ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ THỦY
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG
Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ THỦY
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG
Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Doãn Hồng Nhung
HÀ NỘI - 2014
2
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
Ph¹m ThÞ Thñy
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
1
MỞ ĐẦU
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP
6
LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG Ở VIỆT NAM
1.1.
Khái niệm rừng và tài nguyên rừng
6
1.1.1.
Khái niệm rừng
6
1.1.2.
Khái niệm tài nguyên rừng
8
1.2.
Phân loại rừng
10
1.2.1.
Phân loại rừng căn cứ vào mục đích sử dụng
10
1.2.2.
Phân loại rừng căn cứ theo nguồn gốc hình thành
11
1.3.
Vai trò và ý nghĩa của bảo vệ tài nguyên rừng
12
1.3.1.
Bảo vệ rừng và tài nguyên rừng góp phần bảo vệ môi trường
12
và nâng cao chất lượng sống của con người
1.3.2.
Bảo vệ rừng và tài nguyên rừng góp phần vào sự phát triển
14
của kinh tế, giáo dục và khoa học
1.4.
Tổng quan về pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam
1.4.1.
Khái quát chung về pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng
1.4.2.
Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam qua các giai
16
17
đoạn từ năm 1945 đến nay
Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI
23
NGUYÊN RỪNG Ở VIỆT NAM
2.1.
Nội dung pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam
23
2.1.1.
Nguyên tắc bảo vệ tài nguyên rừng
23
4
2.1.2.
Quy hoạch và kế hoạch bảo vệ tài nguyên rừng
28
2.1.3.
Quản lý nhà nước về bảo vệ tài nguyên rừng
31
2.1.4.
Quy định trách nhiệm bảo vệ tài nguyên rừng của chủ rừng
40
2.1.5.
Bảo vệ hệ sinh thái rừng
42
2.1.6.
Bảo vệ động vật rừng và thực vật rừng
43
2.1.7.
Quy định về phòng trừ sinh vật gây hại rừng
55
2.1.8.
Thanh tra, kiểm tra trong bảo vệ tài nguyên rừng
57
2.1.9.
Xử lý vi phạm trong bảo vệ tài nguyên rừng
59
2.1.10. Quy định pháp luật về phòng cháy chữa cháy rừng
60
2.1.11. Hợp tác quốc tế về bảo vệ tài nguyên rừng
62
2.2.
69
Thực trạng áp dụng pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt
Nam
2.2.1.
Kết quả áp dụng pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng
69
2.2.2.
Những khó khăn tồn tại
70
2.2.3.
Nguyên nhân của những khó khăn tồn tại
74
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN
81
RỪNG Ở VIỆT NAM
3.1.
Định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng
81
3.1.1.
Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ tài
81
nguyên rừng
3.1.2.
Bảo vệ tài nguyên rừng dựa trên nền tảng văn hóa truyền
82
thống và kinh tế xã hội
3.1.3.
Hoàn thiện pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng phải phù hợp
83
với pháp luật trong nước và quốc tế
3.2.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng
84
3.2.1.
Hoàn thiện quy phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng
85
3.2.2.
Hoàn thiện phương thức tổ chức thực hiện về bảo vệ tài
90
nguyên rừng
3.2.3.
Hoàn thiện các biện pháp bổ trợ về bảo vệ tài nguyên rừng
5
93
99
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
6
101
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
ASEAN
Tiếng Anh
Tiếng Việt
Association of Southeast Asia Nations Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
CBD
Convention on Biological Diversity
Công ước quốc tề về Đa
dạng sinh học
CITES
IUCN
Convention on Intenational Trade in Công ước quốc tế về buôn
Endangered Species of Wild Fauna
bán các loài động, thực vật
and Flora
hoang dã nguy cấp
International Union for Conservation Liên minh Quốc tế Bảo tồn
of Nature and Natural Resouces
thiên nhiên và Tài nguyên
thiên nhiên
FAO
Food and Agriculture Organization
RAMSAR Convention on Wetlands of
International Importance
Tổ chức Lương Nông Quốc tế
Công ước về bảo vệ các vùng
đất ngập nước có tầm quan
trọng quốc tế
WWF
World Wide Fund For Nature
Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên
nhiên
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ thuở xa xưa, con người đã biết sử dụng nguồn tài nguyên
thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của mình. Xã hội thay đổi, đời sống con
người ngày càng được cải thiện, nhu cầu của con người không ngừng nâng
lên. Việc khai thác các nguồn tài nguyên nói chung và tài nguyên rừng nói
riêng ngày càng được con người quan tâm khai thác triệt để. Hậu quả của việc
khai thác triệt để đó là ngày nay con người đang phải đối mặt với sự suy giảm
mạnh các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong đó có tài nguyên rừng. Tài
nguyên rừng đang từng ngày, từng giờ bị tàn phá, sự tái tạo, tính cân bằng tự
nhiên của các cánh rừng gần như không còn nữa. Vai trò của rừng là duy trì
cân bằng hệ sinh thái và sự đa dạng sinh học trên hành tinh chúng ta, duy trì
tính ổn định, độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn
đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của thiên tai, bảo tồn nguồn nước mặt,
nước ngầm và làm giảm mức ô nhiễm không khí và nước. Rừng còn là nơi
cung cấp những cây gỗ quý, sản vật thiên nhiên, cây thuốc… cho con người.
Tuy nhiên trên thực tế nguồn tài nguyên rừng đang dần bị suy thoái. Những
năm qua, ở Việt Nam nạn phá rừng, mất rừng, cháy rừng… ngày càng nghiêm
trọng, hàng ngàn hécta rừng bị thu hẹp lại. Mất rừng và suy thoái rừng gây
nên hiện tượng sa mạc hóa, làm nghèo đất tại nhiều địa phương. Tình trạng đó
đã tạo ra hàng loạt các tác động tiêu cực và thách thức sự phát triển kinh tế, xã
hội và môi trường như gây ra lũ lụt, hạn hán, gây khó khăn trong việc cung
ứng lâm sản, làm giảm diện tích đất trồng khiến tình trạng nghèo đói và thất
nghiệp ở nhiều khu vực ngày càng đáng lo ngại, hơn nữa hiện tượng suy thoái
rừng đã làm phá vỡ các hệ sinh thái quan trọng khác. Hoạt động buôn bán
động vật hoang dã ở Việt Nam ngày một gia tăng. Minh chứng cho điều đó là
chỉ trong một thời gian ngắn, danh sách các loài động vật và thực vật hoang
8
dã sắp bị tuyệt chủng của Việt Nam tăng lên tới mức báo động. Mức độ đa dạng
sinh học của Việt Nam đang bị đe dọa nghiêm trọng. Việc xâm phạm rừng,
làm biến đổi môi trường sống của các loài theo hướng tiêu cực đang là một
trong những nguyên nhân chính khiến nhiều loài động vật trong Sách Đỏ Việt
Nam bị tuyệt chủng. Một số rất hiếm hoi còn lại đang có nguy cơ tuyệt chủng
rất cao. Hiểu rõ về hiện trạng rừng Việt Nam, tìm ra các biện pháp khắc phục
những hậu quả do suy thoái tài nguyên rừng gây ra đang là một vấn đề cấp
thiết hiện nay mà chúng ta cần quan tâm. Các văn bản pháp luật mới chỉ dừng
lại ở các quy định mà hiệu quả thực thi chưa cao. Do đó qua tìm hiểu và nghiên
cứu tác giả nhận thấy vấn đề bảo vệ tài nguyên rừng là một việc làm khẩn thiết
và hữu ích. Với suy nghĩ như vậy, tác giả lựa chọn đề tài: "Pháp luật về bảo vệ
tài nguyên rừng ở Việt Nam" để làm luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành:
Luật kinh tế. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá các quy định, văn bản pháp luật
khi chọn đề tài nghiên cứu này, trước hết là một nỗ lực nhằm có được một sự
hiểu biết sâu hơn về pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng, và sau đó đưa ra một
số phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng và giải pháp
để thực thi một cách hiệu quả các quy định trong thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Bảo vệ tài nguyên rừng có một tầm quan trọng nhất định, chính vì vậy
trong những năm gần đây đã có các công trình, nhiều tác giả nghiên cứu vấn
đề này. Có thể kể đến như: "Pháp luật bảo vệ môi trường rừng ở Việt Nam thực
trạng và phương hướng hoàn thiện", Luận văn thạc sĩ Luật học, của Nguyễn Hải
Âu, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2001; "Một số vấn đề cơ bản về pháp
luật bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay", Luận văn thạc sĩ Luật học, của Nguyễn
Thanh Huyền, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004; "Quản lý nhà
nước bằng pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng", Luận án tiến sĩ Luật học, của
Hà Công Tuấn, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006; "Hoàn
thiện pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam hiện nay", Luận
án tiến sĩ Luật học, của Nguyễn Thanh Huyền, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
9
Nội, năm 2012; "Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ các loài động, thực vật nguy
cấp, quý, hiếm", Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, của Hoàng Hiền Lương,
Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2009; "Pháp luật về buôn bán động, thực vật
hoang dã", Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, của Nguyễn Thị Hoa, Trường
Đại học Luật Hà Nội, năm 2012. Ngoài ra, còn phải kể đến các bài viết về bảo
vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam và bảo vệ các loài động vật, thực vật rừng nguy
cấp, quý, hiếm như: "Quản lý bảo vệ rừng trên cơ sở cộng đồng", của TS.
Nguyễn Huy Dũng, Tạp chí Bảo vệ môi trường, số 12/2008; "Sử dụng luật tục
hương ước một chiến lược quản lý rừng", của ThS. Hà Công Tuấn, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 03/2006; "Nghiên cứu một số tội phạm xâm hại môi
trường rừng được quy định tại chương XVII- Các tội xâm phạm môi trường
trong Bộ luật hình sự năm 1999", của Nguyễn Thanh Huyền, Tạp chí Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, tháng 6/2008; "Nghiên cứu chính sách thuế
trong phát triển lâm nghiệp", của Nguyễn Thanh Huyền, Tạp chí Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, tháng 5/2007; "Bàn về tội hủy hoại rừng theo
điều 189 Bộ luật hình sự", của Nguyễn Văn Dũng, Tạp chí Tòa án nhân dân,
số 9/2009; "Vướng mắc cần giải quyết trong việc áp dụng điều 190 bộ luật
hình sự về tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm",
của Nguyễn Duy Giảng, Tạp chí Kiểm sát, số 4/2009; "Hương ước, quy ước
trong quản lý bảo vệ rừng và tài nguyên thiên nhiên", của Bàn Văn Trung,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 6/2010; "Một số khó khăn,
vướng mắc khi áp dụng các quy định về quản lý, khai thác và bảo vệ rừng",
của Cao Anh Đức, Tạp chí Kiểm sát, số 22/2010; "Về tội vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng tại điều 175 Bộ luật hình sự", của Phạm Văn
Beo, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2010; "Quyền tài sản của chủ rừng đôi
điều bàn luận", của Nguyễn Thanh Huyền, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
10/2011; "Nghiên cứu một số quy định pháp luật về bảo vệ và phát triển thực
vật, động vật hoang dã ở Việt Nam", của Nguyễn Thanh Huyền, Tạp chí
Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, tháng 6/2011; "Hoàn thiện quy chế
10
pháp lý cho cá nhân nước ngoài thuê rừng, đất rừng tại Việt Nam", của
Nguyễn Thanh Huyền, Tạp chí Khoa học, (Luật học), số 27/2011; "Công tác
phòng chống vi phạm pháp luật về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm ở nước
ta một số khó khăn, vướng mắc và giải pháp khắc phục", của Đặng Thu Hiền,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 5/2011; "Thực trạng công tác phòng, chống
tội phạm và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực buôn bán động vật hoang dã, quý,
hiếm ở nước ta", của Trần Minh Hưởng, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2012; "Hoàn
thiện pháp luật đối với chủ rừng là doanh nghiệp có vốn đầu tư nhà nước",
của Nguyễn Thanh Huyền, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4, tháng 2/2012.
Các công trình nghiên cứu, bài viết, đề tài trên đây đã chỉ ra vai trò
quan trọng của pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng nói chung và bảo vệ
động vật và thực vật rừng nói riêng. Tuy nhiên, cùng với xu hướng hội nhập
với nền kinh tế khu vực và thế giới thì thực trạng suy thoái rừng ngày càng
diễn ra mạnh. Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng có những bước phát triển
và đổi mới cần được tổng hợp và nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu một số các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
bảo vệ tài nguyên rừng.
Làm rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam.
Qua đó đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật và trên cơ sở đó rút ra
một số kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm pháp luật cũng như
nhận thức của cộng đồng trong việc bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu "Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam".
Tuy nhiên, trong luận văn này tác giả không có tham vọng đi sâu nghiên cứu
toàn bộ nội dung điều chỉnh của pháp luật hiện hành về bảo vệ tài nguyên
rừng ở Việt Nam, mà tác giả nghiên cứu một số quy định của pháp luật về bảo
vệ tài nguyên rừng nói chung và pháp luật về bảo vệ động vật và thực vật
rừng nói riêng. Thông qua đó đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật để tìm ra
11
vướng mắc, từ đó mạnh dạn đưa ra một số đánh giá và kiến nghị hoàn thiện.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trong việc nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp bình luận, phân
tích, so sánh, thống kê… nhằm giải quyết các yêu cầu của luận văn đặt ra.
Ngoài ra, đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những nguyên tắc, quan điểm
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế, quốc tế.
Đồng thời tác giả cũng có sự tham khảo các công trình nghiên cứu liên
quan đến vấn đề này, nhằm hoàn thành bài luận văn.
6. Kết quả và ý nghĩa nghiên cứu
Luận văn phân tích một cách khái quát một số các quy định của pháp
luật về vấn đề bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam.
Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật của công tác bảo vệ tài nguyên
rừng ở Việt Nam. Thông qua đó đánh giá một số những bất cập của pháp luật
Việt Nam hiện hành về vấn đề này.
Kết quả nghiên cứu, những định hướng giải pháp của đề tài góp phần
nhỏ vào việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng
ở Việt Nam.
Đồng thời kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho các sinh viên, những người nghiên cứu chuyên hoặc không
chuyên về pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về bảo vệ tài
nguyên rừng ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp về luật bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam.
12
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam.
13
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM RỪNG VÀ TÀI NGUYÊN RỪNG
1.1.1. Khái niệm rừng
Rừng không chỉ có ý nghĩa với sự phát triển của đất nước mà còn có ý
nghĩa thiết thực với đời sống con người. Pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng
ở Việt Nam hiện nay mà cụ thể là Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004
tại Điều 3 khoản 2 đã định nghĩa như sau:
Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng,
động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường
khác, trong đó cây gỗ, tre nứa, thực vật hoặc hệ thực vật đặc trưng
là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng
gồm: rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng
phòng hộ, đất rừng đặc dụng [31].
Như vậy theo quy định mà pháp luật Việt Nam hiện hành đã đưa ra thì
khái niệm rừng được biết đến một cách khái quát gồm có rừng trồng và rừng
tự nhiên. Trong quy định này, khái niệm rừng được biết đến với đầy đủ các
thành phần hệ sinh thái rừng một cách đa dạng và phong phú gồm cả thực vật,
động vật, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác. Tuy nhiên,
cây gỗ, tre nứa, thực vật hoặc hệ thực vật đặc trưng phải thỏa mãn điều kiện
về độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên.
Để có thể hiểu cặn kẽ hơn cho khái niệm về rừng trong Luật Bảo vệ
và phát triển rừng năm 2004 thì Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã
ban hành Thông tư số 34/2009/TT-BNNPTNT ngày 10/6/2009 quy định về
tiêu chí xác định rừng và phân loại rừng. Cụ thể, tại Điều 3 của Thông tư này
đã nêu rõ, một đối tượng được xác định là rừng nếu đạt được cả 3 tiêu chí sau:
14
Tiêu chí thứ nhất: Là một hệ sinh thái, trong đó thành phần chính là
các loài cây lâu năm thân gỗ, cau dừa có chiều cao vút ngọn từ 5,0 mét trở lên
(trừ rừng mới trồng và một số loài cây rừng ngập mặn ven biển), tre nứa,…có
khả năng cung cấp gỗ, lâm sản ngoài gỗ và các giá trị trực tiếp và gián tiếp
khác như bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường và cảnh quan. Rừng
mới trồng các loài cây thân gỗ và rừng mới tái sinh sau khai thác rừng trồng
có chiều cao trung bình trên 1,5m đối với loài cây sinh trưởng chậm, trên
3,0m đối với loài cây sinh trưởng nhanh và mật độ 1.000cây/ha trở lên được
coi là rừng. Các hệ sinh thái nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản có rải rác một
số cây lâu năm là cây thân gỗ, tre nứa, cau dừa…không được coi là rừng [5].
Với tiêu chí này thì đã quy định cụ thể với các loài cây thân gỗ, cau
dừa, tre nứa…thì chiều cao phải đảm bảo từ 5,0 mét trở lên, rừng cây thân gỗ,
rừng tái sinh phải đảm bảo chiều cao trung bình trên 1,5m với cây sinh trưởng
chậm và 3,0m đối với loài cây sinh trưởng nhanh và các loài cây này phải
mang lại giá trị trực tiếp và gián tiếp về vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học, bảo
vệ môi trường cảnh quan thì thỏa mãn tiêu chí thứ nhất để xác định là rừng.
Tiêu chí thứ hai: Độ tàn che của tán cây rừng là thành phần chính của
rừng phải từ 0,1 trở lên[5]. Với tiêu chí thứ hai này để xác định một đối tượng
là rừng được hiểu, cây rừng là thành phần chính của rừng phải có mức độ che
kín đảm bảo độ che phủ theo quy định Tại khoản 2 Điều 3 Luật Bảo vệ và
phát triển rừng năm 2004 "Độ che phủ của tán rừng được xác định là mức độ
che kín của tán cây rừng đối với đất rừng, được biểu thị bằng tỷ lệ phần mười
giữa diện tích đất rừng bị tán cây rừng che bóng và diện tích đất rừng" [31].
Phải đảm bảo được quy định về độ tàn che thì thỏa mãn tiêu chí thứ hai để xác
định rừng.
Tiêu chí thứ ba: Diện tích liền khoảnh tối thiểu từ 0,5ha trở lên, nếu là
dải cây rừng phải có chiều rộng tối thiểu 20 mét và có từ 3 hàng cây trở lên.
Cây rừng trên các diện tích tập trung dưới 0,5ha hoặc dải rừng hẹp dưới 20 mét
15
được gọi là cây phân tán[5]. Với tiêu chí thứ ba này thì một đối tượng được
xác định là rừng ngoài vấn đề phải thỏa mãn hai yếu tố về độ cao của cây, độ
tàn che của cây rừng thì phải thỏa mãn điều kiện về diện tích đất rừng.
1.1.2. Khái niệm tài nguyên rừng
Để có thể hiểu sâu khái niệm tài nguyên rừng trước tiên phải hiểu khái
niệm về tài nguyên "Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, tri thức được sử
dụng để tạo ra của cải vật chất, hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới của con người.
Phân theo quan hệ với con người thì tài nguyên được chia thành hai loại là tài
nguyên thiên nhiên và tài nguyên xã hội" [55].
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên
khai được hình thành và tồn tại trong tự nhiên mà con người có thể
khai thác, chế biến và sử dụng. Tài nguyên thiên nhiên là toàn bộ
giá trị vật chất sẵn có trong tự nhiên là những điều kiện cần thiết
cho sự tồn tại của xã hội loài người. Các loại tài nguyên thiên nhiên
được phân thành hai loại: Tài nguyên tái tạo là tài nguyên có thể tự
duy trì hoặc tự bổ sung một cách liên tục khi được quản lý một cách
hợp lý và tài nguyên không tái tạo là loại tài nguyên tồn tại hữu
hạn, sẽ mất đi hoặc biến đổi sau quá trình sử dụng [64].
"Tài nguyên rừng là một phần của tài nguyên thiên nhiên, thuộc loại
tài nguyên tái tạo được. Nhưng nếu sử dụng không hợp lý, tài nguyên rừng có
thể bị suy thoái không thể tái tạo lại" [57].
Rừng theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Bảo vệ và phát triển rừng
năm 2004 quy định "rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng,
động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong
đó cây gỗ, tre nứa, thực vật hoặc hệ thực vật đặc trưng …" [31].
Tài nguyên rừng có vai trò rất quan trọng đối với khí quyển,
đất đai, mùa màng, cung cấp các nguồn gen động thực vật quý hiếm
cùng nhiều lợi ích khác. Rừng giúp điều hòa nhiệt độ, nguồn nước
16
và không khí. Con người có thể sử dụng tài nguyên thiên nhiên này
để khai thác, sử dụng hoặc chế biến ra những sản phẩm phục vụ cho
nhu cầu đời sống. Ở những vùng khí hậu khác nhau thì tài nguyên
rừng cũng khác nhau [57].
Thông qua khái niệm về rừng có thể thấy tài nguyên rừng gồm: Thực
vật rừng trước hết phải kể đến những loài cây thân gỗ đây là một loại tài
nguyên chính mà rừng cung cấp phục vụ cho đời sống con người.
Sơ bộ thống kê hiện nay trên thế giới có khoảng trên 100
ngành dùng gỗ làm nguyên, vật liệu với trên 22.000 công việc khác
nhau và sản xuất ra hơn 20.000 loại sản phẩm. Gỗ là nguyên liệu,
vật liệu được con người sử dụng lâu đời và rộng rãi, là một trong
những vật tư chủ yếu của nền kinh tế quốc dân. Gỗ được sử dụng rất
rộng rãi trong công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, kiến
trúc, xây dựng, khai khoáng. Ngoài ra gỗ còn được dùng làm văn
phòng phẩm, nhạc cụ, dụng cụ thể dục thể thao, đóng toa tầu, thùng
xe, thuyền, phà, cầu cống, bàn ghế và dụng cụ học sinh, đồ dùng
gia đình, công sở và chuyên dùng như bệnh viện, thư viện... [44].
Ngoài ra, các loài cây thân gỗ còn là nhân tố quan trọng trong việc bảo
vệ đất, bảo vệ nước và điều hòa khí hậu, lưu lượng nước. Ngoài gỗ rừng còn
cung cấp một lượng lớn các sản phẩm từ cây rừng được con người sử dụng
làm củi, than gỗ, thực hiện du lịch giải trí…mang lại nguồn lợi nhuận lớn.
Động vật rừng và các loài sinh vật hoang dại và các loại cây thuộc quần thể
sinh học từ rừng được con người sử dụng để lai tạo, cung cấp nguồn gen quý,
cải tiến các giống cây trồng, vật nuôi cho có khả năng chống lại dịch bệnh,
thời tiết khắc nghiệt cho năng suất cao, chất lượng tốt. Thêm vào đó một
lượng thực phẩm, dược phẩm lớn được cung cấp từ nguồn thực vật và động
vật hoang dã rừng. Đồng thời tài nguyên rừng còn là những diện tích đất màu
mỡ, một trữ lượng nước lớn đảm bảo cho cây rừng, động vật rừng sinh sống
17
phát triển tạo nguồn cung cấp phục vụ con người. Ngoài ra rừng cung cấp
nguồn ôxy dồi dào, chống xói mòn, giảm ô nhiễm, hạn chế thiên tai, cân bằng
khí hậu…Như vậy nguồn tài nguyên rừng có giá trị rất lớn đối với đời sống
con người, vấn đề đặt ra là phải bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên này.
1.2. PHÂN LOẠI RỪNG
1.2.1. Phân loại rừng căn cứ vào mục đích sử dụng
Thứ nhất là rừng phòng hộ: Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật
Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 quy định "Rừng phòng hộ được sử dụng
chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất chống xói mòn, chống sa mạc hóa,
hạn chế thiên tai, điều hòa khí hậu, góp phần bảo vệ môi trường" [31]. Rừng
phòng hộ đầu nguồn là nơi phát sinh hoặc bắt đầu nguồn nước tạo thành các
dòng chảy cấp nước cho các hồ chứa trong mùa khô, hạn chế lũ lụt, chống xói
mòn và bảo vệ đất. Rừng phòng hộ gồm những rừng có sẵn trong tự nhiên,
chủ yếu là rừng hỗn giao gồm nhiều tầng, không đều tuổi, mật độ dày, có dễ
sâu, bền, chắc; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay là rừng phòng hộ ven
biển được thành lập với mục đích chống gió hạn, cát bay, ngăn chặn sự xâm
mặn của biển; rừng phòng hộ chắn sóng, lấn biển là rừng phòng hộ ven biển
được thành lập với mục đích chống sóng lấn biển, chống sạt lở, bảo vệ các
công trình ven biển; rừng phòng hộ bảo vệ môi trường nhằm mục đích điều
hòa khí hậu, chống ô nhiễm môi trường trong các khu dân cư, khu đô thị và
khu du lịch [58].
Thứ hai là rừng đặc dụng: Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Bảo
vệ và phát triển rừng năm 2004 quy định:
Rừng đặc dụng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên,
mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng;
nghiên cứu khoa học; bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa, danh lam
thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp phòng hộ, góp phần
bảo vệ môi trường, bao gồm: Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên
18
nhiên gồm khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài - sinh cảnh; khu
bảo vệ cảnh quan gồm khu di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng
cảnh; khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học [31].
Theo như mục đích sử dụng của rừng đặc dụng thì nơi đây được sử
dụng là nơi nghiên cứu khoa học, là nơi để học tập, thực tập, bảo tồn nguồn
gen, bảo vệ nguồn nước, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn những nét văn
hóa. Đó là chức năng, vai trò, hiệu quả sử dụng của rừng đặc dụng.
Thứ ba là rừng sản xuất: Theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật Bảo
vệ và phát triển rừng năm 2004 quy định:
Rừng sản xuất được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh
doanh gỗ, lâm sản ngoài gỗ và kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ
môi trường, bao gồm: rừng sản xuất là rừng tự nhiên; rừng sản xuất
là rừng trồng; rừng giống gồm rừng trồng và rừng tự nhiên qua bình
tuyển, công nhận [31].
Mục đích của rừng sản xuất để phát triển kinh doanh, sản xuất đồng
thời góp phần vào gìn giữ và bảo vệ môi trường. Tùy từng loại rừng sản xuất
là rừng tự nhiên hay rừng trồng mà được đưa vào sử dụng để quản lý, kinh
doanh bảo vệ và phát triển.
Như vậy tùy theo mục đích sử dụng mà pháp luật quy định về việc
phân loại rừng. Rừng phòng hộ thì được sử dụng để bảo vệ hệ sinh thái, bảo
vệ cuộc sống con người. Rừng đặc dụng được sử dụng với mục đích bảo tồn
thiên nhiên. Rừng sản xuất được sử dụng với mục đích sản xuất, phát triển
kinh doanh đồng thời kết hợp với bảo vệ môi trường.
1.2.2. Phân loại rừng căn cứ theo nguồn gốc hình thành
Ngoài cách phân loại trên pháp luật Việt Nam, mà cụ thể là tại Điều 5,
Điều 6, Điều 7, Điều 8 Thông tư số 34/2009/TT-BNNPTNT ngày 10/06/2009
quy định tiêu chí xác định và phân loại rừng thì rừng còn phân loại theo
nguồn gốc hình thành như sau:
19
Rừng được phân thành hai loại là rừng tự nhiên là có sẵn trong tự
nhiên hoặc phục hồi bằng tái sinh tự nhiên và rừng trồng là rừng được hình
thành do con người trồng; phân loại rừng theo điều kiện lập địa thì bốn loại
là rừng núi đất, rừng núi đá, rừng ngập mặn và rừng trên cát; phân loại rừng
theo các loại cây thì gồm bốn loại, rừng gỗ là loại rừng bao gồm chủ yếu các
loại cây thân gỗ trong đó có rừng cây lá rộng; rừng tre nứa; rừng cau dừa và
rừng hỗn giao tre nứa; phân loại theo trữ lượng thì được phân loại đối với
rừng gỗ gồm các loại rừng là rừng rất giàu: trữ lượng cây đứng trên 300 m3/ha;
rừng giàu: trữ lượng cây đứng từ 201- 300 m3/ha; rừng trung bình: trữ lượng
cây đứng từ 101 - 200 m3/ha; rừng nghèo: trữ lượng cây đứng từ 10 đến 100
m3/ha; rừng chưa có trữ lượng: rừng gỗ đường kính bình quân < 8 cm, trữ
lượng cây đứng dưới 10 m3/ha. Ngoài ra đối với rừng tre nứa thì rừng được
phân theo loài cây, cấp đường kính và cấp mật độ [5].
Như vậy, tùy theo nguồn gốc hình thành, rừng được phân thành các
loại như rừng tự nhiên, rừng trồng, rừng núi đất, rừng núi đá, rừng ngập mặn,
rừng trên cát...và cách phân loại rõ ràng này đã thể hiện được cụ thể các loại
rừng ở nước ta hiện nay.
1.3. VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG
1.3.1. Bảo vệ rừng và tài nguyên rừng góp phần bảo vệ môi trƣờng
và nâng cao chất lƣợng sống của con ngƣời
1.3.1.1. Góp phần bảo vệ môi trường sống của con người
Bảo vệ rừng và tài nguyên rừng là góp phần bảo vệ nguồn nước:
Rừng góp phần duy trì chất lượng nguồn nước sạch. Hơn
3/4 lượng nước sạch trên trái đất bắt nguồn từ rừng. Chất lượng
nước suy giảm cùng với sự suy giảm chất lượng và diện tích che
phủ của rừng, thiên tai như lũ lụt, lở đất và thoái hóa đất đã gây ra
những tác động nghiêm trọng tới cuộc sống của con người và các
sinh vật trên trái đất [53].
20
- Xem thêm -