Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về bảo hiểm y tế, từ thực tiễn tỉnh ninh bình...

Tài liệu Pháp luật về bảo hiểm y tế, từ thực tiễn tỉnh ninh bình

.PDF
79
240
130

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Với mục tiêu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe mỗi cá nhân trong cộng đồng, pháp luật bảo hiểm y tế (BHYT) giữ vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật an sinh xã hội của các quốc gia trên thế giới. Công dân có quyền hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe trở thành một nguyên tắc hiến định trong hệ thống pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế giới. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã ra lời tuyên bố Alma-Ata: “Sức khỏe cho mọi người”, đây được xem là cương lĩnh hành động cho mỗi quốc gia trên thế giới với phương châm là phải chăm lo bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng. Với những ưu điểm vốn có, pháp luật BHYT là giải pháp được hầu hết các Quốc gia lựa chọn để thực hiện sứ mệnh chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cộng đồng hướng tới mục đích vì một xã hội phát triển vững mạnh, công bằng, văn minh. Ở Việt Nam, BHYT là một chính sách xã hội lớn của Nhà nước trong hệ thống ASXH, có ảnh hưởng trực tiếp và tác động sâu rộng đến tất cả các thành viên trong xã hội. Quyền hưởng BHYT của người dân đã trở thành một nguyên tắc hiến định, được ghi nhận trong Hiến pháp. Luật BHYT đã được ban hành (vào năm 2008) và được sửa đổi, bổ sung (năm 2014) đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực thi pháp luật về BHYT. Đối tượng tham gia BHYT ngày càng được mở rộng, quyền lợi của người tham gia BHYT được đảm bảo hơn. Tuy nhiên thực tế cho thấy vẫn còn một lượng không nhỏ người dân chưa tham gia BHYT, quyền lợi của người tham gia BHYT nhiều khi chưa được bảo đảm, hiện tượng trục lợi BHYT vẫn còn tiếp diễn. Theo các báo cáo đánh giá của BHXH Việt Nam thì tình trạng vi phạm pháp luật BHYT xảy ra ngày càng phổ biến. Điển hình là tình trạng trốn đóng, chiếm dụng tiền đóng BHYT và lạm dụng quỹ BHYT. Theo các báo cáo BHXH Việt Nam, thời gian qua, tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ KCB BHYT có chiều hướng gia tăng tại cơ sở y tế, dẫn đến quỹ KCB BHYT được sử dụng trong những tháng đầu năm 2016 tại nhiều địa phương bị bội chi, ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện chính sách BHYT tại các đơn vị, địa 1 phương và quyền lợi của người tham gia BHYT. Các quy định pháp luật hiện hành về BHYT và thực tiễn triển khai thực hiện pháp luật về BHYT đang đứng trước yêu cầu cần đổi mới theo hướng hoàn thiện hơn để đáp ứng được điều kiện cần và đủ để thực hiện mục tiêu tiến tới BHYT toàn dân mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Ninh Bình là một trong những tỉnh có số lượng người tham gia BHYT tương đối nhiều, độ bao phủ tương đối rộng. Tuy nhiên những tồn tại vướng mắc cũng như khó khăn trong việc triển khai BHYT ở tỉnh Ninh Bình cũng không phải là nhỏ. Do đó, những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật và đảm bảo tính khả thi để hoàn thành mục tiêu của BHYT toàn dân ở Việt Nam nói chung và tỉnh Ninh Bình nói riêng trở nên cấp thiết. Đây là lý do cơ bản để tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về bảo hiểm y tế, từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình” làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về BHYT và pháp luật BHYT. Có thể kể qua các luận án: "Tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam ” năm 2005 của tác giả Đỗ Văn Sinh; luận án: "Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam” năm 2008 của tác giả Nguyễn Hiền Phương; luận án: "Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật BHYT ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương năm 2012, luận án "Nghiên cứu phương thức thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT theo nhóm chẩn đoán với nhóm bệnh tăng huyết áp” năm 2012 của tác giả Lưu Viết Tĩnh... Ở cấp độ luận văn, nghiên cứu về BHYT và pháp luật về BHYT có các luận văn: "Pháp luật bảo hiểm y tế, thực trạng và giải pháp” năm 2005 của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương; luận văn: "Bảo hiểm y tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” năm 2006 của tác giả Trần Quang Lâm; luận văn "Bảo hiểm y tế cho người nghèo ở Hà Nội" năm 2010 của tác giả Nguyễn Thanh Bình; luận văn: "Bảo hiểm y tế khu vực kinh tế phi chính thức ở Hà Nội" năm 2012 của tác giả Trần 2 Thị Phương Châm; luận văn: "Đánh giá Luật BHYT sau ba năm thực hiện" năm 2013 của tác giả Nguyễn Khánh Linh; luận văn "Pháp luật BHYT ở Việt Nam hiện nay” năm 2014 của tác giả Phạm Thị Vy Linh; luận văn "Thực trạng thi hành pháp luật BHYT bắt buộc ở Việt Nam ” của tác giả Bùi Thị Phương Dung năm 2015, ... Đề tài khoa học về pháp luật BHYT có thể nhắc đến đề tài khoa học: “Pháp luật BHYT một số quốc gia trên thế giới và những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ” năm 2013 của PGS. TS Nguyễn Hiền Phương. Đối với bài viết trên các tạp chí, có thể kể tên một số bài viết tiêu biểu như: các bài viết "Bảo hiểm y tế trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam ” đăng trên Tạp chí Luật học số 10/2006 và "Một số giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật bảo hiểm y tế ở Việt Nam ” đăng trên tạp chí Bảo hiểm xã hội số 4/2008 của PGS.TS Nguyền Hiền Phương; "Hoàn thiện pháp luật về BHYT ở Việt Nam hiện nay " đăng trên Tạp chí luật học số 1/2008 của tác giả Đỗ Ngân Bình: bài viết “Nhìn lại một số quy định mới sau khi Luật bảo hiểm y tế đi vào cuộc sống” của tác giả Phạm Văn Chung, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 12/2009; bài viết “Tiến tới bảo hiểm y tế bắt buộc toàn dân’’ đăng trên Tạp chí Bảo hiểm xã hội số 5A và 5B năm 2010 của PGS.TS Đào Văn Dũng, Ban Tuyên giáo Trung ương; bài viết "Tăng cường quản lý Nhà nước hướng tới mục tiêu BHYT toàn dân ” của tác giả Nguyễn Huy Quang trên Tạp chí Quản lý Nhà nước số 182 (2011); bài viết “Đối tượng tham gia BHYT và lộ trình thực hiện BHYT toàn dân theo luật BHYT Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Dung trên Tạp chí Luật học số 4/2013; loạt bài “Quyền lợi của người tham gia BHYT có nhiều điểm mới”, “ Sử dụng thẻ BHYT khi khám, chữa bệnh để được hưởng đầy đủ quyển lợi theo Luật BHYT sửa đổi’’, “BHYT năm học mới có nhiều đồi mới" của tác giả Nguyễn Huy Nghị trên Tạp chí Luật học năm 2015; loạt bài: “Chính sách BHYT - thắp sáng những niềm tin’’ của Thái Dương, “BHYT tạo ra nguồn lực phát triển y tế cơ sở” của Lê Công Minh Đức, “Thực hiện Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật BHYT qua lăng kính giám sát ” của Nguyễn Đức Thụ, "BHYT Việt Nam - Mô hình có nhiều kinh nghiệm tốt trong tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT” của tác giả Hải Hồng,... trên Tạp chí BHXH năm 2015; 3 bài viết: “Chuyển biến tích cực trên lộ trình BHYT toàn dân ” của tác giả Lê Thị Thu Hạnh, “BHYT toàn dân — Giải pháp giúp người dân tránh "bẫy nghèo" của tác giả Thái Dương trên Tạp chí BHXH năm 2016; “Thực hiện giải pháp mạnh ngăn ngừa lợi dụng trục lợi quỹ khám, chữa bệnh BHYT” của tác giả TS. Nguyễn Văn Tiến đăng trên Tạp chí Bảo hiển xã hội kỳ 01, tháng 7/2017 và nhiều công trình khác nữa. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về BHYT và pháp luật BHYT tính đến thời điểm hiện tại đã đề cập khá toàn điện các vấn đề liên quan đến pháp luật BHYT, đặt nền móng lý luận cơ bản cho BHYT và pháp luật BHYT Việt Nam, để lại nhiều thành tựu quan trọng như: cung cấp những kết quả nghiên cứu tổng quan, lý luận chung về BHYT và pháp luật BHYT; đưa ra những nhận xét, đánh giá về ưu, nhược điểm của quy định pháp luật BHYT, những thành công, hạn chế trong thực tiễn thi hành pháp luật BHYT, từ đó khái quát được thực trạng pháp luật BHYT Việt Nam; bước đầu xác định được các tiêu chí hoàn thiện pháp luật BHYT chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật BHYT... Trong thời gian qua có rất nhiều nghiên cứu xoay quanh chủ đề về Bảo hiểm y tế, tuy nhiên các đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về bảo hiểm y tế nói chung, chưa có đề tài ở cấp độ thạc sỹ đi sâu về vấn đề pháp luật bảo hiểm y tế từ thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Vì vậy, đề tài “ Pháp luật về bảo hiểm y tế, từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình ” là cần thiết và có ý nghĩa thiết thực cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật BHYT Việt Nam. Cụ thể, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về BHYT và pháp luật BHYT, các quy định của pháp luật BHYT hiện hành về đối tượng tham gia, quyền lợi hưởng BHYT, quỹ BHYT, tổ chức thực hiện BHYT và thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật BHYT ở địa bàn tỉnh Ninh Bình; Những nội dung về xử lý vi phạm hay giải quyết tranh chấp BHYT không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn. Trong quá trình nghiên cứu pháp luật BHYT Việt Nam hiện hành, Luận văn 4 cũng có những liên hệ nhất định với các quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật BHYT một số quốc gia trên thế giới và pháp luật BHYT Việt Nam giai đoạn trước nhằm mục đích đảm bảo cho vấn đề nghiên cứu của luận văn được xem xét một cách toàn diện, biện chứng và đảm bảo được tính lịch sử cần thiết cho luận văn. 4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn Mục tiêu của Luận văn là nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật BHYT ở Việt Nam, tạo lập những tri thức lý luận, những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật BHYT ở Việt nam cũng như việc thực hiện pháp luật BHYT ở tỉnh Ninh Bình. Để thực hiện mục tiêu này, tác giả Luận văn đặt ra những nhiệm vụ chính sau: Thứ nhất: Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật BHYT, góp phần nhỏ vào quá trình đặt nền móng nhận thức vững vàng về BHYT nói chung và pháp luật BHYT nói riêng, từ đó góp phần xây dựng hệ thống tư duy lý luận đầy đủ, vững chắc về pháp luật BHYT. Thứ hai: Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định về pháp luật BHYT ở Việt Nam, tìm hiểu thực tiễn thi hành pháp luật BHYT ở địa bàn tỉnh Ninh Bình. Trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế cần phải hoàn thiện, đặc biệt là việc chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế đó. Thứ ba: Đề xuất quan điểm, phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật BHYT cho phù hợp với thực tiễn hiện nay góp phần thực hiện tốt công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn - Phương pháp tổng hợp: được sử dụng chủ yếu nhằm tập hợp, chọn lọc những thông tin có ý nghĩa với luận văn, từ đó sắp xếp, khái quát hóa thông tin theo từng nội dung cần luận giải trong luận văn. - Phương pháp mô tả: được sử dụng nhằm mục đích khái quát các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trước đây, đồng thời mô tả các quy định pháp luật cũng như tình hình thực hiện pháp luật. Thông qua đó tạo nên bức tranh tổng thể về pháp luật BHYT Việt Nam. 5 - Phương pháp phân tích: được sử dụng chủ yếu trong tìm kiếm các vấn đề cần làm rõ trong quy định của pháp luật về BHYT cũng như trong tìm hiểu thực trạng tổ chức thực hiện BHYT, tìm ra các nguyên nhân của từng thực trạng đó. - Phương pháp so sánh luật: phương pháp này được sử dụng chủ yếu để đối chiếu các quy định của pháp luật trong nước về cùng nội dung trong các thời kỳ khác nhau và giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế, nhằm làm rõ các vấn đề của pháp luật Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra những kiến nghị phù hợp. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần xây dựng, hoàn thiện cơ sở lý luận về BHYT và pháp luật BHYT, từ đó góp phần hoàn thiện pháp luật BHYT Việt Nam. Đồng thời, ở một mức độ nhất định, luận văn cũng cung cấp những kiến thức hữu ích cho những người cần nghiên cứu về cơ sở lý luận cũng như những người làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực BHYT để áp dụng và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật BHYT một cách hiệu quả. Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong các công trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở đào tạo luật học, xã hội học, công tác xã hội, kinh tế... và cho các tổ chức, cá nhân quan tâm đến lĩnh vực BHYT. 7. Những đóng góp mới của luận văn, Luận văn được viết trong thời điểm Luật BHYT sửa đổi mới được thực hiện nên dự kiến những đóng góp mới như sau: - Luận văn đã làm sáng tỏ và góp phần làm hoàn thiện hơn những vấn đề lý luận về BHYT, cũng như pháp luật về BHYT. - Luận văn đã phân tích được pháp luật về BHYT của một số quốc gia tương đối thành công trong lĩnh vực BHYT và trên cơ sở đó rút ra được các bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. - Luận văn đã phân tích được thực trạng pháp luật về BHYT hiện hành đồng thời liên hệ với thực tiễn thực hiện ở tỉnh Ninh Bình. 6 - Luận văn cũng nêu được một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BHYT đồng thời cũng đưa ra được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BHYT ở tỉnh Ninh Bình. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các công trình khoa học liên quan đến luận án đã được công bố, luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về BHYT và pháp luật về BHYT Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về BHYT Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật BHYT ở tỉnh Ninh Bình và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BHYT 7 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BHYT VÀ PHÁP LUẬT VỀ BHYT 1.1. Khái niệm và vai trò của BHYT 1.1.1. Khái niệm BHYT BHYT ra đời từ nhu cầu chính đáng của con người trong cuộc sống mà cụ thể là nhu cầu được chăm lo, bảo vệ cho sức khỏe những lúc ốm đau, bệnh tật. Thực tế cho thấy trong xã hội luôn tồn tại một bộ phận các đối tượng yếu thế, có nguy cơ chịu những rủi ro về sức khỏe cao và không có khả năng tài chính để trang trải các chi phí phát sinh từ dịch vụ y tế như người nghèo, người có thu nhập thấp, người già, trẻ em.... Nếu như những người này chỉ trông chờ vào những hình thức tương trợ cộng đồng truyền thống, tự phát thì họ luôn có nguy cơ bị nằm ngoài sự bảo vệ của những hình thức tương trợ đó. Nhu cầu về một cơ chế chia sẻ rủi ro mang tính xã hội cao hơn, được thực hiện trên phạm vi rộng hơn với sự đảm bảo chắc chắn hơn từ phía Nhà nước trở thành một nhu cầu tự nhiên của con người trong quá trình tìm kiếm một sự bảo đảm an toàn nhằm chống lại những tổn thất do ốm đau, bệnh tật mang lại. Như một tất yếu khách quan, BHYT ra đời lần đầu tiên từ giữa thế kỷ thứ XIX tại nước Đức. Ban đầu, mô hình này chỉ được áp dụng cho người lao động trong các trường hợp ốm đau do rủi ro, bệnh tật, về sau, phạm vi đối tượng được áp dụng của mô hình được mở rộng ra cho mọi thành viên trong xã hội và ngày càng được mở rộng phát triển với sự quan tâm của các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên toàn thế giới. Một số quốc gia sau đó cũng đã áp dụng mô hình này, có thể kể qua như: Đan Mạch (1892), Anh (1911), Pháp (1920). Hà Lan (1941),.... Cho đến nay, theo tổng kết của Tổ chức Y tế thế giới, hầu hết tất cả các quốc gia châu Á, châu Âu. châu Mỹ và Châu Úc đều thực hiện BHYT và rất nhiều quốc gia đạt được mức độ bao phủ BHYT cho toàn dân. Các quốc gia Châu Phi cũng đang trong quá trình thực hiện BHYT. Có thể khẳng định rằng, sự xuất hiện của BHYT đã đóng góp một công cụ tương trợ cộng đồng văn minh, phổ biến và hữu hiệu nhất cho con người trước 8 những rủi ro về sức khỏe. Lịch sử