu cổ truyền làm trọng tâm cho khu vực. Ngoài ra việc tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên ngành được tổ chức tại đây để trao đổi thông tin và để quản lý cơ sở đã tỏ ra rất có hiệu quả. - Nghiên cứu nguyên, vật liệu thô: nghiên cứu về nguyên, vật liệu thay thế cho những nguyên, vật liệu đang ngày một cạn kiệt đang được tiến hành khẩn trương nhằm đảm bảo cho các nghề thủ công truyền thống phát triển ngày một vững chắc hơn. - Sử dụng lao động địa phương: một trong những dự án trọng tâm của lần sửa đổi Luật phát triển nghề thủ công lần thứ 2 là hệ thống sản xuất và bán sản phẩm thủ công phải được xây dựng đồng bộ. Cần tập trung hơn nữa vào phát triển sản phẩm mới sử dụng kỹ thuật công nghệ truyền thống, kết hợp các ý tưởng từ nhiều ngành nghề khác nhau và cải thiện sự chậm trễ trong việc phát triển nguồn 13 nhân lực cũng như cải thiện sự chậm trễ trong việc trong hệ thống phân phối sản phẩm của các nhà sản xuất, quản lý. - Thành lập Hiệp hội nghề thủ công truyền thống: dựa trên luật Phát triển nghề thủ công truyền thống, Hiệp hội nghề thủ công truyền thống đã được thành lập từ năm 1975, trên cơ sở các hợp tác xã nhằm khuyến khích phát triển nghề thủ công truyền thống. Hiệp hội đã có nhiều dự án về các lĩnh vực khác nhau và đã có được sự hỗ trợ từ phía chính quyền địa phương. - Tổ chức các cuộc thi sản phẩm thủ công: các cuộc thi này được tổ chức công khai cho cả các sản phẩm thủ công đã được xác nhận và chưa được xác nhận. Giải thưởng của Thủ tướng và của Bộ trưởng Bộ Công thương được trao cho những cải tiến về kỹ thuật và phát triển sản phẩm dựa trên công nghệ truyền thống. - Giáo dục thế hệ trẻ: các thợ thủ công sản xuất hàng thủ công truyền thống được mời đến các trường tiểu học, trường trung học cơ sở để thuyết trình về kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất để học sinh từ nhỏ đã có thể làm quen được với các phương pháp, công nghệ, vật liệu,…, nhằm đào tạo thợ thủ công trong tương lai và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. - Thành lập Trung tâm nghề thủ công quốc gia: Trung tâm nghề thủ công quốc gia được thành lập năm 1979 tại Tokyo, sau chuyển đến Ikebukuro năm 2001, với chức năng cung cấp thông tin về nghề thủ công truyền thống. Trung tâm cũng là nơi triển lãm, cung cấp tài liệu, sách báo, phim.. để trao đổi thông tin giữa người sản xuất và người sử dụng. 1.2.1.3. Phong trào “Mỗi làng một sản phẩm” Phong trào “mỗi làng một sản phẩm” (One Village, One Product) ở Nhật Bản nhằm mục đích đẩy mạnh việc phát triển các sản phẩm đặc trưng của mỗi vùng trong khu vực. Phong trào này được khai sinh tại quận Oita vào năm 1979 với ý tưởng mang lại sức sống cho mỗi vùng bằng cách phát huy sức mạnh nguồn nhân lực tại chỗ để làm sống lại các ngành nghề thủ công truyền thống của nó. Hai khẩu 14 hiệu nổi tiếng là: “Nghĩ về tổng thể, hành động ở địa phương” và “Độc lập và sáng tạo”. Phong trào cũng đề ra 3 nguyên tắc chủ đạo trong hoạt động đó là: - Hoạt động của mỗi địa phương đều hướng đến mục tiêu phát triển chung của cả nước: đó là phát triển các sản phẩm phù hợp với thị hiếu và tiêu chuẩn của thị trường trong và ngoài nước. Để đạt được những thành tựu trên phương diện quốc gia và quốc tế trong lĩnh vực này, điều quan trọng bậc nhất là chất lượng và mẫu mã các sản phẩm thủ công cần được nâng lên cho phù hợp thị hiếu và tiêu chuẩn thị trường trong và ngoài nước. ở phương diện này, khoa học và công nghệ (hiểu theo nghĩa rộng) sẽ đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Cùng với nỗ lực không mệt mỏi của cộng đồng cư dân các làng, xã, việc nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp thị hiếu và tiêu chuẩn của thị trường sẽ làm cho thị trường tiêu thụ sản phẩm ngày càng được giữ vững và mở rộng khiến cho kinh tế của mỗi xã, mỗi làng vì thế mà cũng ngày càng mạnh lên. - Xây dựng những dự án khả thi dựa vào chính nguồn lực của mỗi địa phương: vấn đề cơ bản trong việc phát huy tiềm năng sáng tạo của cộng đồng làng, xã trong phát triển ngành nghề nông thôn nằm ở chỗ chính quyền các cấp biết cách hỗ trợ và nâng cao tính sáng tạo của người dân trong các cộng đồng đó thể hiện qua việc khuyến khích, động viên họ xây dựng và thực hiện những dự án nhỏ và vừa, dựa vào sức mình là chính. Nội dung của những dự án này tập trung vào việc tìm ra những giải pháp thiết thực và hiệu quả trong phát hiện nghề, cấy nghề, truyền nghề, nâng cao chất lượng sản phẩm và xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tránh tình trạng các địa phương ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước làm cho hiệu quả của phong trào không cao. - Tập trung phát triển nguồn lực con người: con người là yếu tố quyết định đến sự thành công của phong trào. Chính vì vậy tạo điều kiện để cung cấp các kỹ năng sản xuất, kỹ năng quản lý sản xuất các nghề phi nông nghiệp thông qua các 15 chương trình đào tạo phải là một trong những nguyên tắc ưu tiên của phong trào này. Phong trào này đã đưa một số sản phẩm truyền thống của quận Oita trở thành những sản phẩm nổi tiếng không chỉ trên thị trường Nhật bản mà còn cả trên thị trường các nước khác. Cho đến nay phong trào đã tạo nên bầu không khí độc lập và sáng tạo ở nhiều địa phương. Số lượng sản phẩm thủ công được làm và bán ra tăng từ 143 loại sản phẩm và thu nhập 35,9 tỷ yên khi phong trào mới bắt đầu lên 336 loại sản phẩm và cho thu nhập 141 tỷ yên vào năm 2001. Nhiều nghề truyền thống tưởng như đã bị mai một được khôi phục lại, có khoảng 200 nghề mới được tạo dựng. Từ thành công của quận Oita, sau 5 năm phát động đã có 20 quận trong nước Nhật Bản hưởng ứng với các dự án tương tự như dự án phát triển “sản phẩm của làng”, “chương trình phát triển thành phố quê hương”, “chương trình làm sống lại địa phương”.... Không những thế, tinh thần của phong trào này còn hấp dẫn nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Để ghi nhận đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế một cách tự tin của các nước châu á, ông Morihiko Hiramatsu - thị trưởng Oita, người khởi xướng phong trào “mỗi làng một sản phẩm” ở Nhật Bản đã được trao giải thưởng Ramon Magsaysay (một giải thưởng có uy tín tương tự như giải Nobel) vào năm 1995. 1.2.2. Thái Lan Ở Thái Lan, đầu những năm 1990, lao động nông nghiệp vẫn chiếm 82,7% lao động ở nông thôn. Hàng năm, lao động nông nhàn và thất nghiệp đều cao cùng với tu nhập và mức sống chênh lệch khá xa giữa nông thôn và thành thị nên hàng vạn dân cư nông thôn - nhất là thanh niên chuyển dịch vào thành thị kiếm sống bằng đủ mọi ngành nghề. Trước thực trạng đó, Chính phủ đã có những giải pháp tạo việc làm tại chỗ ở nông thôn. Riêng về ngành nghề truyền thống, các LN được 16 khuyến khích phát triển. Một số ngành như kim hoàn, chế tác đá quí làm đồ trang sức đã tạo việc làm cho hàng vạn người. Năm 1990, mức xuất khẩu các sản phẩm thủ công chế tác từ vàng bạc, đá quí đạt 2 tỷ USD, tạo việc làm cho hàng vạn lao động. Sau khi Thủ tướng Thái Lan đi thăm cửa hàng “mỗi làng một sản phẩm (One Village, One Product)” tại Nhật Bản về, Chính phủ Thái đã phát động phong trào này tại Thái Lan với tên gọi “One Tambon, One Product” hay còn gọi là “Thai Tambon Project” (tiếng Thái “Tambon” nghĩa là “làng”). Có thể nói Thái Lan là một trong những nước học tập và thực hiện phong trào “mỗi làng một sản phẩm” của Nhật Bản nhanh nhất. Chương trình này được giới thiệu tại Thái Lan vào năm 1999 và chính thức đi vào hoạt động vào tháng 10 năm 2001. Trong chương trình này, Chính phủ Thái Lan hỗ trợ cho mỗi làng để làm ra một sản phẩm tiêu biểu, đặc trưng và có chất lượng cao. Sự hỗ trợ này chủ yếu này tập trung chủ yếu vào khâu tiếp thị, xúc tiến bán hàng, huấn luyện và chuyển giao công nghệ cho nông dân. Số tiền hỗ trợ vào khoảng một triệu Baht mỗi làng và thường được nhắc đến với tên gọi “Chương trình mỗi làng một triệu Baht” nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào “mỗi làng một sản phẩm” đã được đề ra. Trong tháng 6 năm 2002, một cuộc triển lãm bước đầu các sản phẩm của phong trào (chủ yếu là tô đồng, khăn trải bàn, vải tơ tằm dệt tay, tượng gỗ, rổ mây) đã được tổ chức tại tỉnh Nonthaburi và Chính phủ Thái Lan cho biết chỉ trong 4 tháng đầu năm 2002 chương trình này đã đem lại 3,66 tỷ Baht (84,2 triệu USD) lợi nhuận cho nông dân. Để khai thác kỹ năng của các LN truyền thống ở miền bắc Thái Lan, tạo ra thêm thu nhập, giải quyết lao động địa phương, từ năm 2001, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện dự án OTOP (One Tambon One Product: mỗi LN một sản phẩm). Đây là chương trình chiến lược từ sáng kiến của Cục xúc tiến xuất khẩu (DEP) thuộc Bộ Thương mại Thái Lan. Mỗi LN một sản phẩm không có nghĩa là mỗi làng chỉ có một sản phẩm mà mỗi làng có kỹ năng, văn hóa, truyền thống... riêng kết tinh trong 17 sản phẩm trở thành đặc trưng riêng của LN trong sản phẩm. Chính phủ hỗ trợ kết nối địa phương với toàn cầu, thông qua việc hỗ trợ tiêu chuẩn hóa sản phẩm, hoàn tất đóng gói, tiếp thị, tổ chức kênh phân phối ở hải ngoại. Thư ký thường trực Bộ Thương mại Thái Lan, Karun Kittisataporn nói: "Doanh số các sản phẩm OTOP năm 2003 đạt 30,8 tỉ baht, tăng 13% so năm trước và dự kiến đạt 40 tỉ baht trong năm nay". Bộ Thương mại Thái Lan sẽ tổ chức hội chợ ở cả trong nước và quốc tế để tiếp thị. Lần hội chợ đầu tiên ở Thái Lan tháng 9/2004 đã có 16 quốc gia tham gia. Thủ tướng Thái Lan Thaksin Shinawatra tới dự, phát biểu bằng tiếng Anh không cầm giấy và rất thuộc bài, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Chính phủ nhằm "kết nối các địa phương Thái Lan với toàn cầu". Năm tới, hội chợ sẽ tổ chức ở Trung Quốc. Từ sự phát triển của các LN Thái Lan ta thấy, nếu không có sự tham gia hỗ trợ của Chính phủ, thì tiềm năng của các LN Thái Lan sẽ mai một. Có sự tham gia của Chính phủ, thì những tiềm năng đó biến thành tiền đếm được. Các LN được tổ chức tốt và được đưa vào các chương trình tour du lịch của Thái Lan bằng nhiều hình thức, điển hình như tờ bướm giới thiệu chương trình OTOP du lịch. Chương trình "Mỗi làng một sản phẩm" của chính phủ Thái Lan đã mang lại nhiều kết quả đang khích lệ và dự kiến sản phẩm của các làng này sẽ tham gia xuất khẩu từ năm 2004. Năm 2001, doanh thu từ việc bán sản phẩm của các làng này chỉ đạt 200 triệu baht, nhưng trong 7 tháng đầu năm 2002 con số này đã vọt lên 11,8 tỉ baht, dự kiến cả năm 2002 đạt 15 tỉ baht. Chương trình Mỗi làng một sản phẩm đang nhắm đến thị trường đầu ra của các sản phẩm là Nhật, và những thị trường khác như Italy, Mỹ. Uỷ ban điều hành chương trình này đang hợp tác với tổ chức xúc tiến ngoại thương Nhật Bản (JETRO) để giới thiệu các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Thái Lan. 18 1.2.3. Đài Loan Là một quốc đảo có ít đất nông nghiệp. Vì