ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
THIỀU THỊ CHIÊN
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH VINASHIN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
THIỀU THỊ CHIÊN
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH VINASHIN
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60.38.50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học : TS Nguyễn Thị Lan Hương
Hà Nội – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn
trong luận văn là trung thực, chính xác. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn
Thiều Thị Chiên
MỤC LỤC
MỤC LỤC ......................................................................................................
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .........................................................................
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ......................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 3
5. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn ................................................ 3
6. Bố cục của luận văn .................................................................................... 4
Chương 1: Tổng quan về công ty tài chính và pháp luật về hoạt động tín
dụng của công ty tài chính………………………………………………….4
1.1 Khái quát chung về CTTC và hoạt động tín dụng của CTTC ............. 4
1.1.1 Khát quát về CTTC............................................................................ 4
1.1.2 Hoạt động tín dụng và hoạt động tín dụng của CTTC ...................... 11
1.2 Pháp luật về hoạt động tín dụng của CTTC ....................................... 15
1.2.1 Pháp luật về việc huy động vốn của CTTC ...................................... 16
1.2.2 Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của CTTC ............................... 28
1.2.3 Pháp luật về các quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động cấp tín
dụng của CTTC ........................................................................................ 41
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty tài
chính và thực tiễn áp dụng tại công ty tài chính Vinashin………………47
2.1 Thực trạng pháp luật về hoạt động tín dụng của công ty tài chính ... 47
2.1.1 Bất cập về cơ chế huy động vốn…………………………………..47
2.1.2 Bất cập trong cơ chế cấp tín dụng .................................................... 48
2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động tín dụng tại CTTC
Vinashin ...................................................................................................... 50
2.2.1 Giới thiệu về công ty tài chính Vinashin……………………………50
2.2.2 Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của công ty tài chính
Vinashin…………………………………………………………………..52
2.2.3 Thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động tín dụng tại công ty
tài chính
Vinashin………………………………………………………………55
Chương 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của
công ty tài chính và một số kiến nghị trong hoạt động tín dụng của công
ty tài chính Vinashin………………………………………………………66
3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của CTTC 66
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng
của CTTC ................................................................................................... 67
3.2.1 Về huy động vốn: ............................................................................ 68
3.2.2 Về cấp tín dụng ............................................................................... 70
3.2.3 Về mở tài khoản thanh toán ............................................................. 70
3.2.4 Về cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các CTTC .................... 71
3.3 Các kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại VFC ......... 72
3.3.1 Hoàn thiện hệ thống các quy định nội bộ về hoạt động tín dụng và
giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn ........................................................... 72
3.3.2 Hoàn thiện cơ chế huy động vốn trong tập đoàn ............................. 73
3.3.3 Xây dựng chính sách huy động vốn từ các nguồn ngoài Tập đoàn .. 74
3.3.4 Đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả các hình thức cấp tín dụng ......... 74
3.3.5 Cổ phần hóa VFC ........................................................................... 74
KẾT LUẬN ................................................................................................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 77
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT TỪ VIẾT TẮT
Ý NGHĨA
1 CTTC Công ty Tài Chính
2 VFC Công ty Tài chính TNHH MTV Công nghiệp
tàu thủy
3 TCTD Tổ chức Tín Dụng
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Trong những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế,
hoạt động ngân hàng không ngừng tăng trưởng về quy mô, mạng lưới giao
dịch, năng lực tài chính, năng lực điều hành, sản phẩm ngày càng đa dạng…
Tài chính - ngân hàng đang trở thành một lĩnh vực kinh doanh đầy tiềm
năng, hứa hẹn nhiều thời cơ, lợi nhuận, nhưng cũng ẩn chứa không ít rủi
ro…Bên cạnh hệ thống các ngân hàng thương mại, các CTTC là một định chế
tài chính được rất nhiều các tổng công ty trong nước và các tập đoàn tài chính
lớn trên thế giới quan tâm đầu tư và xin thành lập. Là một quốc gia đang phát
triển, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn, khối khách hàng
doanh nghiệp tư nhân loại vừa và nhỏ đang rất cần vốn nhưng khó vay vốn từ
các ngân hàng lớn. Với những thủ tục đơn giản hơn thành lập ngân hàng, vốn
điều lệ không quá cao thì đây là cơ hội tốt cho các tập đoàn, tổng công ty lớn
tham gia thị trường tài chính Việt Nam thông qua việc thành lập các CTTC.
Đặc biệt khi Ngân hàng Nhà nước nâng điều kiện cấp phép và sau đó quyết
định tạm ngưng việc cấp phép thành lập Ngân hàng thương mại cổ phần thì
phong trào thành lập CTTC lại nở rộ. Hiện tại, tỷ lệ người dân Việt Nam sử
dụng các dịch vụ tài chính, ngân hàng chỉ khoảng 20% trong lúc nguồn vốn
trong dân còn rất lớn. Các CTTC ra đời cũng sẽ góp phần cơ cấu lại thị trường
tiền tệ theo hướng nâng cao sức cạnh tranh và tính thanh khoản cho các tổ
chức tín dụng, đa dạng hoá các sản phẩm tài chính-tín dụng, tạo ra nhiều kênh
huy động và phân các nguồn vốn trong xã hội một cách linh hoạt góp phần
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ở nước ta, phần lớn các CTTC ra đời với mục đích đáp ứng nhu cầu
thu xếp vốn trong nội bộ các tổng công ty, tập đoàn lớn; hầu hết các tổng
công ty, tập đoàn này thuộc sở hữu của nhà nước. Các CTTC có được một
hành lang pháp lý phù hợp để thúc đẩy hoạt động của mình cũng có nghĩa là
thúc đẩy hoạt động của các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước trước
sức ép cạnh tranh của hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, một thực tế không thể phủ nhận là hoạt động của các CTTC
ở Việt Nam còn mới mẻ và chưa có định hướng rõ ràng. Đặc biệt, pháp luật
điều chỉnh tổ chức và hoạt động của công ty tài chính còn chưa hoàn chỉnh và
đồng bộ, có một số quy định đến nay đã không còn phù hợp. Đặc biệt sự ra
đời của Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã dẫn đến nhiều thay
đổi quan trọng về tổ chức và hoạt động của CTTC – một định chế tài chính có
vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Hệ thống các CTTC hiện nay đang rất
cần có một hành lang pháp lý phù hợp để hoạt động ngày một hiệu quả hơn.
Với mong muốn đó, tác giả đã chọn đề tài: “Pháp luật về hoạt động tín dụng
của CTTC và thực tiễn áp dụng tại CTTC Vinashin”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
So với các định chế tài chính khác như các ngân hàng, công ty chứng
khoán…thì các vấn đề pháp lý về loại hình CTTC ít được quan tâm hơn. Đã
có nhiều công trình nghiên cứu pháp luật về tổ chức tín dụng nói chung, tuy
nhiên các nghiên cứu về pháp luật điều chỉnh riêng hoạt động của CTTC thì
chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ thống và đầy đủ về
vấn đề này.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống
về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những kiến nghị của
đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy
định pháp luật của Việt Nam nhằm mục đích đảm bảo một môi trường pháp lý
phù hợp với đặc thù riêng của hệ thống các CTTC ở Việt Nam.
Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là
một tài liệu tham khảo có giá trị.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và các quy định pháp
luật điều chỉnh hoạt động tín dụng của CTTC hiện nay và thực tiễn áp dụng
tại CTTC Vinashin. Đặc biệt Luận văn có đi sâu phân tích các quy định mới
được ban hành từ năm 2010 liên quan đến hoạt động tín dụng của CTTC.
Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá
thực trạng pháp luật về hoạt động tín dụng của CTTC thông qua việc phân
tích các ưu điểm và bất cập của các quy định pháp luật hiện hành và các
vướng mắc cụ thể trong quá trình áp dụng pháp luật tại CTTC Vinashin. Qua
đó tác giả có nêu lên những kiến nghị có thể áp dụng trong việc hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh hoạt động tín dụng của CTTC. Đề tài chỉ nghiên cứu
pháp luật về hoạt động tín dụng của CTTC, không nghiên cứu pháp luật về
các hoạt động khác cũng như pháp luật về tổ chức của loại hình tổ chức tín dụng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sẽ sử dụng phương pháp chủ yếu là phân tích các quy định
pháp luật Việt Nam hiện hành, so sánh với thông lệ quốc tế, từ đó rút ra
những ưu điểm và những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật điều
chỉnh hoạt động tín dụng của các CTTC hiện nay, nhằm tạo một môi trường
pháp lý hoàn thiện cho hệ thống các CTTC phát triển một cách đồng bộ, có
định hướng.
5. Dự kiến những đóng góp mới của Luận văn
Luận văn là một cái nhìn tổng quan, khái quát những quy định của pháp
luật hiện hành về pháp luật điều chỉnh hoạt động tín dụng của CTTC, trong đó
bao gồm cả những chính sách pháp luật mới được ban hành trong thời gian
gần đây. Với việc phân tích sự phù hợp và bất cập của các quy định này, luận
văn đưa ra những nhận xét và kiến nghị phù hợp để có thể tạo môi trường
pháp lý tốt nhất cho hoạt động tín dụng của CTTC nói chung và CTTC
Vinashin nói riêng.
6. Bố cục của Luận văn
Bố cục của Luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về công ty tài chính và pháp luật về hoạt động
tín dụng của công ty tài chính
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động tín dụng của Công ty tài
chính và thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động tín dụng của Công ty tài
chính Vinashin
Chương 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật và một số kiến nghị trong
hoạt động tín dụng của Công ty tài chính Vinashin
Chương 1
Tổng quan về Công ty tài chính và pháp luật về hoạt động tín dụng
của Công ty tài chính
1.1 Khái quát chung về Công ty tài chính và hoạt động tín dụng của Công
ty tài chính
1.1.1 Khát quát về Công ty tài chính
a. Khái niệm, đặc điểm của
Công ty tài chính
Trên thế giới, thuật ngữ “Công ty tài chính” không còn gì mới lạ, các
nhà tư bản đã quá quen với các hoạt động, cũng như vai trò của nó trên thị
trường tài chính tiền tệ. Công ty tài chính (CTTC) cùng các Ngân hàng
thương mại có tầm quan trọng rất lớn và được coi như là xương sống của nền
kinh tế.
Có thể nói sự ra đời của CTTC là một tất yếu khách quan của nền kinh
tế thị trường, nó tồn tại và hoạt động tuân theo các quy luật của nền kinh tế
với chức năng luân chuyển và điều tiết vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Trên thế giới, ở các nước tư bản, các CTTC xuất hiện rất sớm và phát
triển với tốc độ nhanh chóng. Cùng với sự ra đời này, pháp luật các nước đều
có những quy định pháp lý làm nền tảng cho các CTTC tồn tại và hoạt động.
Ở Thụy Điển, các CTTC được thành lập từ giữa năm 1960 phát triển
mạnh vào những năm 1970 và hiện nay CTTC là một trong những nhân tố
quan trọng thực hiện chính sách tín dụng của Nhà nước. Ngay từ khi nền kinh
tế đòi hỏi sự ra đời của các CTTC các nhà lập pháp Thụy Điển cũng đã có
ngay các quy định pháp luật quy định chức năng hoạt động cũng như phạm vi
hoạt động của nó.
Ở Nhật Bản, các CTTC được hình thành từ giữa những năm 50 nhằm hỗ
trợ vốn cho các cơ sở kinh doanh nhỏ và đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ cho lợi
ích tiêu dùng của người dân Nhật Bản. Cho tới nay đã có hàng loạt các CTTC ra
đời, nhiều công ty đã nổi lên và chiếm các vị trí quan trọng trong hệ thống các tổ
chức tài chính Nhật Bản, chi phối hoạt động của nhiều lĩnh vực kinh tế, không
những trong phạm vi đất nước Nhật Bản mà còn vươn ra thế giới với tư cách là
những tập đoàn tài chính khổng lồ. Cùng với sự phát triển của CTTC thì sự điều
chỉnh của pháp luật đối với CTTC ngày càng hoàn thiện hơn.
Như vậy có thể thấy tùy đặc điểm và tình hình nền kinh tế mỗi nước mà
các CTTC có thể có phạm vi hoạt động khác nhau song chúng vẫn hoạt động
với mục đích chính là luân chuyển, khơi thông dòng vốn, thúc đẩy vòng chu
chuyển và tăng hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
Ở Việt Nam, so với hệ thống Ngân hàng thì CTTC là một mô hình
TCTD khá mới. Sự ra đời hệ thống ngân hàng tại Việt Nam được đánh dấu
bằng sắc lệnh số 15/SL ngày 06/5/1951 do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ký. Kể từ khi thành lập, trải qua nhiều giai đoạn phát triển, tới nay
hệ thống Ngân hàng đã được phân chia thành Ngân hàng Nhà nước với chức
năng quản lý điều tiết nền kinh tế tiền tệ và các Ngân hàng chuyên doanh
khác. Trong khi đó, CTTC chỉ mới được chính thức thừa nhận thông qua
Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và CTTC do Hội đồng Nhà nước
ban hành ngày 24/5/1990. Theo đó “CTTC, công ty quốc doanh hoặc cổ phần
hoạt động chủ yếu là cho vay để mua bán hàng hóa dịch vụ bằng nguồn vốn
của mình hoặc vay trong dân cư”
Những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX cho thấy
mức độ khát vốn nghiêm trọng của nền kinh tế Việt Nam. Các doanh nghiệp
thuộc mọi quy mô, hình thức, thành phần đều thiếu vốn. Nhu cầu điều tiết vốn
trên thị trường làm nảy sinh hàng loạt các quỹ tín dụng với rất nhiều điểm tương đồng với CTTC là huy động tiền gửi trong dân cư và hỗ trợ các doanh
nghiệp nhỏ.
Cùng sự lớn mạnh của nền kinh tế, sự biến chuyển của thị trường trong
nước và quốc tế năm 1997, Quốc hội nước ta đã ban hành Luật các TCTD quy
định về tổ chức, hoạt động của các TCTD và hoạt động ngân hàng của các tổ
chức khác ở Việt Nam. Tại Luật các TCTD ngày 12/12/1997 CTTC chưa
được định nghĩa đầy đủ, song được xếp vào TCTD phi ngân hàng. TCTD phi
ngân hàng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh
doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không
làm dịch vụ thanh toán. TCTD phi ngân hàng gồm CTTC, công ty cho thuê
tài chính và các TCTD phi ngân hàng khác. Tiếp đó để cụ thể hóa cách thức
tổ chức và phạm vi hoạt động của CTTC, năm 2002 Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 79/2002/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của CTTC.
7
Theo đó CTTC đã được định nghĩa đầy đủ: “CTTC là loại hình TCTD phi
ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn
vốn khác để cho vay, đầu tư, cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ
và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không
được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới một năm”. Có
thể thấy so với Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, CTTC (ngày
24/5/1990), CTTC không còn bị bó hẹp trong hai hình thức là công ty quốc
doanh và công ty cổ phần, các hoạt động nghiệp vụ cũng được mở rộng hơn.
Năm 2010, Quốc hội ban hành Luật các TCTD số 47/2010/QH12 thay
thế Luật các TCTD 1997 với nhiều quy định mới về tổ chức và hoạt động của
các TCTD. Theo quy định tại Khoản 4, Điều 4 Luật các TCTD 2010 thì
CTTC được xếp vào các TCTD phi ngân hàng:
“TCTD phi ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện một hoặc một
số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này, trừ các hoạt động nhận
tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của
khách hàng. TCTD phi ngân hàng bao gồm CTTC, công ty cho thuê tài chính
và các TCTD phi ngân hàng khác”
Hệ thống các TCTD ở Việt Nam được phân chia thành hai loại, đó là:
ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng. Tuy được quy định dưới các hình
thức khác nhau với tên gọi và phạm vi hoạt động nghiệp vụ khác nhau nhưng
chúng đều nằm trong hệ thống TCTD.CTTC mang đầy đủ các đặc trưng của
một TCTD nói chung:
- Thứ nhất, CTTC là doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh trực tiếp là
tiền tệ.
Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá
làm vật ngang giá chung thống nhất. Nó được dùng để biểu hiện và đo lường
giá trị của hàng hoá khác, làm phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán,
phương tiện cất trữ. Chính do sản phẩm kinh doanh là tiền tệ đã tạo ra sự khác
biệt cơ bản giữa TCTD nói chung và CTTC nói riêng với các doanh nghiệp
khác. Do các chức năng của mình, tiền tệ là một sản phẩm kinh doanh có tính
nhạy cảm với thị trường hơn bất cứ một lĩnh vực kinh doanh nào khác. Mọi
biến động của nền kinh tế ngay lập tức sẽ ảnh hưởng tới giá trị đồng tiền và
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Chính vì các
hoạt động của CTTC cũng bị biến động theo, thiếu tính ổn định, mang tính
nhạy cảm và rủi ro rất lớn.
- Thứ hai, CTTC là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, chủ
yếu, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt
doanh nghiệp là TCTD với các loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh
vực khác, kể cả các doanh nghiệp có hoạt động ngân hàng không thường xuyên
như các công ty bảo hiểm, công ty kinh doanh chứng khoán. Đặc điểm này có ý
nghĩa quyết định đến cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với tổ chức và hoạt
động của các CTTC. Những tác động tích cực và tiêu cực của hoạt động kinh
doanh của các TCTD có tính dây chuyền. Chẳng hạn khi một CTTC cho vay
không thu hồi được vốn dẫn tới tình trạng không thể thanh toán cho khách hàng
khi đến hạn. Điều này có thể gây tâm lý hoang mang cho không chỉ khách hàng
của CTTC đó mà cả các khách hàng của các TCTD khác, dẫn đến hiện tượng
khách hàng đồng loạt tới các TCTD rút tiền gửi, đẩy các TCTD vào tình trạng
thiếu khả năng chi trả, gây ra sự mất ổn định cho cả nền kinh tế.
- Thứ ba, CTTC là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lý nhà nước
của Ngân hàng Nhà nước và thuộc phạm vi áp dụng pháp luật ngân hàng.
Tuy vậy, CTTC có những đặc điểm riêng mà dựa vào đó có thể nhận
biết, phân biệt chúng với các loại hình TCTD khác. Sự phân biệt này là cần
thiết và quan trọng vì trong nền kinh tế thị trường, các TCTD có mối quan hệ
mật thiết, tác động qua lại với nhau. Do đó phạm vi hoạt động mà pháp luật
quy định cho từng loại hình TCTD cần rõ ràng để tránh sự chồng chéo, khiến
cho hiệu quả mà chúng mang lại cho nền kinh tế bị giảm sút. Sự phân biệt
ranh giới, phạm vi hoạt động nghiệp vụ của từng loại hình TCTD cũng giúp
Nhà nước dễ dàng hơn trong việc quản lý, có các biện pháp điều chỉnh phù
hợp và kịp thời. Từ đó đảm bảo cho một hệ thống tài chính lành mạnh, là cơ
sở cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế thị trường non trẻ ở nước ta
hiện nay.
b. Vai trò của CTTC
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, CTTC là một định chế
tài chính không thể thiếu và ngày càng có vai trò to lớn. Đó là một kênh huy
động vốn có tính chuyên nghiệp cao, sử dụng vốn hiệu quả. Thông qua CTTC
luồng vốn của thị trường được lưu thông, thúc đẩy sự chu chuyển, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, CTTC còn là
một kênh dẫn vốn quan trọng từ các dòng đầu tư nước ngoài. Với khả năng
chuyên nghiệp về kinh doanh vốn, CTTC có thể thu xếp vốn cho các dự án
lớn từ những nhà đầu tư trong nước, quốc tế...
Sự tồn tại của CTTC trong hệ thống tài chính cũng tạo ra sự cạnh tranh
mạnh mẽ giữa các chủ thể của thị trường tài chính, mang lại xung lực mới cho
sự phát triển thị trường tài chính nói riêng và thị trường nói chung.
Ở nước ta, CTTC đã sớm khẳng định được vai trò quan trọng trong việc
tạo lập thêm một kênh tài trợ tín dụng mới, hữu hiệu cho các đơn vị thành
viên trong tập đoàn và mở rộng phục vụ tổ chức, các nhân ngoài tập đoàn. Sự
ra đời các CTTC ở Việt Nam chủ yếu nhằm mục tiêu ban đầu là huy động và
điều hoàn nguồn vốn trong nội bộ tổng công ty, phục vụ sự phát triển của
tổng công ty trong một ngành, lĩnh vực nhất định (sau này phát triển thành các
tập đoàn kinh tế).
Hoạt động của các CTTC đồng thời còn góp phần làm phong phú thêm
các dịch vụ tài chính - ngân hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển đa dạng của thị
trường tài chính tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Cá biệt, một số CTTC đã
đạt những kết quả khả quan, tạo được vị thế trên thị trường, là các đối tác tin
tưởng của các định chế tài chính lớn trong nước và quốc tế.
Ở Việt Nam hiện nay có 18 CTTC đang hoạt động, trong đó có 12 công ty
trực thuộc các tổng công ty, tập đoàn hiện có vốn chi phối của Nhà nước. Lợi thế
lớn nhất, vốn là xuất phát điểm để hình thành các CTTC trực thuộc tập đoàn,
tổng công ty nhà nước là việc tận dụng vị thế "người nhà" để làm chức năng luân
chuyển nguồn lực tài chính giữa các đơn vị thành viên, đầu mối giúp thu xếp vốn
và tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi giá rẻ ngay trong hệ thống.
Xét theo đặc thù trên thì 17 CTTC đang tồn tại ở Việt Nam, với thế
mạnh chủ yếu dựa vào vị thế "người nhà" trong cùng hệ thống. Tuy nhiên, giờ
đây, lợi thế này đang mất dần và CTTC phải cạnh tranh gay gắt với hệ thống
ngân hàng. Thực tế này buộc các CTTC phải thay đổi để để tồn tại, nhất là khi
vị thế của chính các công ty này trong công ty mẹ đang bị lung lay.
Như vậy, có thể thấy, khi nền kinh tế càng phát triển thì vai trò của
trung gian tài chính càng quan trọng. Cùng với các ngân hàng thương mại,
CTTC cũng góp phần tạo thêm một kênh dẫn vốn cho nền kinh tế, đáp ứng được nhu cầu vay vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân...
c. Mô hình hoạt động của CTTC
Theo quy định tại Nghị định số 79/2002/NĐ-CP về tổ chức và hoạt
động của CTTC thì CTTC được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới các
hình thức :
- CTTC Nhà nước: là CTTC do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ
chức quản lý hoạt động kinh doanh.
- CTTC cổ phần: là CTTC do các tổ chức và cá nhân cùng góp vốn theo
quy định của pháp luật, được thành lập dưới hình thức Công ty cổ phần.
- CTTC trực thuộc của TCTD: là CTTC do một TCTD thành lập bằng
vốn tự có của mình và làm chủ sở hữu theo quy định của pháp luật, hạch toán
độc lập và có tư cách pháp nhân.
- CTTC liên doanh: là CTTC được thành lập bằng vốn góp giữa bên Việt
Nam gồm một hoặc nhiều TCTD, doanh nghiệp Việt Nam và bên nước ngoài
gồm một hoặc nhiều TCTD nước ngoài, trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
- CTTC 100% vốn nước ngoài: là CTTC được thành lập bằng vốn của
một hoặc của nhiều TCTD nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Việt Nam hiện nay có 18 CTTC đang hoạt động, trong đó có 08 Công
ty cổ phần có vốn góp của nhà nước, 04 công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên 100% vốn nhà nước và 06 công ty 100% vốn nước ngoài.
1.1.2 Hoạt động tín dụng và hoạt động tín dụng của CTTC
a. Hoạt động tín dụng
Tín dụng ra đời từ rất sớm, gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản
xuất hàng hóa. Tín dụng xuất phát từ chữ Credit trong tiếng Anh có nghĩa là
lòng tin, sự tin tưởng, tín nhiệm. Tín dụng được diễn giải theo ngôn ngữ Việt
Nam là sự vay mượn.
Trong thực tế tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng, nhưng ở
bất cứ dạng nào tín dụng cũng thể hiện hai mặt cơ bản: (1) Người sở hữu một
số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khác sử dụng trong một thời
gian nhất định và (2) Đến thời hạn do hai bên thoả thuận, người sử dụng hoàn
lại cho người sở hữu một giá trị lớn hơn. Phần trăm tăng thêm được gọi là
phần lời hay nói theo ngôn ngữ kinh tế là lãi suất.
Trong đời sống, có nhiều hình thái tín dụng khác nhau. Tuy nhiên căn
cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng, tín dụng được chia thành các loại: tín
dụng thương mại, tín dụng Nhà nước và tín dụng ngân hàng.
+ Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp
được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Hành vi mua bán chịu
hàng hóa được xem là hình thức tín dụng - người bán chuyển giao cho người
mua quyền sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định, và khi đến
thời hạn đã được thỏa thuận, người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới
hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu.
Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà
doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại
một mặt đáp ứng nhu cầu vốn của những nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu
vốn, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình.
Mặt khác sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giúp cho các nhà doanh
nghiệp chủ động khai thác được nguồn vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.
+ Tín dụng nhà nước: Là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân. Tín dụng nhà nước xuất
hiện nhằm thỏa mãn những nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong
điều kiện nguồn thu không đủ để đáp ứng; nó còn là công cụ để nhà nước hỗ
trợ cho các ngành kinh tế yếu kém, ngành mũi nhọn và khu vực kinh tế kém
phát triển, và là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý, điều hành vĩ mô.
+ Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các TCTD
khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế ngân hàng đóng
vai trò là một tổ chức trung gian, trong quan hệ tín dụng nó vừa là người cho
vay đồng thời là người đi vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận
tiền gửi của các nhà doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi,
- Xem thêm -