hình thành và phát triển của BHYT trên toàn thế giới cho thấy: BHYT có thể là một chương trình chăm sóc sức khỏe không vì mục tiêu lợi nhuận do Nhà nước đứng ra định hướng, quản lý hay thậm chí là trực tiếp tổ chức thực hiện (BHYT xã hội), cũng có thể là một loại sản phẩm của các doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra thị trường nhằm kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận (BHYT thương mại). Do sự giới hạn về đối tượng và phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung luận bàn về BHYT dưới góc độ là BHYT xã hội. Có nhiều mô hình thực hiện BHYT khác nhau được tìm thấy tại các quốc gia trên thế giới, nổi bật hơn cả có thể kể đến: mô hình trả tiền túi, mô hình Otto Von Bismarck, mô hình William Henry Beridge và mô hình BHYT quốc gia. Mỗi mô hình BHYT đều có những nét đặc trưng riêng với những hạn chế và thế mạnh riêng, BHYT cho dù được triển khai theo mô hình nào, vận dụng sáng tạo để phù hợp với tình hình kinh tế - chính trị - xã hội trong mỗi thời kỳ ở mỗi quốc gia ra sao thì tựu chung lại, cũng luôn cần được nhìn nhận trên những phương diện chung là: kinh tế, xã hội và pháp lý. Dưới góc độ kinh tế, BHYT là sự hợp nhất nguồn lực kinh tế từ số lượng lớn những người tham gia nhằm mục đích đối phó với những rủi ro bất ngờ xảy ra. Cũng có thể hiểu BHYT là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn lực từ sự đóng góp của những người tham gia bảo hiểm để hình thành nên một quỹ có chức năng chi trả cho các khoản chi phí KCB cho người tham gia khi gặp phải những rủi ro về sức khỏe. Chi phí KCB ở đây bao gồm chi phí cho trang thiết bị y tế, chi phí liên quan đến các vấn đề kỹ thuật nghiệp vụ của y bác sĩ, chi phí thuốc men sử dụng trong quá trình KCB.... Nghiên cứu ở góc độ này, Hugh The Eldcr Chamberlen (1630 - 1720) là người đưa ra khái niệm tiên phong về BHYT, trước cả khi mô hình BHYT đầu tiên được hình thành. Theo đó, “BHYT là hình thức chi trả chi phí cho người được bảo hiểm tính trên rủi ro sức khỏe đã được thỏa thuận khi mua bảo hiểm và số tiền chi trả chi phí y tế phải cân đối với sổ phí BHYT mà những người tham gia bảo hiểm đóng góp” Tại đây, BHYT được nhìn nhận như một sự hợp nhất đóng góp kinh tế cộng 9 đồng trước rủi ro do bệnh tật gây nên mà từng cá nhân cụ thể không thể dự liệu và tự lo liệu hết được. Sự hợp nhất này phải được cân nhắc cẩn thận để có thể đạt được sự cân bằng giữa hai đầu thu - chi. Dưới góc độ xã hội, BHYT là một hình thức tương trợ cộng đồng có ý nghĩa nhân văn sâu sắc nhằm bảo vệ sức khỏe cho các thành viên trong xã hội. BHYT được xã hội hóa theo nguyên tắc “số đông bù số ít”. Nghĩa là, những người tham gia cùng nhau đóng góp một phần thu nhập để tạo ra một quỹ chung với mục đích chăm sóc y tế cho chính mình và các thành viên khác, không vì mục tiêu lợi nhuận. BHYT được xem như một cơ chế để liên kết các lợi ích xã hội, khuyến khích tính đoàn kết cũng như xây dựng các hiệp hội công dân và đảm bảo quyền công dân. Ngoài ra, BHYT còn là một hình thức thể hiện tính công bằng, phổ cập khi không giới hạn đối tượng tham gia, không phân biệt tuổi tác, giới tính, vùng miền, dân tộc, tôn giáo. Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền được tham gia BHYT. Mặt khác, BHYT cũng là một kênh thực hiện sự quan tâm, hỗ trợ từ phía Nhà nước đối với vấn đề chăm sóc sức khỏe cho các thành viên yếu thế trong xã hội. Quan điểm này đặc biệt phổ biến ở Tây Âu nên BHYT rất phát triển ở các nước thuộc khu vực này. Một số nước Châu Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc,... cũng rất xem trọng khía cạnh xã hội của BHYT và xem BHYT là một biện pháp cộng đồng chia sẻ rủi ro sức khỏe. Nhìn chung, phổ cập BHYT tiến tới toàn dân là mục tiêu hầu hết các nước đều hướng tới và Nhà nước cung cấp một tỷ trọng lớn các dịch vụ KCB, chăm sóc sức khỏe người dân. Dưới góc độ pháp lý, BHYT là một trong những quyền quan trọng của mỗi cá nhân trong việc chăm sóc sức khỏe bản thân và cộng đồng, quyền này được quy định tại các văn bản pháp luật. Trong Công ước 102 ngày 28/6/1952 - Công ước quy định những quy chuẩn tối thiểu về ASXH của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), ILO nhận định BHYT là một bộ phận cấu thành của hệ thống ASXH quốc gia, có mục đích chung là bảo vệ các thành viên trong xã hội, "là sự bảo vệ của xã hội đối với thành viên của mình thông qua hàng loạt biện pháp công cộng nhằm chống lại những khó khăn về mặt 10 kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già, tử vong; sự cung cấp về chăm sóc y tế và cả sự cung cấp tiền trợ giúp cho các gia đình đông con ” 1. Mặc dù công ước này không trực tiếp đề cập đến thuật ngữ BHYT trong hệ thống ASXH, nhưng từ các văn bản pháp lý quốc tế cũng như hệ thống văn bản pháp luật của quốc gia, có thể thấy BHYT chính là một phần của chăm sóc y tế. Vì vậy, có thể hiểu BHYT chính là một bộ phận của ASXH mà các quốc gia cần đảm bảo thực hiện cho Người dân của minh. Tổ chức y tế thế giới (WHO) xác định trong Tuyên bố Alma - Ata (1978) “Sức khỏe con người" cho rằng BHYT được hiểu "là loại hình bảo hiểm không kinh doanh, không vì mục đích lợi nhuận và được tiếp cận chủ yếu dưới góc độ quyền con người”. Đây là