thế, bên cạnh những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai. Chính phủ Đài Loan đã tích cực tác động ñể mở rộng các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn. Những tác động mở rộng các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn của Chính phủ Đài Loan được thực hiện theo hai hướng: - Khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống các LN ở nông thôn, hình thành các hộ sản xuất, các doanh nghiệp tạo ra sản phẩm một cách đồng bộ. - Hình thành các đơn vị sản xuất công nghiệp ở nông thôn như là những đơn vị làm vệ tinh cho các cơ sở công nghiệp và dịch vụ ở thành thị. Nhiều hình thức hợp đồng liên kết gia công giữa các cơ sở công nghiệp, thương mại ở thành thị đối với các hộ dân cư nông thôn hình thành. Nhờ khôi phục và phát triển các ngành nghề ở nông thôn - trong đó có các LN đã làm cho cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế nông thôn Đài Loan thay đổi nhanh chóng. Nếu như đầu nhưng năm 1950, hầu hết thu nhập của các hộ nông dân Đài Loan đã từ nông nghiệp chiếm tỷ lệ tuyệt đối thì ñến cuối những năm 1990 trong nông thôn Đài Loan số hộ thuần nông chỉ còn 9% và số hộ nông dân chuyên công nghiệp, dịch vụ hoặc nông nghiệp kiêm công nghiệp, dịch vụ chiếm 91% tổng số hộ ở nông thôn(1). 1.2.4. Ấn Độ Là quốc gia quốc gia nổi tiếng về các ngành nghề truyền thống như Kim hoàn, đồ mỹ nghệ các sản phẩm làm từ ngà voi. Ngoài ra, trong nông thônN, ngành cơ khí nhỏ ñể sản xuất ra các dụng cụ cho sản xuất nông nghiệp và tiêu dùng của dân cư cũng được khuyến khích và phát triển. Ngoài nghề nông hàng 19 triệu người dân đã có thu nhập cao từ tiểu thủ công nghiệp. Có năm thu nhập của các ngành tiểu thủ công nghiệp nông thôn đạt trên 1.000.000.000 tỷ PuPi. Trong nông thôn và một số thị trấn nhỏ đã có 75 vạn thợ thủ công chế tác kim cương tạo ra kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt gần 3 tỷ USD . Ẩn ðộ đã hình thành Viện nghiên cứu chuyên ngành về thủ công mỹ nghệ và phát triển các ngành cổ truyền. Trong những năm vừa qua, ngoài hoạt động nghiên cứu, Viện còn tổ chức 165 cuộc triển lãm hàng thủ công mỹ nghệ trong và ngoài nước ñể giới thiệu những mặt hàng đặc sắcN, xúc tiến xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. 1.2.5. Indonexia Mỗi vùng của Indonexia ñều có những sắc thái riêng về tài nguyên, khoáng sản, tập quán dân tộc. Các ngành nghề thủ công truyền thống gắn liền với từng vùng kinh tế sinh thái rất đa dạng. Trước hết, các ngành nghề thủ công gắn với làng nghề nhằm phục vụ cho nhu cầu tại chỗ do đặc điểm bị chia cắt giữa các hòn đảo, dần dần các hoạt động làng nghề được mở rộng, nâng cấp phục vụ cho xuất khẩu. Chính phủ Indonexia đã ñề ra chương trình phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp thông qua các chương trình phát triển kinh tế xã hội 5 năm. + Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất: Chính phủ khuyến khích việc xây dựng các cơ sở sản xuất và các Trung tâm bán sản phẩm làng nghề nông thôn. + Kế hoạch 5 năm lần thứ 2: thông qua các dự án hướng dẫn phát triển công nghiệp nhỏ gắn liền với truyền bá kiến thức về ngành nghề cho dân cư. + Kế hoạch 5 năm lần thứ 3: Chính phủ đứng ra tổ chức một số cơ quan ñể quản lý, chỉ đạo hoạt động cung ứng về vật tư thiết kế, xúc tiến thương mại và tiêu thụ sản phẩm. ở cấp toàn quốc hình thành "Hội đồng thủ công nghiệp quốc gia" nhằm liên kết các cơ sở tiểu thủ công nghiệp và làng nghề nông thôn. Các hội chuyên ngành và địa phương thuộc hội đồng trên đóng vai trò rất tích cực 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan