ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN MAI CHI
QUYỀN AN TỬ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên nga
̀nh: Pháp luật về quyền con người
M s: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. VŨ CÔNG GIAO
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN MAI CHI
QUYỀN AN TỬ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên nga
̀nh: Pháp luật về quyền con người
M s: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. VŨ CÔNG GIAO
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Mai Chi
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các hình vẽ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA QUYỀN AN TỬ ......... 4
1.1. Một số khái niệm cơ bản ..................................................................... 4
1.1.1. An tử và trợ tử ...................................................................................... 4
1.1.2. Quyền an tử ........................................................................................... 7
1.2. Cơ sở hình thành quyền an tử ............................................................ 8
1.2.1. Nguyên tắc hình thành quyền an tử ...................................................... 8
1.2.2. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của quyền an tử ................ 12
1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của quyền an tử ............................................. 27
1.3.1. Đặc điểm ............................................................................................. 27
1.3.2. Ý nghĩa ................................................................................................ 29
1.4. Quan điểm về việc hợp pháp hóa quyền an tử trên thế giới ......... 32
1.4.1. Những quan điểm phản đối ................................................................. 32
1.4.2. Những quan điểm ủng hộ .................................................................... 36
Chương 2: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VỀ QUYỀN AN TỬ
TRÊN THẾ GIỚI .............................................................................. 41
2.1. Quyền an tử theo pháp luật nhân quyền quốc tế ........................... 41
2.2. Thực tiễn và pháp luật về quyền an tử ở một số quốc gia ............. 44
2.2.1. Quy định của các quốc gia và vùng lãnh thổ đã hợp pháp hoá
quyền an tử .......................................................................................... 44
2.2.2. Quy định của các quốc gia và vùng lãnh thổ chưa hợp pháp hoá
quyền an tử hoặc quy định một phần .................................................. 50
2.2.3. Xu hướng hợp pháp hóa quyền an tử trên thế giới ............................. 56
2.3. Các tiêu chí chung về quyền an tử theo pháp luật quốc tế và
pháp luật của một số quốc gia ........................................................... 60
2.3.1. Tiêu chí sinh học ................................................................................. 60
2.3.2. Tiêu chí pháp lý ................................................................................... 63
Chương 3: PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA VỀ QUYỀN AN TỬ Ở VIỆT NAM .......................................... 69
3.1. Pháp luật và những vấn đề nảy sinh về quyền an tử trong
thực tiễn ở Việt Nam ......................................................................... 69
3.1.1. Quyền an tử theo pháp luật Việt Nam ................................................. 69
3.1.2. Nhu cầu thực tiễn về quyền an tử ở Việt Nam .................................... 70
3.2. Tranh luận về hợp pháp hóa quyền an tử ở Việt Nam .................. 72
3.3. Quan điểm, giải pháp liên quan đến quyền an tử ở Việt Nam ...... 75
3.3.1. Sự cần thiết hợp pháp hóa quyền an tử ở Việt Nam ........................... 75
3.3.2. Đề xuất một số quy định cơ bản khi hợp pháp hóa quyền an tử ......... 76
3.3.3. Một số kiến nghị về quá trình xây dựng và thực hiện quy định
quyền an tử tại Việt Nam..................................................................... 86
KẾT LUẬN .................................................................................................... 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 94
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ESA Hiệp hội An tử Hoa Kỳ (Euthanasia Society of America)
ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
(International Covenent on Civil and Political Rights)
NSLE Hiệp hội quốc gia về Hợp pháp hóa An tử của Hoa Kỳ (National
Society for the Legalization of Euthanasia)
NVVE Hiệp hội An tử tự nguyện Hà Lan (Dutch Voluntary Euthanasia Society)
PVS Tình trạng thực vật kéo dài (Persistent Vegetative State)
SRD Hiệp hội Quyền An tử Hoa Kỳ (Society for the Right to Die)
UDHR Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (Universal Declaration of
Human Rights)
UN Liên hợp quốc (The United Nations)
UNCHR Ủy ban quyền con người Liên hợp quốc (The United Nations
Commission on Human Rights)
VELS Hiệp hội Công nhận An tử tự nguyện (Voluntary Euthanasia
Legislation Society)
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong khi các quyền con người cơ bản như quyền sống, quyền tự do và
bình đẳng… từ lâu đã được công nhận và trở thành mục tiêu tôn trọng, bảo
vệ, thực thi của nhiều quốc gia trên thế giới thì vào đầu thế kỉ XIX, sự thay
đổi lớn trong nhận thức và tư duy khoa học đã dẫn đến việc hình thành nhóm
quyền mới, trong đó có quyền an tử. Khoảng một phần tư thế kỷ trở lại đây,
vấn đề quyền an tử xuất hiện với tần suất ngày càng lớn trên các diễn đàn
quốc tế và ngay lập tức trở thành một trong những đề tài nhận được nhiều
quan tâm cũng như bắt nguồn cho nhiều tranh cãi.
Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam quyền an tử vẫn là một khái niệm
mới, còn khá xa lạ và dễ bị nhầm tưởng với một số hành vi vi phạm pháp luật,
trái đạo đức xã hội. Mặt khác, nguồn tài liệu khan hiếm và nếu có, cũng chưa
được toàn diện, sâu sắc dẫn đến nhiều e ngại khi tiếp cận vấn đề. Trong khi, ở
bình diện khoa học pháp lý, việc nghiên cứu về quyền an tử mang tính cấp
thiết, góp phần quan trọng vào hoạt động xây dựng nhà nước pháp quyền với
một hệ thống quyền dân sự, quyền nhân thân đầy đủ, hoàn thiện. Và trên thực
tế ở Việt Nam không phải không có những người có nguyện vọng này, thậm
chí số lượng ngày càng tăng.
Xuất phát từ thực trạng trên, tác giả quyết định chọn vấn đề Quyền an
tử - Những vấn đề lý luận và thực tiễn làm đề tài luận văn, mong có thể góp
một phần vào việc làm rõ bản chất cũng như hoàn thiện khung pháp luật,
chính sách về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền an tử là một đề tài còn rất mới mẻ trong các nghiên cứu khoa
học pháp lý. Hiện nay, ở Việt Nam, chỉ có khóa luận tốt nghiệp Quyền an tử:
Một số vấn đề lý luận, thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam của tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Lân thực hiện năm 2014 là trực tiếp đề cập đến vấn đề này,
tuy nhiên công trình chưa phân tích được hết các khía cạnh của quyền cũng
như đánh giá được tình hình công nhận, thực hiện quyền trên phạm vi khu
vực và quốc tế. Ngoài ra, liên quan tới vấn đề quyền được chết có bài viết
Bước đầu tìm hiểu vấn đề quyền được chết trong bối cảnh hiện nay của tác
giả Trương Hồng Quang trong cuốn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các
quyền mới xuất hiện trong quá trình phát triển xuất bản năm 2012. Công trình
này đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin khá lớn về quyền an tử nhưng
chưa có sự phân tích một cách toàn diện về phạm vi quyền an tử, sự khác biệt
giữa an tử và trợ tử, những ý kiến trái chiều dựa trên quan điểm chính trị, tôn
giáo về vấn đề quyền an tử…
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Mục đích của luận văn là đưa ra được một cái nhìn toàn diện, có tính hệ
thống và khoa học về các vấn đề pháp lý, xã hội liên quan đến quyền an tử
trên thế giới và ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất những quan điểm, giải pháp
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách hiện hành về vấn đề này ở
nước ta trong thời gian tới.
Quyền an tử có nội dung rất rộng và phức tạp, liên quan đến nhiều ngành
khoa học xã hội khác nhau. Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, đề tài này
chủ yếu đề cập và phân tích các khía cạnh pháp lý và xã hội cơ bản, mà không
đi sâu nghiên cứu các khía cạnh tâm lý học hay y tế… của vấn đề.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận dùng để nghiên cứu đề tài này là các quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt ra
trong khóa luận này là: tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh.
5. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Luận văn là công trình chuyên khảo toàn diện và có hệ thống về những
vấn đề pháp lý, thực tiễn về quyền an tử ở trên thế giới và ở Việt Nam. Luận
văn kế thừa, phát triển những ý kiến trao đổi, thảo luận hiện có về vấn đề này,
đồng thời bổ sung một số thông tin và phân tích mới góp phần làm sáng tỏ
hơn thực trạng và xu hướng liên quan đến quyền an tử trên thế giới và ở Việt
Nam. Luận văn cũng nêu những đề xuất cụ thể về sửa đổi, bổ sung pháp luật
liên quan đến quyền an tử ở nước ta trong thời gian tới.
Với kết quả nêu trên, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các cơ quan nhà nước trong xây dựng, sửa đổi và thực thi các văn
bản pháp luật về vấn đề an tử. Thêm vào đó, luận văn cũng có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn luật nhân quyền
và các môn học khác có liên quan ở Khoa Luật ĐHQG Hà Nội và các cơ sở
đào tạo, nghiên cứu khác.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm các Phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và 3
chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận, thực tiễn của quyền an tử
Chương 2: Pháp luật và thực tiễn về quyền an tử trên thế giới
Chương 3: Pháp luật, thực tiễn và những vấn đề đặt ra về quyền an tử ở
Việt Nam.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA QUYỀN AN TỬ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. An tử và trợ tử
Thuật ngữ an tử hay cái chết êm ả (euthanasia) có nguồn gốc từ khái
niệm euthanatos trong tiếng Hy Lạp, xuất hiện rất sớm trong lịch sử, khoảng
thế kỉ thứ 5 trước Công nguyên. Hiện nay chưa có một định nghĩa toàn cầu
chính thức cho khái niệm này, nhưng nhìn chung những người ủng hộ an tử
và quyền an tử coi an tử là “Hành vi được biểu hiện dưới dạng hành động
hoặc không hành động, mà bản thân việc này hoặc việc này có mục đích là
giúp đỡ những cá nhân đang phải chịu đựng bệnh tật không có khả năng cứu
chữa được chết có nhân phẩm, dễ dàng và nhẹ nhàng hơn” [21].
Trong đó, hành động hoặc không hành động có thể được hiểu lần lượt
là việc trợ giúp giải thoát một người khỏi bệnh tật bằng phương pháp như
tiêm thuốc gây tử vong hoặc cho phép người đó được chết bằng cách rút bỏ
các điều trị y tế thông thường và cần thiết. Tuy nhiên phải chú ý rằng hành vi
không hành động chỉ được chấp nhận nếu việc can thiệp y khoa là vô ích và
gây gánh nặng quá mức cho bệnh nhân. Việc không cung cấp các phương
pháp trợ sinh trong trường hợp vẫn cải thiện được tình hình bệnh nhân, có thể
bị coi là hành vi giết người.
Qua thời gian, nội hàm của khái niệm an tử có nhiều thay đổi. Trước
đây an tử thường chỉ được dùng cho các trường hợp cá nhân đang phải chịu
đựng khổ sở do bệnh tật với mục đích giúp họ thoát khỏi đau đớn. Nhưng
ngày nay bệnh nhân được thực hiện cái chết êm ả với những lý do khác như
mục đích sống không còn đạt được, không có khả năng chi trả phí điều trị hay
giảm gánh nặng chăm sóc. Nhiều ý kiến phản đối, coi việc liên quan đến kinh
tế là không thể chấp nhận, nhưng thực tế đã chứng minh lý do này chiếm tỷ lệ
khá lớn trong các trường hợp mong muốn thực hiện an tử. Nỗi sợ hãi trở
thành gánh nặng tài chính cho thân nhân và gia đình là mối bận tâm lớn thứ
hai của những bệnh nhân không có khả năng chữa trị. Theo một cuộc điều tra
tại Oregon, Mỹ, nơi trợ tử đã được công nhận hợp pháp, 66% bệnh nhân
mong muốn thực hiện cái chết êm ả vì lý do này.
An tử có thể được phân biệt dựa trên nhiều tiêu chí, trong đó phổ biến
nhất dựa trên tính chất của sự tự nguyện và biện pháp thực hiện
- Dựa trên tính chất tự nguyện, an tử được chia thành an tử tự nguyện
(voluntary euthanasia ), an tử phi tự nguyện (non-voluntary euthanasia ) và an
tử trái nguyện vọng (involuntary euthanasia). Trong đó, an tử tự nguyện là
việc bệnh nhân đưa ra quyết định chấm dứt cuộc sống trong điều kiện tỉnh táo
và nhờ đến sự hỗ trợ của bác sĩ. An tử phi tự nguyện là trường hợp bệnh nhân
không có khả năng bày tỏ sự chấp thuận của họ (vì lý do hôn mê, tổn thương
não,…) và một người khác thay mặt người bệnh quyết định với điều kiện tiên
quyết là người bệnh này trước đó đã thể hiện mong muốn kết thúc cuộc sống
nếu lâm vào tình trạng này. An tử trái nguyện vọng còn được gọi là an tử ép
buộc hoặc an tử không tự nguyện, là khi người bệnh hoàn toàn từ chối hoặc
không hề bày tỏ mong muốn được giải thoát dưới bất kì hình thức nào nhưng
việc này vẫn được thực hiện đi ngược lại ý chí của họ. An tử trái nguyện
vọng, trong mọi trường hợp, đều bị coi là hành vi giết người.
Việc sử dụng các thuật ngữ trên có sự khác biệt ở nhiều quốc gia. Hiện
nay Hà Lan, một trong số những nước đầu tiên trên thế giới hợp pháp hóa
quyền an tử và ban hành pháp luật về an tử chỉ còn dùng duy nhất khái niệm
an tử, nhưng trong đó bao gồm cả an tử tự nguyện và an tử phi tự nguyện
dưới hình thức người bệnh chỉ định người đại diện cho mình trong trường hợp
lâm vào trạng thái mất ý thức và quyền định đoạt sẽ thuộc về người đại diện.
- Dựa trên tiêu chí phương pháp thực hiện, an tử được chia thành an tử
chủ động (active euthanasia) và an tử bị động (passive euthanasia) tương ứng
với hai loại hành vi hành động và không hành động kể trên. Theo đó, an tử
chủ động là trường hợp cố tình can thiệp để chấm dứt cuộc sống của bệnh
nhân. Hành vi này không phụ thuộc vào bất cứ yếu tố nào khác ngoại trừ sự
vận hành bình thường của các cơ quan trong cơ thể (như việc lưu thông máu
sẽ đưa chất độc đi khắp cơ thể). Đây có thể coi là cách thức có hiệu quả trong
mọi trường hợp, dù tình trạng của bệnh nhân như thế nào. Trong khi đó an tử
bị động là thu hồi các biện pháp chữa trị, hay nói cách khác là để bệnh nhân
chết đi. Vì vậy an tử bị động còn được coi là biện pháp tự nhiên và phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, nhất là tình trạng bệnh nhân và tính chất của các phương
pháp điều trị y học. An tử chủ động đem đến sự giải thoát nhanh hơn và dễ
dàng hơn cho người bệnh. Tuy nhiên, trước đây mọi hành vi an tử chủ động
đều là bất hợp pháp. Hiện nay một số hệ thống luật pháp đã không còn phân
biệt rạch ròi giữa hai phương pháp này.
Thực tế ở nhiều nơi, thuật ngữ an tử và trợ tử được sử dụng song song
và thay thế lẫn nhau. Tuy nhiên, giữa hai khái niệm này cũng có sự khác biệt.
Nếu như an tử là việc biết, trực tiếp hành động một cách có chủ đích đem đến
cái chết nhẹ nhàng cho một cá nhân thì trợ tử được định nghĩa là việc biết,
hành động trực tiếp một cách có chủ đích cung cấp phương tiện để cá nhân
thực hiện việc tự tử. Như vậy có thể thấy điểm phân biệt lớn nhất giữa an tử
và trợ tử là chủ thể nắm giữ vai trò chủ đạo trong quá trình, hay chủ thể thực
hiện toàn bộ hành vi hoặc thực hiện hành vi cuối cùng. Ví dụ việc bác sĩ tiêm
thuốc nhằm giải thoát cho bệnh nhân là an tử nhưng nếu bác sĩ kê đơn, cung
cấp thuốc cho bệnh nhân tự uống hoặc đưa kim tiêm vào tĩnh mạch bệnh nhân
nhưng để bệnh nhân tự vận hành quá trình đưa thuốc vào cơ thể (tự đẩy xi
lanh hoặc bấm nút) thì lại là trợ tử. Có sự khác biệt như vậy, nhưng nếu xét
cho cùng thì trợ tử là hình thức sơ khai của an tử, trong đó vai trò của bác sĩ
chưa được mở rộng. Ở hầu hết các nước đã thông qua luật an tử, hành vi trợ
tử cũng hợp pháp và thường được dùng chung với nhau. Theo một báo cáo
năm 2010 tại Hà Lan tỷ lệ an tử chủ động là 2,8% trong khi trợ tử là 0,1%
trên tổng số người chết. Con số tại Bỉ năm 2007 lần lượt là 1,9% và 0,07%..
Tuy nhiên chiều ngược lại không đúng. Ở những vùng lãnh thổ mới chỉ hợp
pháp hóa hành vi trợ tử, an tử có thể bị coi là hành vi vượt quá thẩm quyền và
dẫn tới khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc trách nhiệm nghề nghiệp
cho người thực hiện.
Đồng thời, cũng phải phân biệt hành vi an tử với hành vi cho phép từ
chối khám bệnh, chữa bệnh khi đang ở giai đoạn cuối hay hành vi cho phép
người bệnh hấp hối về nhà. Nếu hành vi an tử trực tiếp dẫn đến việc chấm dứt
sự sống của người bệnh thì các hành vi sau chỉ mang tính chất gián tiếp, tuy
cùng vì mục đích nhân đạo nhưng không có sự chủ động chấm dứt cuộc sống
của bác sĩ mà thay vào đó, bác sĩ chỉ chấp thuận theo nguyện vọng ngừng
điều trị của người bệnh. Và sự khác biệt lớn nhất là nếu an tử nhằm chấm dứt
những đau khổ kéo dài của người bệnh, thì việc cho phép từ chối điều trị và
về nhà trên, theo lời PGS.TS Trương Văn Việt, giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy,
thì “không phải để cho bệnh nhân chết mà là vì quan hệ tình cảm giữa người
sắp chết với người thân: gặp người thân lần cuối, có chết thì chết ở nhà, vấn
đề tín ngưỡng, tập quán” [12].
1.1.2. Quyền an tử
Xuất phát từ khái niệm an tử, quyền an tử có thể được định nghĩa là
quyền nhân thân và là đặc quyền của những cá nhân rơi vào trạng thái bệnh
lý không có khả năng chữa trị, được quyết định kết thúc cuộc sống của
mình với sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền và tuân theo các quy định
chặt chẽ của pháp luật.
Định nghĩa về quyền an tử có thể khác nhau tùy thuộc vào quan niệm
của các nhà làm luật mỗi quốc gia nhưng nhìn chung tất cả đều loại bỏ hành
vi an tử trái nguyện vọng ra khỏi nội hàm của khái niệm này. Có quốc gia
chấp nhận an tử chủ động, có quốc gia không, dẫn đến việc thu hẹp phạm vi
khái niệm quyền an tử chỉ được thực hiện dưới hình thức bị động. Điều tương
tự cũng xảy ra với việc có nên đặt ra giới hạn về độ tuổi với chủ thể hưởng
thụ quyền, cụ thể có nên cho phép trẻ vị thành niên có quyền an tử hay không.
Hiện nay tồn tại nhiều thuật ngữ có ý nghĩa tương tự quyền an tử như
quyền được chết (right to die) hay quyền được chết có nhân phẩm (right to
die with dignity). Theo ý kiến của người viết, nên dùng khái niệm quyền an
tử để biểu thị rõ mục đích tốt đẹp cũng như bản chất nhân đạo và ý nghĩa
nhân văn của quyền.
1.2. Cơ sở hình thành quyền an tử
1.2.1. Nguyên tắc hình thành quyền an tử
Quyền an tử dựa trên nguyên tắc tự do ý chí, nguyên tắc hành thiện và
sự kết hợp giữa hai nguyên tắc này.
- Nguyên tắc tự do ý chí (The Principle of Autonomy): Autonomy được
cấu thành từ hai từ Hy Lạp cổ là autos (tự thân) và nomos (luật). Vì vậy, về
mặt ngữ nghĩa, autonomy nghĩa là một người thụ hưởng quyết định của chính
mình. Theo Leenen, H.J.J, tác giả cuốn sách đầy ảnh hưởng Handbook of
Health Law, nguyên tắc tự do ý chí dựa trên bản chất tự nhiên của con người,
“Căn cứ hình thành quyền tự quyết của con người là nguyên tắc một con
người tự do, tự chủ có nhân phẩm cố hữu và xứng đáng được tôn trọng một
cách vô điều kiện, có quyền sắp đặt cuộc sống của mình” [34, tr.169]. Nguyên
tắc này cũng là cơ sở cho nhiều quyền con người khác, như quyền tự do tôn
giáo, quyền riêng tư, quyền tự do và bất khả xâm phạm về thân thể… Tuy
nhiên, nguyên tắc này không có nghĩa mọi sự tự quyết đều được chấp nhận,
bởi tự do ý chí không loại trừ nghĩa vụ tôn trong các nguyên tắc, mối quan hệ
khác trong xã hội, như quyền sống của chủ thể khác hay giá trị cộng đồng.
Đặt trong mối quan hệ với khái niệm an tử, tự do ý chí nghĩa là một chủ thể
nên được tự do trong việc định hình các yếu tố quyết định sự sống của mình
và lựa chọn cách sống lý tưởng mà mình muốn sống. Việc chính quyền hay
bác sĩ tiếp tục duy trì cuộc sống của người bệnh trái với mong muốn của họ
đã khiến cuộc sống của họ mất tự do và bản thân họ mất quyền tự chủ, dẫn
đến sự thiếu tôn trọng và bắt họ làm trái với lương tâm của họ.
Sự phát triển của khoa học kĩ thuật đã tăng cường khả năng của bác sĩ.
Những người hành nghề y có thể kéo dài sự sống cho những bệnh nhân trước
đây chắc chắn sẽ tử vong, nhưng nhiều trường hợp là trong đau đớn hoặc chịu
đựng kéo dài. Điều này, theo J.H.Van den Berg, một bác sĩ tâm thần người Hà
Lan, làm dấy lên vấn đề về y đức. Theo lời thề Hippocrates, bác sĩ được đào
tạo để cứu chữa, duy trì sự sống và đưa ra quyết định có lợi cho người bệnh.
Rút ngắn hoặc chủ động chấm dứt sự sống dưới bất kì hình thức nào là vô
nhân đạo. Việc kết hợp giữa công nghệ mới và quan điểm y đức cũ dẫn đến
hậu quả là người bệnh được kéo dài sự sống trong tình trạng vô nhân đạo. Van
den Berg cho rằng y đức mới phải nhận thức được việc chất lượng cuộc sống
quan trọng hơn độ dài. Quan điểm này sẽ đem đến cho người bệnh tiếng nói
trong các quyết định quan trọng, bởi chính họ chứ không phải các bác sĩ có
khả năng quyết định về chất lượng cuộc sống của mình. Và như vậy, việc chủ
động chấm dứt sự sống không còn là điều cấm kỵ trong y học.
Tuy nhiên, tự do ý chí trong an tử nên được nhìn nhận cẩn trọng. Tự do
ý chí của người bệnh không nên là quyền tự quyết loại trừ mọi ảnh hưởng bên
ngoài, hay là sự tự do ý chí tiêu cực. Tự do ý chí trong an tử là sự tự do ý chí
tích cực, hay nói cách khác, người bệnh phải hành động một cách có trách
nhiệm, quyết định trên cơ sở có xem xét đến những yếu tố khác. Luật pháp
nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ quy định bệnh nhân muốn thực hiện quyền
an tử phải đưa ra yêu cầu nhiều lần và cân nhắc kĩ càng. Mặc dù tiêu chí xem
xét không được quy định cụ thể nhưng rõ ràng người bệnh phải cân nhắc đến
những hậu quả khi đưa ra quyết định. Quyết định của người bệnh phải được
thảo luận với bác sĩ, và việc thảo luận này không chỉ dừng ở việc khẳng định
rằng người bệnh có thực sự mong muốn hưởng thụ quyền an tử, mà còn liên
quan đến vấn đề thế nào là không thể chịu đựng. Bác sĩ sẽ không đơn giản
công nhận mọi tuyên bố không thể chịu đựng xuất phát từ bệnh nhân. Họ có
nghĩa vụ phải xem xét tuyên bố này trong từng hoàn cảnh, từng trường hợp cụ
thể và trên tình hình tổng thể của người bệnh. Và những bằng chứng đưa ra
phải cho thấy rằng những khó khăn của người bệnh là không có triển vọng cải
thiện và xác thực là khó có thể chịu đựng.
- Nguyên tắc hành thiện (The Principle of Beneficence): Nguyên tắc
này yêu cầu một chủ thể phải hành động để thúc đẩy các quyền và lợi ích của
người khác, ngăn chặn những điều có hại cho họ. Trước đây, theo quan niệm
cũ, nguyên tắc này đồng nghĩa với việc bác sĩ phải làm mọi cách để ngăn chặn
cái chết. Nhưng cách giải thích này đã thay đổi trong thời gian gần đây. Sự
phát triển của khoa học – y học bắt đầu từ những năm 60 của thế kỉ trước đã
giúp ngày càng nhiều người nhận thức được rằng điều trị y khoa không phải
lúc nào cũng mang đến lợi ích cho bệnh nhân. Lúc này, làm mọi điều để giữ
sự sống của người bệnh chỉ thể hiện một sự “chuyên chế về mặt kỹ
thuật”[34,tr.173], dẫn dến việc không phải lợi ích của người bệnh mà chính
khả năng khoa học – y học mới là thứ quyết định liệu pháp điều trị của họ.
Khi khoa học kỹ thuật đem đến đau khổ cho người bệnh, liệu pháp điều trị
kéo dài sự sống sẽ ngày càng mâu thuẫn với nguyên tắc hành thiện. Vì vậy,
ngày nay nguyên tắc này áp đặt một nghĩa vụ giảm nhẹ đau đớn và chấm dứt
đau khổ cho người bệnh lên bác sĩ.
Điểm quan trọng nhất của nguyên tắc hành hiện là việc bác sĩ phải cân
nhắc điều gì có lợi nhất cho bệnh nhân của mình. Không phải quan điểm của
bệnh nhân, mà quan điểm của bác sĩ về tình trạng của bệnh nhân mới là yếu tố
chi phối. Nếu quan điểm của bác sĩ và bệnh nhân mâu thuẫn với nhau, quan
điểm của bác sĩ sẽ được coi trọng. Như đã đề cập ở trên, bác sĩ phải bị thuyết
phục rằng an tử là con đường duy nhất. Điều này không có nghĩa bệnh nhân
có ít tiếng nói trong cả quá trình, mà nhấn mạnh vào trách nhiệm của bác sĩ,
rằng họ mới là người có vai trò quan trọng nhất trong việc an tử. An tử chỉ
được chấp nhận khi bác sĩ tin rằng người bệnh không thể tiếp tục chịu đựng.
- Kết hợp nguyên tắc tự do ý chí và nguyên tắc hành thiện: Trong khi
nguyên tắc tự do ý chí đề cao vai trò của bệnh nhân thì nguyên tắc hành
thiện nhấn mạnh mối quan trọng của bác sĩ. Vậy việc cùng một lúc dựa trên
hai nguyên tắc này có mâu thuẫn? Thực tế chứng minh, hai nguyên tắc này
không xung đột với nhau mà bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau làm nền tảng cho
quyền an tử, và tạo nên một mối quan hệ hình mẫu trong y học nói chung
và vấn đề an tử nói riêng, mối quan hệ hợp tác thảo luận giữa bệnh nhân và
bác sĩ. Trong đó, bệnh nhân đóng vai trò quyết định và bác sĩ giữ vai trò
chủ động. Bệnh nhân mong muốn có thể dựa vào bác sĩ trong những giai
đoạn khó khăn, họ hy vọng rằng bác sĩ sẽ không để họ chết khổ sở. Còn
bác sĩ mong muốn có thể đáp ứng mong muốn của người bệnh, làm giảm
bớt những đau đớn của họ đồng thời giữ được y đức của chính mình. Có
thể thấy yếu tố trọng tâm trong mối quan hệ này là lòng tin. Lòng tin không
chỉ có nghĩa rằng người bệnh có thể chắc rằng bác sĩ của họ không lạm
dụng chức quyền, mà hơn thế, họ có thể chắc rằng họ sẽ không đơn độc
trong trường hợp không lối thoát. Ngược lại, bác sĩ cũng phải có lòng tin
rằng người bệnh đi đến quyết định an tử, dựa trên tình trạng không thể
thuyên giảm của họ, mà không vì bất cứ mục đích nào khác.
1.2.2. Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của quyền an tử
An tử và quyền an tử có lịch sử phát triển lâu dài và dần được định hình
một cách chính thống và rõ nét qua thời gian.
- Về mặt lập pháp, từ thế kỉ V đến thế kỉ I trước công nguyên, người Hy
Lạp và La Mã cổ đại đã có tư tưởng an tử, tuy nhiên chưa hình thành nên khái
niệm này. Ở nơi đây, trước khi có sự xuất hiện của đạo Thiên Chúa, con người
có thái độ khoan dung đối với an tử tích cực và tự tử. Nhiều người không có
niềm tin vững chắc vào giá trị vốn có của đời sống nhân loại, vì vậy bác sĩ
ngoại đạo có thể thường xuyên tiến hành phá thai, an tử theo cả hai hình thức
tự nguyện và phi tự nguyện. Mặc dù lời thề Hippocrates cấm bác sĩ đưa
“thuốc gây chết người cho bất cứ ai dù họ yêu cầu” [30] hay gợi ý hành động
tương tự, gần như không có người hành y nào ở Hy Lạp và La Mã cổ đại tuân
thủ chặt chẽ lời thề này.
Đến tận thế kỉ I sau công nguyên, cụ thể năm 121 thuật ngữ an tử mới
xuất hiện lần đầu tiên trong tác phẩm De Vita Caesarum – Divus Augustus
(Cuộc đời các Ceasar – Con thần Augustus) của sử gia Gaius Suetonius
Tranquillus. Trong đoạn miêu tả về cái chết của Augustus Ceasar, ông đã viết:
Trong lúc ngài hỏi một số người mới đến từ thành thị về con
gái của Drusus, cô gái đang ốm, ngài đột ngột qua đời khi hôn
Livia, thốt ra những lời cuối cùng: “Hãy luôn nhớ đến cuộc hôn
nhân của chúng ta, Livia, và vĩnh biệt,” rồi may mắn có được một
cái chết dễ dàng và đúng như cách mà ngài hằng mong muốn.
Thường thì, mỗi khi nghe rằng ai đó chết nhanh chóng và không
đau đớn, ngài lại cầu rằng ngài và thân thể ngài sẽ có được một cái
chết êm ả tương tự, đó là khái niệm ngài quen dùng [28, tr.185].
Từ thế kỉ XII đến XV, sự lớn mạnh của đạo Thiên Chúa và đức tin cuộc
sống con người là quà tặng từ Chúa đã tái củng cố quan điểm phản đối an tử
của Hippocrates. Trong ba thế kỉ này, sự nhất trí trong các quan điểm y học
phản đối an tử đạt đến đỉnh điểm. Đến thế kỉ XVII, hệ thống Thông luật với
những quy định trừng phạt hoặc không chấp nhận tự tử và an tử đã không chỉ
phủ khắp các quốc gia là cái nôi của hệ thống này, mà còn vươn tới các thuộc
địa. Có thể kể đến việc các nhà làm luật của Providence Plantations, vùng
lãnh thổ sau này trở thành Rhode Island, đã tuyên bố vào năm 1647, rằng
Tự tử tuyệt đối là hành vi trái tự nhiên nhất, và hội đồng
lập pháp nay tuyên, rằng, người nào thực hiện hành vi này, tự tử
chỉ vì chủ tâm ghét bỏ chính cuộc sống của mình hay niềm hạnh
phúc của người khác... thì đồ đạc và tài sản của họ sẽ do nhà vua
định đoạt [44].
Tuy nhiên không thể phủ định một số động thái tích cực ủng hộ an tử
trong suốt thời kì này. Thomas More (1478-1535) thường được nhắc đến với
tư cách là người Thiên chúa giáo đầu tiên có những đề cập nổi bật đến an tử
trong tác phẩm Utopia của ông, trong đó những linh mục theo chủ nghĩa
không tưởng đã khuyến khích an tử khi người bệnh không thể cứu chữa và
phải chịu đau đớn (nhưng chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của bệnh
nhân). “Nếu một căn bệnh không chỉ đem lại đau đớn mà còn khổ sở không
dứt, thì các linh mục và chính quyền nên ủng hộ người này…tự giải thoát khỏi
cuộc sống đắng cay… hoặc cho phép người khác giải thoát giúp họ"[44]. Vấn
đề duy nhất khi sử dụng những lời này là việc Thomas More, một con chiên
mộ đạo, dùng Utopia như một công cụ chế giễu nhạo báng. Nhà triết học
người Anh, Francis Bacon (1561-1621), là người đầu tiên thảo luận về việc
kéo dài sự sống là một nhiệm vụ y khoa mới, gồm ba nhiệm vụ: duy trì sức
khỏe, chữa trị bệnh tật và kéo dài sự sống. Bacon cũng khẳng định rằng, “Họ
phải trau dồi các kĩ năng và sự tập trung chú ý mà nhờ đó những người đang
chết có thể thoát khỏi cuộc sống một cách dễ dàng và lặng lẽ hơn” [44]. Như
vậy Bacon chỉ đề cập đến khía cạnh bên ngoài của an tử, hay cái chết êm ái
cho cơ thể, không có sự chuẩn bị về mặt tinh thần. Có vẻ như ông không cất
tiếng nói cho an tử, mà đang ủng hộ một khái niệm khác được cho là tốt đẹp
hơn, đó là chăm sóc giảm nhẹ.
Còn ở các nước châu Âu, nhất là các nước chủ yếu theo đạo Thiên
Chúa, bàn luận về vấn đề an tử thậm chí còn là điều cấm kị cho đến thời kỳ
Khai sáng thế kỉ XVIII. Nhiều nhà văn đã tấn công vào các nhà thờ để truyền
bá về mọi khía cạnh đời sống, bao gồm cả an tử và tự tử. Mặc dù vậy, vấn đề
này không được quan tâm nhiều và rộng khắp. Và nó đã chứng minh sự nhất
thời của mình, khi dưới sự lãnh đạo của các nhà truyền giáo, một cuộc phản
công mang tính chất tôn giáo đã diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII. Làn sóng phục
hưng tôn giáo, bắt đầu với cuộc Đại thức tỉnh vào khoảng giữa những năm
1700, đã ngăn cản những người theo chủ nghĩa thế tục và thuyết bất khả tri ở
cả hai bờ Đại Tây Dương dấy lên phong trào ủng hộ an tử. Và đến cuộc Đại
thức tỉnh lần hai vào những năm đầu của thế kỉ 19, những nhà truyền giáo tích
cực đã tăng cường lên án mạnh mẽ tự tử và an tử. Điểm sáng duy nhất cho an
tử trong thời kì này là vào cuối thế kỉ XVIII, ngày 1/6/1794, một đạo luật đã
được ban hành tại Vương quốc Phổ, trong đó giảm nhẹ hình phạt cho những
người thực hiện việc giải thoát cho bệnh nhân mắc bệnh không thể cứu chữa.
Sau đó không lâu, năm 1828, một văn bản pháp luật được ban hành tại
New York trong đó quy định rõ ràng an tử là hành vi trái pháp luật. Nhiều
bang và vùng lãnh thổ khác đã noi theo tấm gương này. Vào khoảng giữa năm
1857 và 1865, một Ủy ban New York do Dudley Field đứng đầu đã soạn thảo
dự luật hình sự trong đó nghiêm cấm việc trợ giúp tự tử, và đặc biệt, là hành
vi “cung cấp cho người khác vũ khí chết người hoặc thuốc độc, khi biết rằng
người đó có ý định sử dụng thuốc hoặc vũ khí này để kết thúc cuộc đời của
- Xem thêm -