cách tiếp cận được nhiều quốc gia trên thế giới thống nhất sử dụng, tuy nhiên cách thức tổ chức thực hiện ở mỗi quốc gia là khác nhau. Từ góc độ kinh tế, xã hội và pháp lý có thể đưa ra khái niệm BHYT như sau: " BHYT là sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của mình thông qua quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung, được tích lũy chủ yếu từ sự đóng góp những người tham gia, đặt dưới sự điều tiết của Nhà nước nhằm đảm bảo chi trả chi phí y tế cơ bản cho thành viên xã hội khi họ gặp rủi ro về sức khỏe, cần sử dụng các dịch vụ y tế. ” 1.1.2. Đặc trưng của bảo hiểm y tế Là một bộ phận cấu thành nên hệ thống ASXH, BHYT mang đầy đủ những đặc trưng chung của ASXH như phạm vi rộng rãi, thực hiện trên cơ sở tương trợ cộng đồng... Tuy nhiên, bản thân BHYT cũng có những đặc trưng riêng biệt nhất định để phân biệt với các hình thức bảo hiểm khác. Cụ thể là: Thứ nhất: Đối tượng tham gia BHYT là mọi thành viên trong xã hội Đối tượng tham gia của BHYT hết sức rộng rãi, cụ thể là mọi thành viên trong xã hội. BHYT không chỉ áp dụng với một nhóm đối tượng nhất định trong xã hội 1 Bộ Lao động thương binh và xã hội và 1LO (12/1998), “Cẩm nang An sinh xã hội”, Tài liệu phục vụ chương trình tập huấn phát triển chế độ Bảo hiểm xã hội. 11 mà được áp dụng cho mọi thành viên trong xã hội. Khác với các hình thức tương trợ cộng đồng mang tính giới hạn dựa trên các tiêu chí như địa bàn sinh sống, tôn giáo, họ tộc, độ tuổi, giới tính hay các điều kiện khác (BHXH, bảo hiểm thất nghiệp chủ yếu hướng tới các đối tượng là NLĐ trong quan hệ lao động, trợ giúp xã hội tập trung vào nhóm người yếu thế trong xã hội, ưu đãi xã hội thì chăm lo cho những người có công và người thân của họ....). BHYT không loại trừ bất cứ đối tượng nào trong cộng đồng. Bất cứ thành viên nào trong xã hội cũng đều được quyền thụ hưởng sự bảo vệ và hỗ trợ từ BHYT khi gặp phải những rủi ro về mặt sức khỏe, dù cho có hay không tham gia quan hệ lao động, dù là người có thu nhập thấp hay người giàu có, dù là đối tượng chính sách hay không phải đối tượng chính sách. Không có bất kỳ sự phân biệt về độ tuổi, giới tính, dân tộc, tôn giáo, khu vực làm việc, hình thức lao động hay địa vị kinh tế nào được tìm thấy ở BHYT. Thứ hai: Mục tiêu của BHYT là sự bảo vệ của xã hội đối với sức khỏe cho các thành viên của mình thông qua chi phí y tế. Nếu như mục tiêu chính của BHXH là bảo đảm thu nhập cho người lao động trong những trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động dẫn đến giảm và mất thu nhập thì BHYT lại hướng đến mục tiêu sức khỏe cho người dân. Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa BHXH và BHYT. Thức tế, không ai muốn ốm đau bệnh tật chính vì vậy mà yếu tố chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHYT cần đặt lên hàng đầu. BHYT không phải là sự hỗ trợ về mặt tài chính một cách trực tiếp cho những người tham gia, BHYT hướng tới sự hỗ trợ, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho các thành viên của xã hội trong các trường hợp ốm đau, bệnh tật cần được khám và điều trị. Người tham gia BHYT cùng nhau đóng góp vào quỹ BHYT bằng tiền mặt. Khi gặp phải các vấn đề về sức khỏe, họ sẽ được BHYT đáp ứng các nhu cầu KCB bằng cách chi trả một phần hoặc toàn bộ cho các chi phí phát sinh từ hoạt động KCB. Các chi phí này bao gồm: chi phí cho các dịch vụ y tế như chẩn đoán, chữa trị, chi phí thuốc men, chi phí chăm sóc tại cơ sở KCB... Nếu như BHXH giải quyết được các vấn đề thu nhập cho người lao động thông qua các khoản trợ cấp bằng tiền mặt thì BHYT lại thể hiện tính hữu hiệu trong giải quyết rủi ro thông qua 12 việc thực hiện chức năng KCB cho họ. Quyền lợi của người được hưởng BHYT do vậy không phải là một khoản tiền cụ thể như trong BHXH mà là những giá trị thể hiện qua các dịch vụ y tế mà BHYT cung cấp. Thứ ba: Chi phí BHYT mang tính chất là một loại chi phí ngắn hạn, không xác định trước, không phụ thuộc vào mức đóng và thời gian đóng mà phụ thuộc vào mức độ ốm đau, bệnh tật của người được hưởng. Đối tượng của BHYT là sức khỏe của người dân nên BHYT cần hướng đến sự chia sẻ của những người tham gia BHYT. Chính vì vậy, mức hưởng BHYT sẽ không phụ thuộc vào mức đóng góp và thời gian đóng góp BHYT mà phụ thuộc vào mức độ ốm đau bệnh tật của người lao động. Hơn nữa, Chi phí sử dụng trong chi trả BHYT là loại chi phí rất khó có thể xác định trước như chi phí trong các chế độ hưu trí, thai sản... của BHXH. Chi phí BHYT cũng không được áp dụng liên tục trong một thời gian dài như việc chi trả lương hưu hay trợ cấp cho người có công với cách mạng. Bản thân BHYT đã là những chi phí rất khó để có thể xác định do đặc thù tính chất đa dạng và khó xác định của dạng rủi ro mà BHYT hỗ trợ là rủi ro ốm đau, bệnh tật. Trên thực tế, để xác định được một cách chính xác một mức nhu cầu chung cho mọi trường hợp ốm đau bệnh tật hay một mức chi phí chung cho mọi dịch vụ y tế, mọi loại thuốc men được sử dụng trong quá trình KCB gần như là không thể, về nguyên tắc, người tham gia BHYT sẽ đóng một khoản phí nhất định vào quỹ BHYT (khoản phí này là khoản phí có giới hạn), khi gặp rủi ro ốm đau, bệnh tật, họ sẽ được quỹ này chi trả một phần hoặc toàn bộ cho hoạt động KCB cho đến khi khỏe mạnh trở lại, hoàn toàn không phụ thuộc vào việc người đó đã tham gia đóng BHYT được bao lâu hay đã đóng được bao nhiêu. Việc Nhà nước có quy định ưu tiên những người có thời gian đóng BHYT lâu năm chỉ mang tính chất khuyến khích người dân tham gia BHYT, thúc đẩy lộ trình mở rộng độ bao phủ BHYT, không mang ý nghĩa quyết định tới mức hưởng BHYT, về vấn đề này, các nước hầu như thường có một giới hạn riêng về phạm vi và khả năng thanh toán BHYT, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội cũng như năng lực KCB của hệ thống dịch vụ y tế của mỗi quốc gia. 13 Thứ tư: Chất lượng BHYT phụ thuộc vào khả năng cung ứng dịch vụ y tế của cơ sở KCB. Bằng phương thức trợ giúp riêng biệt của mình, BHYT hỗ trợ các thành viên trong xã hội thông qua những dịch vụ y tế được cung cấp bởi các cơ sở KCB. Do vậy, có thể nói, chỉ khi hệ thống các cơ sở KCB đáp ứng được những yêu cầu cả về số lượng và chất lượng thì quyền lợi của những người tham gia BHYT khi KCB mới có thể được đảm bảo. Một hệ thống cơ sở KCB quá "thưa” so với mật độ dân cư hoặc cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, trình độ y bác sĩ hạn chế, đạo đức nghề nghiệp không được trau dồi... chắc chắn không thể đưa những quy định về quyền lợi KCB và thụ hưởng các dịch vụ y tế nói chung của người tham gia BHYT đi vào thực tiễn một cách triệt để, có hiệu quả. Trên thực tế, việc đánh giá một hệ thống chính sách BHYT là có khả thi hay không phụ thuộc một phần vào việc hệ thống chính sách đó có tương xứng với trình độ phát triển, điều kiện của dịch vụ y tế hay không? Những quy định về quyền lợi BHYT nếu vượt quá khả năng cung cấp dịch vụ của các cơ sở KCB cũng sẽ trở nên vô nghĩa. Nói cách khác, để BHYT có thể đi vào thực chất và hữu hiệu thì trước hết cần phải nâng cao chất lượng dịch vụ y tế. 1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của BHYT Cùng với các loại hình bảo hiểm khác, BHYT có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội, phát huy hiệu quả trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần tích cực vào việc ổn định xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Vai trò của BHYT được thể hiện qua một số phương diện cụ thể như sau: Thứ nhất: BHYT là một công cụ giúp Nhà nước cụ thể hóa quyền con người trong xã hội, trong đó có quyền được chăm sóc sức khỏe là một quyền đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế. Là một trong những quyền cơ bản của con người được pháp luật các quốc gia trên thế giới ghi nhận, quyền được chăm sóc sức khỏe được coi là cơ sở pháp lý quan trọng để mỗi cá nhân trong xã hội đều có thể thực hiện được quyền của mình đối với sức khỏe, đồng thời cũng là cơ sở thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối 14 với vấn đề chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho người dân. BHYT giúp những người có nhu cầu trong xã hội tiến lại gần hơn với các dịch vụ y tế, giúp cho những thành viên yếu thế được tiếp cận với những dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản nhất, hỗ trợ họ thoát khỏi những gánh nặng tài chính do việc chi trả cho các chi phí để đối phó với những rủi ro về sức khỏe gây nên. Với những đặc thù riêng của mình, từ khi ra đời đến nay, BHYT đã phát huy được chức năng của mình trong việc huy động các nguồn lực trong xã hội dùng cho hoạt động chia sẻ rủi ro, góp phần nâng cao chất lượng đời sống nói chung mà cụ thể ở đây là đời sống sức khỏe cho mọi thành viên, đặc biệt là với các nhóm thành viên yếu thế trong xã hội. Thứ hai: BHYT là một hình thức trợ giúp tài chính hữu hiệu và cần thiết cho chính bản thân và gia đình người tham gia BHYT. Không phải ai cũng có đủ khả năng tài chính để chi trả cho các dịch vụ y tế nhằm đối phó với những rủi ro do ốm đau, bệnh tật mang lại. Khi đó, họ cần một sự chia sẻ, hỗ trợ từ phía các thành viên khác trong xã hội. BHYT ra đời đã giải quyết được vấn đề đó. Đặc biệt, những đối tượng khó khăn, có thu nhập thấp trong xã hội thì lại càng cần đến một giải pháp như thế. Nếu không có BHYT, khi rủi ro ốm đau, bệnh tật ập đến, dưới sức ép của áp lực về mặt tài chính, nhất là khi đặt trong bối cảnh chi phí y tế đang ngày một tăng cao, bản thân những người gặp rủi ro bệnh tật có thể không đủ khả năng để sử dụng các dịch vụ y tế chi phí lớn; thậm chí với một số đối tượng, việc tiếp cận các dịch vụ y tế cơ bản cũng đã là một vấn đề nằm ngoài tầm với. Có BHYT, người tham gia sẽ được quỹ BHYT chi trả một phần hoặc toàn bộ các chi phí dịch vụ y tế, giúp phần nào giảm bớt áp lực về mặt tài chính cho những đối tượng có thu nhập hạn chế khi gặp phải những rủi ro về mặt sức khỏe, cần được tiếp cận các dịch vụ y tế. Thứ ba: BHYT mang ý nghĩa nhân văn, xã hội sâu sắc. BHYT là chính sách xã hội có tính chia sẻ cộng đồng rõ nét. Tính nhân văn của BHYT thể hiện rất rõ ở mục đích chia sẻ rủi ro về mặt sức khỏe; sự hỗ trợ tương thân tương ái giữa người giàu với người nghèo, giữa người trẻ với người già, giữa người khỏe mạnh với người ốm đau, bệnh tật. Chi phí cho dịch vụ y tế là một 15 gánh nặng lớn đối với nhiều thành viên trong xã hội. Nhờ tham gia BHYT mà những thành viên này phần nào có thể giảm bớt được những khó khăn về mặt tài chính gây ra bởi những rủi ro về mặt sức khỏe. Bản thân quỹ BHYT hoạt động dựa trên cơ chế huy động nguồn lực từ những thành viên có nguồn lực nhàn rỗi, chưa gặp phải các vấn đề về sức khỏe để hỗ trợ cho các thành viên cần được tiếp cận các dịch vụ y tế, không phân biệt tuổi tác, giới tính, tôn giáo, khu vực sinh sống và làm việc... Đây chính là điểm tạo nên tính nhân văn cho BHYT. Trong mối quan hệ BHYT, người tham gia thể hiện trách nhiệm của mình không chỉ với chính bản thân mà bên cạnh đó còn là trách nhiệm đối với cả xã hội. Thứ tư: BHYT góp phần tạo nên sự công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe nhân dân. BHYT tạo nên một mạng lưới rộng khắp, tạo cơ hội cho mọi người dân trong xã hội đều có cơ hội được tiếp cận các dịch vụ y tế. Xuất phát từ đặc điểm của BHYT về phạm vi đối tượng tham gia là mọi thành viên trong xã hội, về mức đóng góp ngang bằng với tỉ lệ chung cho mọi tầng lớp nhân dân, về mức hưởng không phụ thuộc vào mức đóng và thời gian đóng, BHYT đã góp phần tạo nên sự công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe cho người dân. Nhất là khi sự bất bình đẳng, mất cân bằng giàu nghèo trong xã hội đang ngày một gia tăng như hiện nay, BHYT ngày một thể hiện rõ nét vai trò là một bộ phận chủ chốt của hệ thống ASXH, giúp làm nhiệm vụ điều tiết lại của cải xã hội, phân phối lại thu nhập của các giai tầng, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, tạo điều kiện cho tất cả mọi người đều được hưởng sự chăm sóc sức khỏe như nhau. Thứ năm: BHYT có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế bền vững, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Muốn đảm bảo phát triển đất nước một cách bền vững thì một yêu cầu tất yếu đặt ra là phát triển kinh tế phải đi đôi với việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Sự vận hành của hệ thống BHYT với cơ chế đóng góp tài chính đã tạo ra được sự tích tụ nguồn lực kinh tế, từ đó làm giảm đi gánh nặng tài chính dành cho việc chăm sóc sức khỏe toàn dân, tập trung ngân sách cho những mục tiêu phát triển kinh tế. Quỹ 16 BHYT với tư cách là một quỹ tiền tệ cũng được pháp luật nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam cho phép sử dụng như một nguồn tài chính nhàn rỗi để đầu tư sinh lời trên nguyên tắc đảm bảo an toàn, tăng thêm nguồn thu cho quỹ, từ đó quay lại phục vụ cho các hoạt động của BHYT. Như vậy, BHYT không chỉ góp phần giải quyết các vấn đề về sức khỏe người dân mà còn có vai trò không thể phủ nhận trong việc bảo đảm cho sự phát triển bền vững, tiến bộ chung của toàn xã hội. 1. 2. Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật BHYT 1.2.1 Khái niệm pháp luật BHYT Để chính sách BHYT được đi vào thực tế cuộc sống, Nhà nước cần phải thể chế hóa nó bằng các văn bản quy phạm pháp luật từ Luật cho đến Thông tư, Nghị định và các văn bản dưới luật khác. Nói cách khác, pháp luật BHYT chính là hình thức pháp lý của chính sách BHYT. Đa phần các quốc gia cho rằng pháp luật y tế là một phần của pháp luật về chăm sóc y tế nhằm đảm bảo quyền lợi KCB (nội, ngoại trú) và một số chế định bổ sung cho Người tham gia BHYT. Các quốc gia này theo quan niệm chăm sóc y tế có phạm vi rộng hơn BHYT, nội dung chăm sóc y tế không chỉ dừng lại ở chế độ bảo hiểm cho các thành viên trong xã hội mà còn bao gồm các hoạt động y tế công cộng khác như tiêm chủng, phòng bệnh, chỉnh hình, tạo hình thẩm mỹ, chữa trị các dị tật bẩm sinh,... nhằm mục đích chăm lo và bảo vệ sức khỏe toàn dân. Trong khi đó, một số quốc gia khác lại cho rằng pháp luật BHYT là tổng thể các quy định về dịch vụ chăm sóc sức khỏe công, được thực hiện miễn phí, do NSNN đài thọ toàn bộ. Một số nước khác lại quan niệm pháp luật BHYT cùng với pháp luật về các dịch vụ y tế tạo nên hệ thống pháp luật về chăm sóc y tế. Cũng có một số quốc gia lại quy định pháp luật BHYT bao gồm cả chế độ KCB, chế độ ốm đau, chế độ thai sản cho Người lao động. Quan niệm về pháp luật BHYT tại các quốc gia mặc dù còn nhiều điểm chưa hoàn toàn thống nhất với nhau tuy nhiên vẫn thể hiện được một số điểm chung, có thể coi là những đặc điểm chung nhất của pháp luật BHYT, đó là: Thứ nhất, pháp luật BHYT là tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ quan 17 Nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận. Trên phương điện lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, các quy phạm pháp luật được hiểu là những quy tẳc xử sự mang tính bắt buộc chung được ban hành hoặc thừa nhận bởi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng của Nhà nước. Quy phạm pháp luật tồn tại ở những hình thức được Nhà nước thừa nhận như: Văn bản quy phạm pháp luật tập quán và tiền lệ pháp. Thứ hai, pháp luật BHYT điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực BHYT. Các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực BHYT được hiểu là các mối quan hệ kinh tế - xã hội phát sinh trong quá trình tham gia, thụ hưởng BHYT theo nguyên tắc tương trợ cộng đồng, chia sẻ rủi ro liên quan đến các nội dung: đối tượng tham gia BHYT, điều kiện và quyền lợi hưởng BHYT của Người tham gia BHYT, tạo lập và sử dụng quỹ BHYT, hệ thống quản lý và tổ chức thực hiện BHYT, các chế tài áp dụng đối với những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHYT, các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực BHYT. Thứ ba, pháp luật BHYT hướng tới mục tiêu chăm sóc sức khỏe cộng đồng và không vì mục tiêu lợi nhuận. Đặc điểm này khẳng định sự khác biệt giữa pháp luật BHYT với các quy định về một số sản phẩm bảo hiểm thương mại được cung cấp bởi các tổ chức kinh doanh vì mục đích sinh lời. Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về pháp luật BHYT như sau: Pháp luật BHYT là tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực BHYT với mục tiêu chăm sóc sức khỏe cộng đồng, không vì lợi nhuận. 1.2.2. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật bảo hiểm y tế Nguyên tắc của pháp luật BHYT là những nguyên lý, tư tưởng chủ đạo xuyên suốt và chi phối toàn bộ các quy định pháp luật BHYT. Tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật BHYT trong việc xây dựng cũng như áp dụng các quy phạm pháp luật BHYT sẻ đảm bảo cho việc thực thi hiệu quả pháp luật BHYT. - Nguyên tắc thứ nhất: Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền hưởng 18 BHYT Cơ sở của nguyên tắc này xuất phát từ sự ra đời và mục đích của an sinh xã hội là vì con người với tư cách là thành viên của xã hội. An sinh xã hội chỉ đạt được mục đích của mình khi bảo vệ được tất cả các thành viên trong xã hội mà không có sự phân biệt theo tiêu chí nào. Công ước số 102 quy phạm tối thiểu về an sinh xã hội ngày 28/6/1952 khẳng định vấn đề chăm sóc y tế là một trong những nội dung quan trọng về quyền hưởng an sinh xã hội của con người. Trong phạm vi mỗi quốc gia, được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe là một trong những quyền cơ bản của công dân, được ghi nhận ở hầu hết trong hiến pháp các nước. Ở nước ta, quyền được chăm sóc sức khỏe được ghi nhận tại Điều 38, Hiến pháp 2013 như sau: “Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh”. Như vậy, quyền được hưởng chế độ BHYT là một nguyên tắc hiến định. Nguyên tắc tham gia bắt buộc không chỉ giới hạn ở một số đối tượng mà tiêu chí cần hướng tới là mở rộng độ bao phủ tới toàn bộ dân chúng, thực hiện BHYT bắt buộc toàn dân. Thực hiện chế độ đóng BHYT bắt buộc có chức năng hỗ trợ cho loại hình trợ cấp áp dụng đồng đều cho tất cả mọi người. Còn chế độ tự nguyện mang tính bổ trợ và bước đệm để mở rộng chế độ bắt buộc, mở rộng diện bao phủ tới toàn thể dân chúng. - Nguyên tắc thứ hai: Nhà nước thống nhất quản lý về BHYT Lịch sử ra đời của BHYT đã chứng minh một cách rõ nét nhất vai trò của nhà nước trong hoạt động BHYT, không thể tồn tại hoạt động BHYT theo đúng nguyên lý của nó nếu thiếu đi vai trò quản lý của nhà nước. Không có sự can thiệp của nhà nước hoạt động BHYT chỉ là những phương thức bảo vệ truyền thống mang tính tự phát, chỉ bao quát được một nhóm đối tượng nhất định trong xã hội và thường là những người có điều kiện kinh tế, các đối tượng “yếu thế” cần được bảo vệ sẽ nằm ngoài phạm vi bao phủ của BHYT. Sự can thiệp của nhà nước không chỉ xuất phát từ nhu cầu tất yếu đảm bảo sự ổn định, chắc chắn, công bằng trên diện rộng mà còn xuất phát từ chức năng xã hội của nhà nước. Cơ sở của nguyên tắc này nằm ngay 19 trong chính chức năng xã hội của nhà nước, với vai trò là người đại diện quản lý mọi mặt của đời sống xã hội. Vai trò quản lý nhà nước đối với BHYT thể hiện ở việc nhà nước định ra các chính sách, ban hành các văn bản luật để điều chỉnh các quan hệ BHYT và đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước. - Nguyên tắc thứ ba: Mức đóng theo thu nhập, mức hưởng theo mức độ bệnh tật và nhóm đối tượng Đây là nguyên tắc đặc thù của BHYT, thể hiện bản chất xã hội của BHYT. Đóng theo khả năng, hưởng theo nhu cầu bệnh lý được xem là tư tưởng xuyên suốt để xây dựng các quy định về BHYT. Mức đóng được xác định trên cơ sở mức thu nhập (tiền lương, tiền công), mức hưởng phụ thuộc vào mức độ bệnh lý và nhóm đối tượng. Bởi bản chất của BHYT là “lấy số đông bù số ít” nên việc xác định mức hưởng phải căn cứ vào tình trạng bệnh lý. Hơn nữa, BHYT dành cho mọi đối tượng, trong đó các nhóm đối tượng có sự chênh lệch nhau về điều kiện kinh tế, có những đối tượng cần có sự ưu đãi hơn như những đối tượng có công với cách mạng, đối tượng là trẻ em... Vì vậy, mức hưởng BHYT còn được xác định dựa trên từng nhóm đối tượng. 1.3. Nội dung pháp luật BHYT Tùy thuộc vào điều kiện kinh tể - xã hội mà mỗi quốc gia có những chính sách khác nhau về BHYT, song nhìn chung pháp luật BHYT của các quốc gia thường bao gồm những nội dung cơ bản sau: 1.3.1 Đối tượng tham gia BHYT Đối tượng tham gia BHYT là nội dung quan trọng của pháp luật BHYT, là mục tiêu hướng tới trong việc thực hiện BHYT toàn dân. Xác định đối tượng tham gia BHYT là cơ sở đầu tiên quyết định sự thành công hay thất bại của chính sách BHYT. Đối tượng tham gia BHYT theo khuyến cáo của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) là tiến tới bao phủ toàn bộ các thành viên trong xã hội. Nghiên cứu pháp luật BHYT một số quốc gia trên thế giới cho thấy: để từng bước mở rộng phạm vi đối tượng tham gia BHYT, hầu hết các quốc gia đều trải qua 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan