ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------
LÂM NGỌC DŨNG
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN TRƢỞNG PHÕNG,
PHÓ TRƢỞNG PHÕNG ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
VÀ TƢƠNG ĐƢƠNG THUỘC TỈNH HÀ TĨNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học
Hà Nội – 2013
i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------
LÂM NGỌC DŨNG
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN TRƢỞNG PHÕNG,
PHÓ TRƢỞNG PHÕNG ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
VÀ TƢƠNG ĐƢƠNG THUỘC TỈNH HÀ TĨNH
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hà Quang Ngọc
Hà Nội – 2013
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu của
luận văn không trùng với các công trình khác.
Tác giả luận văn
Lâm Ngọc Dũng
iii
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG ................................................................................................... vii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ ............................................................................................. viii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .............................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu đề tài ........................................................................................3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..............................................................................4
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................4
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................................................ 5
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
TRƢỞNG PHÕNG, PHÓ TRƢỞNG PHÕNG THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP
HUYỆN VÀ TƢƠNG ĐƢƠNG ....................................................................................6
1.1. Một số khái niệm cơ bản .........................................................................................6
1.1.1 Khái niệm cán bộ, công chức, công chức quản lý ........................................................... 6
1.1.2. Vị trí, vai trò của trưởng phòng, phó trưởng phòng và tính tất yếu phải nghiên cứu
xây dựng hệ thống tiêu chuẩn của đội ngũ này ....................................................................... 15
1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà nƣớc về cán bộ và tiêu
chuẩn cán bộ.................................................................................................................25
1.2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí về cán bộ và tiêu chuẩn cán bộ .............................. 25
1.2.2 Quan điểm của Đảng về cán bộ và tiêu chuẩn cán bộ .................................................. 30
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN
TRƢỞNG PHÕNG, PHÓ TRƢỞNG PHÕNG ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP
HUYỆN VÀ TƢƠNG ĐƢƠNG TỈNH HÀ TĨNH ...................................................... 33
2.1. Đặc điểm tình hình tổ chức bộ máy hành chính tỉnh Hà Tĩnh ..............................33
2.2. Thực trạng về đội ngũ trƣởng phòng, phó trƣởng phòng Ủy ban nhân dân cấp
huyện và tƣơng đƣơng thuộc tỉnh Hà Tĩnh ..................................................................36
2.3. Thực trạng ban hành, áp dụng các tiêu chuẩn đối với Trƣởng phòng, Phó Trƣởng
phòng của Hà Tĩnh .......................................................................................................39
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế ..........................................................................55
2.4.1. Nguyên nhân chủ quan .................................................................................................... 55
2.4.2. Nguyên nhân khách quan ................................................................................................ 57
iv
Chƣơng 3. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN
ĐỐI VỚI TRƢỞNG PHÕNG, PHÓ TRƢỞNG PHÕNG CẤP HUYỆN VÀ CÁC
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ........................................................................................... 60
3.1. Mục tiêu, quan điểm nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn đối với Trƣởng phòng, Phó
trƣởng phòng UBND cấp huyện và tƣơng đƣơng ........................................................60
3.1.1. Mục tiêu ............................................................................................................................ 60
3.1.2. Quan điểm ......................................................................................................................... 61
3.2.2. Tiêu chuẩn cụ thể đối với trưởng phòng ............................................................67
3.2.3. Tiêu chuẩn cụ thể đối với Phó trưởng phòng ....................................................68
3.3. Những giải pháp chủ yếu để thực hiện hệ thống các tiêu chuẩn cán bộ Trƣởng
phòng, Phó trƣởng phòng UBND cấp huyện và tƣơng đƣơng ở Hà Tĩnh ...................70
KẾT LUẬN................................................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................74
v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Ý nghĩa
Nhà xuất bản
Xã hội chủ nghĩa
Bộ Chính trị
Tổng sản phẩm quốc nội
Hỗ trợ phát triển nƣớc ngoài
Ủy ban nhân dân
Tổ chức trung ƣơng
Nghị quyết
Quyết định
NXB
XHCN
BCT
GDP
ODA
UBND
TCTW
NQ
QĐ
vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Cơ cấu GDP và cơ cấu lao động năm 2012 ...................................... 35
Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đạt đƣợc trong các năm 2010-2012.35
Bảng 2.3: Số lƣợng, cơ cấu và độ tuổi đội ngũ trƣởng, phó phòng và tƣơng
đƣơng đến hết năm 2012 .................................................................................... 37
Bảng 2.4: Thực trạng độ tuổi đƣợc bổ nhiệm .................................................... 46
Bảng 2.5: Tiêu chuẩn về thâm niên của trƣởng phòng, phó trƣởng phòng ....... 47
Bảng 2.6: Đội ngũ trƣởng phòng, phó trƣởng phòng đƣợc bổ nhiệm đúng đối
tƣợng .................................................................................................................. 52
vii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1:........................ ................................................................................ 38
Biểu đồ 2.2: Độ tuổi trƣởng phòng, phó trƣởng phòng ..................................... 47
Biểu đồ 2.3: Thâm niên của đội ngũ trƣởng phòng, phó trƣởng phòng ............ 48
Biểu đồ 2.4: Trình độ chuyên môn đội ngũ trƣởng phòng, phó trƣởng phòng . 50
Biểu đồ 2.5: Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ trƣởng phòng, phó trƣởng
phòng.................................................................................................................. 50
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu bổ nhiệm ........................................................................... 53
viii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời Hồ Chí Minh đã dạy: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc;
công việc có thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém; Cán bộ, công
chức là một yếu tố quan trọng của nền hành chính quốc gia, có vai trò quyết
định đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nƣớc, hoạt động của cán
bộ, công chức là hình thức thể hiện của nền hành chính chính tác động đến lên
các quan hệ xã hội nhằm tổ chức thực hiện đƣờng lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nƣớc; là sự thể hiện cụ thể ý chí, sức mạnh quyền lực của
nhà nƣớc đối với xã hội và cùng với hoạt động của các thiết chế khác trong bộ
máy nhà nƣớc, trong hệ thống chính trị thực hiện đƣợc những mục tiêu của
Đảng ta đặt ra đối với Nhà nƣớc và xã hội.
Thực hiện đƣờng lối đổi mới, trong những năm qua Đảng và nhà nƣớc đã
ban hành nhiều chính sách nhằm từng bƣớc nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán
bộ, công chức, nhiều nội dung trong công tác quản lý cán bộ, công chức đã
đƣợc đổi mới phù hợp với yêu cầu của thời kỳ phát triển và hội nhập quốc tế, từ
công tác tuyển dụng, sử dụng, bố trí, quy hoạch, đào tạo, bồi dƣỡng, bổ nhiệm,
bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, từ chức….
Tuy Trung ƣơng đã có nhiều văn bản quy định về điều kiện, tiêu chuẩn
để bổ nhiệm Trƣởng phòng, Phó Trƣởng phòng các phòng, ban chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, sở, ban, ngành cấp tỉnh và Nghị định số
13/2008/NĐ-CP và Nghị định số 14/2008/NĐ-CP quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải quy định tiêu chuẩn chức danh
Trƣởng phòng, Phó Trƣởng phòng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân
dân cấp huyện, sở, ban, ngành nhƣng cho đến nay, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà
Tĩnh chƣa ban hành Quy định về tiêu chuẩn, điều kiển bổ nhiệm Trƣởng phòng,
Phó Trƣởng phòng; do đó công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ có lúc, có nơi chƣa
đi vào quy cũ.
1
Nhận thức rõ ý nghĩa và sự cần thiết phải xây dựng một đội ngũ công
chức giữ chức vụ lãnh đạo quản lý cấp phòng trong các cơ quan hành chính nhà
nƣớc ở địa phƣơng đáp ứng yêu cầu thực hiện tốt nhiệm vụ, bản thân tôi đƣợc
tổ chức phân công đảm nhiệm chức vụ Phó Trƣởng phòng Quản lý Công chức,
viên chức, Sở Nội vụ. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài "Nghiên cứu xây dựng tiêu
chuẩn Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng Ủy ban nhân dân cấp huyện và
tương đương thuộc tỉnh Hà Tĩnh" làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên
ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công chức nói chung và tiêu chuẩn công chức giữ chức vụ lãnh đạo từ
cấp phòng trở lên nói riêng là vấn đề đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu, nhiều nhà quản lý. Từ khi đất nƣớc ta thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trƣờng có sự quản lý của nhà
nƣớc theo định hƣớng XHCN, thực hiện cải cách nền hành chính nhà nƣớc
thì quản lý đội ngũ công chức là đề tài đƣợc đề cập đến nhiều trong các hoạt
động nghiên cứu khoa học và quản lý thực tiễn.
Bùi Đình Phong (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ, Nxb. Lao động, Hà Nội,. Nghiên cứu đã đề cập đến lý luận về cán bộ
và công chức, cụ thể là tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ trên
các phạm vi và quan điểm khác nhau.
Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nghiên cứu đã đƣa ra
đƣợc sự cần thiết khách quan của việc nâng cao chất lƣợng của đội ngũ cán bộ,
trong đó có cả đội ngũ cán bộ công chức và công chức giữ chức vụ lãnh đạo.
Nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ là một trong những điều kiện tiên quyết
cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nƣớc đến năm 2020.
Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, Viện Khoa học tổ chức Nhà nƣớc, Đạo
đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo tƣ tƣởng Hồ Chí
2
Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng cán
bộ, công chức không chỉ có đáp ứng các tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn,
trình độ chính trị, học vấn. Mà chính sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam
cũng với nền kinh tế thế giới đã thể hiện đội ngũ cán bộ công chức cần đƣợc
hoàn thiện về đạo đức, phong cách, lề lối làm việc.
Trần Diệu Anh, Khái niệm cán bộ, công chức và viên chức theo các văn
bản pháp luật, tạp chí Tổ chức Nhà nƣớc tháng 8 năm 2011. Nghiên cứu đã đƣa
ra những khái niệm về cán bộ công chức theo các văn bản pháp luật trên nhiều
phƣơng diện khác nhau và từng thời kỳ khác nhau.
Nguyễn Hồng Khải, Một số vấn đề về phát triển năng lực của cán bộ,
công chức, tạp chí Tổ chức nhà nƣớc tháng 9 năm 2011. Năng lực của cán bộ
công chức luôn gắn với mục đích tổng thể, với chiến lƣợc phát triển của tổ chức
và phải gắn với lĩnh vực, điều kiện cụ thể. Năng lực liên quan chặt chẽ đến quá
trình làm việc, phƣơng pháp làm việc hiệu quả và khoa học công nghệ. Năng lực
đƣợc thể hiện qua năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức và phẩm chất đạo đức.
Tuy đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến cán bộ công chức và
tiêu chuẩn cán bộ nói riêng nhƣ đã nêu ở trên, nhƣng những nghiên cứu này chỉ
mới đề cập tới cán bộ công chức ở các góc độ tiếp cận khác nhau. Theo sự tìm tòi,
nghiên cứu của bản thân thì đến thời điểm hiện nay chƣa thấy có nghiên cứu một
cách hệ thống, toàn diện và sâu sắc về nội dung tiêu chuẩn cán bộ trƣởng phòng,
phó trƣởng phòng trong các cơ quan chuyên cấp huyện, các sở, ngành thuộc tỉnh.
Vì vậy việc thực hiện đề tài này sẽ không trùng lắp, đảm bảo tính độc lập và có ý
nghĩa thực tiễn đối với việc nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chuẩn cán bộ nói
riêng và đội ngũ trƣởng phòng, phó trƣởng phòng nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu tiêu chuẩn chức danh trƣởng phòng,
phó trƣởng phòng UBND cấp huyện và tƣơng đƣơng, so sánh với thực trạng
đội ngũ Trƣởng phòng, Phó Trƣởng phòng Ủy ban nhân dân cấp huyện và
3
tƣơng đƣơng ở tỉnh Hà Tĩnh để đề xuất nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn trƣởng
phòng, phó trƣởng phòng phù hợp với thực tiễn và yêu cầu bổ nhiệm, đào tạo
nânng cao năng lực của đội ngũ trƣởng phòng, phó trƣởng phòng trong thời
gian tới tại Hà tĩnh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Chỉ rõ vai trò của cán bộ, công chức nói chung, đội ngũ cán bộ, công
chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng nói riêng trong các cơ quan hành
chính nhà nƣớc ở địa phƣơng;
- Phân tích, đánh giá hệ thống tiêu chuẩn và thực trạng đội ngũ Trƣởng
phòng, Phó Trƣởng phòng Ủy ban nhân dân cấp huyện và tƣơng đƣơng trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh;
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chuẩn Trƣởng phòng, Phó Trƣởng
phòng Ủy ban nhân dân cấp huyện và tƣơng đƣơng đáp ứng nhiệm vụ và yêu
cầu của địa phƣơng trong tình hình mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống tiêu chuẩn hiện có và thực trạng
đội ngũ Trƣởng phòng, Phó Trƣởng phòng Ủy ban nhân dân cấp huyện và
tƣơng đƣơng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh để nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn đội
ngũ này.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu hệ thống tiêu chuẩn trƣởng phòng, phó trƣởng phòng cấp
huyện và tƣơng đƣơng đang đƣợc áp dụng hiện hành tại Hà Tĩnh - bao gồm các
tiêu chuẩn đƣợc quy định của Trung ƣơng và của tỉnh Hà Tĩnh ban hành.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
- Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
tiêu chuẩn của ngƣời cán bộ, công chức;
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tiêu chuẩn cán bộ, công
chức, đặc biệt là cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý;
4
- Các quy định của Quốc hội, của Chính phủ, của Bộ ngành Trung ƣơng
về điều kiện, tiêu chuẩn của cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức
giữ chức vụ lãnh, đạo quản lý nói riêng.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng cùng với
những phƣơng pháp nghiên cứu khoa học cụ thể là phân tích, tổng hợp, thống kê,
điều tra xã hội học, so sánh, tổng kết thực tiễn, phƣơng pháp lô gích- lịch sử.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm vai trò của đội ngũ cán bộ, công
chức nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo quản lý cấp
phòng trong các cơ quan quản lý nhà nƣớc ở địa phƣơng. Nghiên cứu xây dựng
tiêu chuẩn để bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Trƣởng phòng, Phó Trƣởng phòng; đề
xuất một số giải pháp để thực hiện các tiêu chuẩn đó.
Kết quả nghiên cứu luận văn có thể vận dụng trong thực tiễn, giúp Sở
Nội vụ tham mƣu cho Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành quy định tiêu chuẩn chức
danh Trƣởng phòng, Phó Trƣởng phòng Ủy ban nhân dân cấp huyện và tƣơng
đƣơng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, biểu đồ, luận văn gồm 03 chƣơng, 09 tiết.
5
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
TRƢỞNG PHÕNG, PHÓ TRƢỞNG PHÕNG THUỘC
ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN VÀ TƢƠNG ĐƢƠNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm cán bộ, công chức, công chức quản lý
Khái niệm cán bộ
Thuật ngữ “cán bộ” đƣợc sử dụng khá lâu tại các nƣớc xã hội chủ nghĩa và
bao hàm một diện rất rộng các loại nhân sự thuộc khu vực nhà nƣớc và các tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội. Thuật ngữ này khi đó thƣờng dùng
ghép những khái niệm công nhân, viên chức thành “cán bộ, công nhân, viên
chức”, bao quát tất cả những ngƣời làm công hƣởng lƣơng từ nhà nƣớc, kể từ
những ngƣời đứng đầu một cơ quan tới các nhân viên phục vụ nhƣ lái xe, bảo
vệ hay lao công tạp vụ.
Do những điều kiện lịch sử nhất định, suốt một thời gian dài trong đời
sống chính trị - pháp lý ở Việt Nam tồn tại một tập hợp khái niệm “cán bộ,
công nhân, viên chức” không có sự phân biệt rạch ròi từng khái niệm cũng nhƣ
quy chế pháp lý đối với từng nhóm. Pháp lệnh cán bộ công chức năm 1998 (sửa
đổi bổ sung năm 2003) đề cập tới ba đối tƣợng cán bộ, công chức, viên chức
nhƣng không thể hiện rõ ai là cán bộ, ai là công chức, ai là viên chức mà quy
định chung các đối tƣợng “cán bộ, công chức” là công dân Việt Nam, trong
biên chế. Có thể nói, thuật ngữ cán bộ đƣợc sử dụng nhƣ là một ƣớc lệ, chƣa
thể hiện tính chất hành chính, chƣa rõ nội hàm của khái niệm. Đây cũng là một
hạn chế của Pháp lệnh cán bộ, công chức.
Cụ thể hóa Pháp lệnh cán bộ, công chức, Chính phủ đã ban hành các Nghị
định số 114/2003/NĐ-CP về cán bộ, công chức xã, phƣờng, thị trấn; Nghị định
số 115/2003/NĐ-CP về chế độ công chức dự bị; Nghị định số 116/2003/NĐ-CP
về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong đơn vị sự nghiệp của
6
Nhà nƣớc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; Nghị định số
117/2003/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các
cơ quan nhà nƣớc. Trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp lệnh và các nghị
định, chúng ta có thể hiểu cán bộ là “những ngƣời do bầu cử để đảm nhiệm chức
vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nƣớc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội ở trung ƣơng, ở cấp tỉnh và cấp huyện”.
Cùng với xu hƣớng toàn cầu hóa về kinh tế, những thành tựu của sự phát
triển kinh tế - xã hội chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cƣờng mở rộng
giao lƣu hợp tác nhiều mặt với các nƣớc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
nhân loại, đồng thời, công cuộc cải cách hành chính ngày nay đặt ra nhu cầu
chuyên biệt hóa trong sự điều chỉnh pháp luật ngày càng rõ nét, đòi hỏi phải có
sự thống nhất về nhận thức trong sự phân định các khái niệm có liên quan. Luật
cán bộ, công chức đƣợc Quốc hội ban hành tháng 11/2008, có hiệu lực từ ngày
01/01/2010 đã quy định cụ thể: Cán bộ là công dân Việt Nam, đƣợc bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ƣơng, ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên
chế và hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc [23, 3]
Nhƣ vậy, đến nay khái niệm cán bộ đã đƣợc quy định cụ thể, rõ ràng, xác
định rõ nội hàm, đó là công dân Việt Nam, đƣợc bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ, làm việc trong các cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nƣớc, tổ chức chính trị - xã hộ từ trung ƣơng đến cấp
huyện. nhƣ vậy, theo quy định hiện nay cán bộ khác với các đối tƣợng khác ở
mấy điểm cơ bản sau: Bầu cử, theo nhiệm kỳ và giữ chức vụ.
Khái niệm công chức
Công chức là thuật ngữ đƣợc sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế
giới để chỉ những ngƣời đƣợc tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc thƣờng xuyên
trong các cơ quan nhà nƣớc và hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc. Tuy nhiên,
7
do tính đặc thù của từng quốc gia nên quan niệm về công chức ở các nƣớc
không hoàn toàn thống nhất. Sự khác nhau này thể hiện trong các quan điểm
dƣới đây:
- Quan điểm thứ nhất thƣờng xuất phát ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa. Do
đồng nhất hoạt động công vụ với hoạt động quản lý của Đảng, đoàn thể dẫn đến
quan niệm về khái niệm công chức không chỉ bao gồm các đối tƣợng làm việc
trong cơ quan nhà nƣớc (cả lập pháp, hành pháp và tƣ pháp) mà cả trong các tổ
chức Đảng, đoàn thể, thậm chí trong cả các đơn vị sản xuất.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, công chức bao gồm những ngƣời làm việc
trong bộ máy nhà nƣớc nói chung, tƣơng ứng với quan niệm công vụ là hoạt
động của toàn bộ bộ máy nhà nƣớc (bao gồm hoạt động của công chức trong cơ
quan quyền lực, xét xử, kiểm sát và cơ bản nhất là trong các cơ quan quản lý
nhà nƣớc).
- Quan điểm thứ ba cho rằng, công chức bao gồm những ngƣời hoạt động
trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà nƣớc và bộ máy phục vụ của
các cơ quan nhà nƣớc khác, giữ một công vụ thƣờng xuyên, ổn định.
- Quan điểm thứ tƣ thuần túy cho rằng, công chức chỉ bao gồm những đối
tƣợng phục vụ trong bộ máy hành chính, giữ một chức vụ thƣờng xuyên và ổn
định, quan niệm này xuất phát từ chỗ coi công vụ nhà nƣớc chỉ là hoạt động của
các cơ quan hành chính.
Từ những quan niệm trên về công chức, mà ở những nƣớc khác nhau cũng
có những quy định khác nhau về đối tƣợng này.
Ở Pháp, khái niệm công chức rất rộng, ngƣời công chức đƣợc phân thành
hai loại. Loại thứ nhất là những nhân viên công chức làm việc thƣờng xuyên
trong bộ máy nhà nƣớc, bị chi phối bởi Luật công chức; loại thứ hai là những
nhân viên công chức bị chi phối bởi Luật lao động, bởi bản hợp đồng và luật tƣ.
Họ đƣợc nhà nƣớc hoặc cộng đồng lãnh thổ bổ nhiệm vào một công việc
thƣờng xuyên trong các công sở hay công sở tự quản, kể cả các bệnh viện [8, Tr
154]. Ở Trung Quốc, một nƣớc theo thể chế Cộng hòa dân chủ nhân dân, chế độ
8
một Đảng lãnh đạo, khái niệm công chức nhà nƣớc dùng để chỉ những ngƣời
công tác trong các cơ quan hành chính nhà nƣớc các cấp. Gồm hai loại: Công
chức lãnh đạo là những ngƣời thừa hành quyền lực hành chính nhà nƣớc, đƣợc
bổ nhiệm theo các trình tự luật định, chịu sự điều chỉnh của Hiến pháp, Điều lệ
công chức và Luật tổ chức chính quyền các cấp và công chức nghiệp vụ là
những ngƣời thi hành chế độ thƣờng nhiệm, do cơ quan hành chính các cấp bổ
nhiệm và quản lý căn cứ vào Điều lệ công chức, họ chiếm tuyệt đại đa số công
chức nhà nƣớc, chịu trách nhiệm quán triệt, chấp hành chính sách và pháp luật.
Ở Mỹ, công chức bao gồm tất cả những nhân viên trong ngành hành chính
của Chính phủ, kể cả những ngƣời đƣợc bổ nhiệm về Chính trị nhƣ Bộ trƣởng,
Thứ trƣởng, trợ lý Bộ trƣởng, ngƣời đứng đầu các cơ quan Chính phủ. Tuy
nhiên, khái niệm công chức trong diện điều chỉnh của Luật Công chức lại
không bao gồm những công chức đƣợc bổ nhiệm về chính trị, họ đƣợc gọi là
công chức chức nghiệp. Đặc điểm của công chức Mỹ là không mang tính
thƣờng xuyên liên tục mà tồn tại hệ thống thải loại; việc tuyển chọn, bổ nhiệm
công chức chủ yếu theo công trạng thực tế, công chức chỉ đƣợc tuyển dụng vào
một công việc cụ thể mà không có con đƣờng chức nghiệp [24, Tr 321].
Ở Cộng hòa Liên bang Đức, công chức Đức bao gồm những nhân viên làm
việc trong các cơ quan, tổ chức văn hóa, nghệ thuật giáo dục và nghiên cứu
khoa học quốc gia, nhân viên công tác trong các doanh nghiệp công Ých do nhà
nƣớc quản lý, các nhân viên, quan chức làm việc trong các cơ quan chính phủ,
giáo sƣ đại học, giáo viên trung học, tiểu học, bác sỹ, hộ lý bệnh viện, nhân
viên lái xe lửa…[24, Tr 235].
Ở Việt Nam, khái niệm công chức đƣợc hình thành gắn liền với sự phát
triển của nền hành chính nhà nƣớc. Văn bản có tính pháp lý đầu tiên quy định
về công chức là Sắc lệnh số 76/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày
20/5/1950, tại Điều 1 quy định “công chức là những công dân Việt Nam đƣợc
chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thƣờng xuyên trong các cơ
quan chính phủ, ở trong hay ngoài nƣớc, trừ trƣờng hợp riêng biệt do Chính
9
phủ quy định”. Sau đó, do nhu cầu bổ sung nhân lực trong bộ máy nhà nƣớc
ngày càng tăng, thực tiễn khi đó không có đủ nguồn nhân lực phù hợp với
những tiêu chuẩn quy định đối với công chức theo Quy chế nên suốt một thời
gian dài sau đó, chế độ công chức dần đƣợc thay thế bằng chế độ “cán bộ, công
nhân, viên chức” bao gồm tất cả những ngƣời làm việc trong các cơ quan nhà
nƣớc, cơ quan Đảng, tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế nhà nƣớc. Tất cả đều
thuộc biên chế nhà nƣớc, đƣợc gọi là “cán bộ, công nhân, viên chức nhà nƣớc”
chung chung, không phân biệt ai là cán bộ, công chức, viên chức theo cách quan
niệm có tính truyền thống đã hình thành trƣớc đó. Do vậy, pháp luật không tiếp
tục đi theo hƣớng điều chỉnh có tính chuyên biệt đối với từng đối tƣợng lao động
phục vụ trong các cơ quan, tổ chức sự nghiệp của nhà nƣớc.
Thuật ngữ công chức đƣợc sử dụng trở lại tại Nghị định số 169/HĐBT
ngày 25/5/1991 của Hội đồng Bộ trƣởng về công chức báo hiệu xu hƣớng mới
trong sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động công vụ và về công chức.
Theo quy định tại Nghị định số 95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 và Nghị định
số 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 “về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán
bộ, công chức trong các cơ quan nhà nƣớc” nhằm cụ thể hóa Pháp lệnh cán bộ
công chức 1993 và sửa đổi bổ sung năm 2003, công chức nói tại nghị định này
và các văn bản hƣớng dẫn thi hành đã đề cập một cách rõ ràng hơn về khái
niệm cán bộ, công chức nhƣng vẫn chƣa có sự phân biệt giữa công chức hành
chính với viên chức trong các đơn vị sự nghiệp.
Trƣớc yêu cầu khách quan của tiến trình cải cách nền hành chính nhà nƣớc
và đòi hỏi chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức nhà nƣớc, Luật Cán bộ, công
chức của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đƣợc Quốc hội thông
qua ngày 13/11/2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 đã quy định rõ: Công
chức là công dân Việt Nam, đƣợc tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nƣớc, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ƣơng, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công
10
nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nƣớc, tổ chức
chính trị - xã hội, trong biên chế và hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì
lƣơng đƣợc bảo đảm từ quỹ lƣơng của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định
của pháp luật [23,4].
Từ quy định trên, ta thấy khái niệm công chức theo pháp luật Việt Nam có
điểm khác biệt lớn so với các nƣớc, công chức không chỉ bao gồm những ngƣời
làm việc trong hệ thống hành chính nhà nƣớc mà còn bao gồm cả những ngƣời
làm việc cho các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội nhƣ các Ban Xây
dựng Đảng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân,
Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn Việt
Nam; các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân. Đây là
đặc trƣng cơ bản nhất của công chức nƣớc ta, xuất phát từ đặc thù của thể chế
chính trị và tổ chức bộ máy nhà nƣớc, Đảng, đoàn thể của nƣớc ta.
Phân loại công chức
Lịch sử khoa học hành chính đã xác nhận tầm quan trọng và tính ƣu
việt của việc phân loại công chức trong công tác quản lý đội ngũ công chức.
Đây là vấn đề quan tâm của các nhà quản lý nhân sự. Ông I.A. White, giáo sƣ
hành chính học Hoa kỳ cho rằng : “Việc quản lý nhân sự trong thời đại hiện
nay có hai cột trụ, cột trụ thứ nhất là tuyển chọn nhân tài ; cột trụ thứ hai là
phân loại công chức; không thể thiếu đƣợc một trong hai cái đó” [25, tr
123]. Một nhà hành chính học khác của Mỹ là ông Weiluobei còn nói rõ
thêm: “phân loại công chức là điểm khởi đầu của công tác hành chính nhân
sự, đồng thời cũng là nền móng của công tác hành chính nhân sự” [25, tr 231].
Vì vậy mà trong hệ thống hành chính nhà nƣớc, công chức đƣợc phân
loại để làm cơ sở cho công tác quản lý và phát triển đội ngũ, quy hoạch đào tạo
phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng loại công chức. Với hệ thống chức
11
nghiệp hiện đang thực hiện trong chế độ công chức ở Việt Nam, công chức
có thể đƣợc phân loại nhƣ sau:
*Phân loại theo lĩnh vực công tác:
- Công chức trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức
chính trị - xã hội;
- Công chức trong cơ quan nhà nƣớc;
- Công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập;
- Công chức trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; công chức
trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên nghiệp.
* Phân loại theo cấp quản lý hành chính: Theo quy định hiện nay, hệ
thống hành chính Nhà nƣớc ở Việt Nam đƣợc phân thành 4 cấp từ trung ƣơng
đến địa phƣơng. Nhƣng trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn chỉ tính từ
cấp trung ƣơng đến cấp tỉnh, cấp huyện, nên không đề cập đến công chức cấp
xã. Theo cách phân loại này thì công chức trong hệ thống hành chính ở Việt
Nam đƣợc phân loại nhƣ sau :
- Công chức ở cấp Trung ƣơng: Công chức làm việc trong các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
- Công chức ở cấp địa phƣơng: Công chức làm việc trong các cơ quan
chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
* Phân loại theo trình độ đào tạo và ngạch bậc:
- Loại A gồm những ngƣời đƣợc bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên cao
cấp hoặc tƣơng đƣơng;
- Loại B gồm những ngƣời đƣợc bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên
chính hoặc tƣơng đƣơng;
- Loại C gồm những ngƣời đƣợc bổ nhiệm vào ngạch chuyên viên hoặc
tƣơng đƣơng;
- Loại D gồm những ngƣời đƣợc bổ nhiệm vào ngạch cán sự hoặc tƣơng
đƣơng và ngạch nhân viên.
12
- Xem thêm -