PHẦN MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thế kỉ 21 là thế kỉ của toàn cầu hoá, thế kỉ của sự giao lưu và hội nhập quốc tế.
Việt Nam cũng hoà trong xu thế hội nhập của thế giới đồng thời với quá trình đổi
mới toàn diện đất nước.Một nét nổi bật trong quá trình đổi mới là Đảng và Nhà
nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị
trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương đó đã tạo ra nhiều chuyển
biến tích cực. Cùng với sự phát triển của nhiều lĩnh vực khác, chúng ta đang có
những tiền đề để đưa đất nước chuyển sang thời kì mới, thời kì công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, từng bước hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Chúng ta đang sống trong thời đại mà sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ và nhu cầu thương mại, hợp tác quốc tế đang làm cho sự nhất thể hoá toàn cầu
có nhiều khả năng trở thành hiện thực.Trong bối cảnh thời đại đó, mọi quốc gia trên
thế giới đều phải quan tâm tới mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ-những chủ nhân tương lai
, người sẽ quyết định sự phát triển kinh tế –xã hội ở mỗi quốc gia.
Khi đưa ra nhữnh tiêu chuẩn về giáo dục cho thế hệ trẻ đến năm 2000, các nhà
giáo dục Mĩ và Tây Âu cho rằng một trong những điều kiện không thể thiếu là các
cá nhân phải thông thạo ít nhất một ngoại ngữ. Điều này quả thực rất hợp lý bởi
nếu không có ngoại ngữ làm phương tiện giao tiếp thì không thể nói đến chuyện
giao lưu, học hỏi và hội nhập quốc tế.
Đối với sinh viên, ở tầm vĩ mô, sự quan trọng của ngoại ngữ đối với họ cũng
chính là đối với xã hội, bởi sinh viên chính là những người trong tương lai sẽ sử
dụng ngoại ngữ như một phương tiện để giao lưu, học hỏi, hội nhập và phát triển
xã hội. Ở tầm vi mô, ngoại ngữ chính là vốn kiến thức quan trọng của mỗi cá nhân,
là yếu tố không thể thiếu trong hành trang gia nhập thị trường việc làm.
Đối với sinh viên Xã hội học nói riêng, ngoại ngữ còn là yếu tố quan trọng cần
cho sự xâm nhập thực tế, vốn là một đòi hỏi đặc trưng của chuyên ngành này, đồng
thời là phương tiện để mở mang kiến thức qua nguồn tài liệu nước ngoài vì tài liệu
tiếng Việt còn ít. Hơn nữa trong thế kỉ 21 này , khi Xã hội học sẽ thực sự trở thành
một ngành khoa học mũi nhọn tại Việt Nam, ngoại ngữ sẽ trở thành điều kiện quan
trọng giúp các nhà Xã hội học trao đổi, học hỏi, mở mang tri thức từ những nền Xã
hội học phát triển trên thế giới. Và ngay lúc này, khi sự thăng hoa của Xã hội học
Việt Nam chưa trở thành hiện thực thì ngoại ngữ vẫn là một yếu tố không thể thiếu,
thúc đẩy thời điểm ấy tiến lại gần hơn.
Nhận thức được tầm quan trọng lớn lao của ngoại ngữ , các sinh viên Xã hội
học đã quan tâm tới việc trau dồi trình độ ngoại ngữ của mình. Họ không chỉ tham
gia học trong chương trình chính khoá của nhà trường mà còn đi học thêm nhằm
củng cố và nâng cao trình độ . Tuy nhiên, liệu hoạt động học thêm ấy có thực sự
đem lại hiệu quả mong muốn cho mọi sinh viên hay không ? Để đánh giá vấn đề
này, tôi lựa chọn đề tài “Sinh viên Xã hội học với việc học thêm ngoại ngữ ”để
nghiên cứu, nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng của hoạt động này, trên cơ sở đó
tìm ra những giải pháp giúp sinh viên định hướng tốt hơn trong việc sử dụng thời
gian, công sức , tiền bạc để đạt được hiệu quả cao hơn.
Trong phạm vi đề tài này, tôi không có điều kiện nghiên cứu toàn bộ sinh viên
Xã hội học trên địa bàn Hà Nội mà chỉ có thể tập trung khảo sát sinh viên Xã hội
học tại trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn.
2.MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1 Tìm hiểu thực trạng hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên
Xã hội học.
2.2 Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động học thêm ngoại ngữ.
2.3 Tìm hiểu định hướng nghề nghiệp của sinh viên Xã hội học và tác động của
nó đối với hoạt động học thêm ngoại ngữ trong sinh viên.
3.ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Việc học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học
3.2 Khách thể nghiên cứu:
Sinh viên năm thứ nhất đến năm thứ tư, khoa Xã hội học, ĐHKHXH&NV
4.PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1 Giới hạn phạm vi không gian , thời gian:
- Thời gian : tháng 3/4 năm 2001
- Không gian: khoa Xã hội học , ĐH KHXH&NV
4.2 Giới hạn lĩnh vực nghiên cứu:
Mô tả thực trạng hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học.
Đánh giá sự ảnh hưởng của các yếu tố giới, năm học, hộ khẩu thường trú và
định hướng nghề nghiệp đối với hoạt động này.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1 Phương pháp chọn mẫu
Mẫu được chọn bao gồm 100 đơn vị mẫu là sinh viên từ năm I đến năm IV
khoa Xã hội học, ĐH KHXH&NV với cơ cấu mẫu như sau:
Nguyên tắc chọn mẫu :
-Mẫu được chọn theo năm học với tỉ lệ 40% năm thứ I-II và 60% năm thứ
III-IV ( tương ứng với tỉ lệ này trong tổng cơ cấu mẫu)
-Tỉ lệ nam nữ tồn tại ngẫu nhiên theo đơn vị lớp.
-Tỉ lệ sinh viên có hộ khẩu thường trú tại đô thị và nông thôn tồn tại ngẫu
nhiên theo đơn vị lớp.( hộ khẩu thường trú ở đây hiểu là nơi sinh viên cư trú trước
khi vào đại học)
Bảng 1 : Cơ cấu mẫu điều tra
STT
1
2
3
TIÊU CHÍ
SỐ LƯỢNG
%
36
64
36%
64%
40
60
40%
60%
47
53
47%
53%
Giới tính
1.Nam
2. Nữ
Năm học
1.Năm I-II
2.Năm III-IV
Hộ khẩu thường trú
1.Đô thị
2.Nông thôn
Ngoài ra, để phục vụ cho việc so sánh giữa sinh viên Xã hội học và những sinh
viên khác, đề tài đã tiến hành nghiên cứu 100 mẫu là sinh viên các khoa Lịch sử,
Ngôn ngữ, Văn học và Lưu trữ, cơ cấu mẫu như sau
STT
TIÊU CHÍ
SỐ LƯỢNG
%
1
2
3
Giới tính
1.Nam
2. Nữ
Năm học
1.Năm I-II
2.Năm III-IV
Hộ khẩu thường trú
1.Đô thị
2.Nông thôn
34
66
34%
66%
40
60
40%
60%
34
66
34%
66%
5.2 Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi
Bảng hỏi được xây dựng với 12 câu hỏi nhằm làm rõ những thông tin cơ bản
sau:
- Đặc điểm cá nhân
- Định hướng nghề nghiệp
- Kết quả học ngoại ngữ
- Động cơ học thêm ngoại ngữ
- Chi phí về thời gian, tài chính cho hoạt động học thêm
Bảng hỏi dành cho các sinh viên không thuộc khoa Xã hội học gồm 10 câu hỏi
với những nội dung cơ bản như trên.
Bảng hỏi được tiến hành điều tra thử để rút ra và khắc phục những sai sót, hạn
chế trong kĩ thuật xây dựng cũng như nội dung của bảng hỏi để thu được những dữ
liệu cần thiết, đồng thời đảm bảo tính chính xác, khách quan của thông tin.
5.3 Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi nêu trên có thể đem lại những
thông tin định lượng mang tính bao quát. Để có được những thông tin đinh tính chi
tiết và sâu sắc hơn, tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu một số sinh viên nhằm hiểu rõ
hơn bản chất của vấn đề và nhằm tìm hiểu, phát hiện những khía cạnh mới mẻ, sâu
sắc trong những ý kiến của họ về vấn đề nghiên cứu.
5.4 Phương pháp phân tích tài liệu
Do không đủ điều kiện thu thập thông tin về định hướng nghề nghiệp của sinh
viên nói chung nhằm phục vụ cho việc so sánh với định hướng của sinh viên Xã hội
học, tôi đã sử dụng và phân tích số liệu thứ cấp từ đề tài “ Định hướng giá trị của
sinh viên – con em cán bộ khoa học “ trong cuốn sách cùng tên của TS. Vũ Hào
Quang.
6.GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Học thêm ngoại ngữ là một hoạt động phổ biến trong sinh viên Xã hội học
hiện nay. Sinh viên học thêm ngoại ngữ nhằm nâng cao trình độ để phục vụ
cho công việc sau này, do đó sự khác biệt trong kết quả học ngoại ngữ của sinh
viên là do sự khác biệt về định hướng nghề nghiệp sau khi ra trường của họ.
PHẦN CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Hệ khái niệm
1.1 Khái niệm sinh viên
Theo từ gốc La tinh, sinh viên –“student”-là người làm việc, học tập, tìm hiểu,
khai thác tri thức.
Theo nghĩa thông thường, sinh viên là người học tập ở bậc trung cấp, cao đẳng
và đại học.
1.2 Khái niệm ngoại ngữ
Đó là ngôn ngữ của một quốc gia khác, khác với tiếng mẹ đẻ.
1.3 Khái niệm học thêm
Học thêm là mọi hoạt động học ngoài chương trình chính khoá của nhà trường.
1.4 Khái niệm động cơ
Động cơ tâm lý(phân biệt với động cơ vật lý) là cái thúc đẩy con người hoạt
động nhằm thoả mãn nhu cầu hoặc đạt tới một mục đích nào đó. Là nội dung bản
chất của hành vi, hành động và hoạt động, tạo nên tính tích cực của chủ thể, quy
định nhu cầu, hứng thú, ý hướng, cảm xúc, tâm thế và lý tưởng. Có nhiều quan
niệm khác nhau về động cơ tâm lý: theo chủ nghĩa hành vi, bất kì kích thích
nào(bên ngoài và bên trong) có khả năng thúc đẩy hành vi con người đều là động
cơ; Phân tâm học mô tả động cơ như những bản năng và ý tưởng sự vật có sẵn
trong con người; Tâm lý học hoạt động hiểu động cơ tâm lý là hình ảnh phản ánh
đối tượng trong hiện thực, đáp ứng nhu cầu, thúc đẩy và diều khiển hoạt động của
con người.
(Từ điển Bách khoa Việt nam –Tập 1)
1.5 Khái niệm định hướng nghề nghiệp
Định hướng nghề nghiệp là việc hình thành trong con người một hứng thú đối
với loại hoạt động lao động nhất định. Việc lựa chọn cho con người một nghề
nghiệp thích hợp nhất, có chú ý tới những đặc điểm tâm, sinh lý, lợi ích, khả năng
của người đó và cả nhu cầu của nền kinh tế quốc dân về sức lao động thuộc
những ngành nghề tương ứng, việc định hướng nghề nghiệp được thực hiện bằng
cách giới thiệu cho mọi người, đặc biệt là thanh niên, học sinh, các lĩnh vực và
các loại hoạt động, các nghề nghiệp, các xí nghiệp, xem xét điều kiện và dạng
công việc trong phạm vi đó.
(Từ điển Bách khoa Việt Nam – Tập 1)
2. Các hướng tiếp cận lý thuyết
2.1 Lý thuyết hệ thống
Tiếp cận hệ thống là một nguyên lí hoạt động của khoa học Điều khiển học
được nhiều ngành khoa học ứng dụng. Dưới góc độ Xã hội học, lý thuyết hệ thống
của T.Parsons được hầu hết các nhà nghiên cứu sử dụng làm cơ sở cho việc nghiên
cứu đời sống xã hội.Theo Parsons :
- Xã hội là một hệ thống tương đối khép kín, có phần đồng bộ của những hành
động.
- Hệ thống tổng thể cũng giống như một cá thể, luôn tự bảo tồn.
- Nó hướng tới một trạng thái cân bằng.
Như vậy "hệ thống xã hội được hình thành nhờ những trạng thái và quá trình tương
tác mang tính xã hội của những cá nhân hành động", dồng thời được dựa trên bốn
hệ thống phân hệ hành động của con người (cơ thể, hệ thống nhân sự, hệ thống xã
hội và hệ thống văn hoá ) và mỗi hệ thống này mang lại hiệu suất, chức năng khác
nhau phù hợp với bốn phân hệ trên, đó là :
- Chức năng phù hợp (Adaptation) : giải quyết những nhu cầu về môi
trường và tài nguyên thiên nhiên sẵn có - chức năng thuộc lĩnh vực lao động và
kinh tế.
- Chức năng hướng đích ( Goal attainment ) - chức năng chính trị
- Chức năng hoà nhập ( Integration ) - chức năng pháp luật
- Chức năng bảo toàn cấu trúc ( Latency ) - chức năng giáo dục
Nội dung của lý thuyết này có thể được khái quát như sau : xã hội ở tầm vĩ mô
hay vi mô đều luôn tồn tại với tư cách một hệ thống toàn vẹn, mọi bộ phận cấu
thành hệ thống đều phụ thuộc lẫn nhau một cách chặt chẽ, mỗi yếu tố riêng lẻ chỉ
có ý nghĩa khi đặt nó trong tổng thể, các mối tương tác, cơ cấu và trạng thái cũng
phải được đặt trong tổng thể nếu muốn hiểu rõ về chúng.
Trên cơ sở đó, khi xem xét hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội
học, ta phải đặt nó trong mối quan hệ biên chứng và thống nhất với những quá
trình, những hoạt động khác của sinh viên, đồng thời đặt nó vào bối cảnh kinh tếxã hội để có được cái nhìn đa diện và biện chứng.
2.2 Lý thuyết hành động xã hội
Các lý thuyết Xã hội học về hành động xã hội có nguồn gốc từ Pareto, Weber,
Znaniecki, Mead, Parsons. Các lý thuyết này đều coi hành động xã hội là cốt lõi
của mối quan hệ giữa con người và xã hội, đồng thời là cơ sở của đời sống xã hội.
Trong Xã hội học, hành động xã hội được hiểu một cách cụ thể và thường gắn với
các chủ thể hành động là các cá nhân. Định nghĩa của Weber được coi là định nghĩa
hoàn chỉnh nhất về hành động xã hội. Ông cho rằng hành động xã hội là hành vi mà
chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nhất định, trên cơ sở đó chủ thể định
hướng vào hành vi của những chủ thể khác. Không chỉ Weber mà cả những tác giả
khác của lý thuyết hành động xã hội đều quan tâm đến một vấn đề cơ bản của hành
động xã hội, đó là sự tham gia của yếu tố ý thức, Weber thì gọi đó là ý nghĩa chủ
quan và sự định hướng mục đích, Mead thì xem đó là tâm thế xã hội của các cá
nhân.
Hành động xã hội luôn gắn với tính tích cực cá nhân. Tính tích cực này lại bị quy
định bởi hàng loạt những yếu tố như nhu cầu, lợi ích, định hướng giá trị của chủ thể
hành động. Tất cả những yếu tố và quá trình đó là phương thức tồn tại của chủ thể .
Xem xét hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học dưới góc độ của
lý thuyết hành động xã hội sẽ thấy được thực trạng của hoạt động này được quy
định bởi những yếu tố như nhu cầu, lợi ích, định hướng giá trị của chính chủ thể
sinh viên. Từ đó thấy được mối liên hệ biện chứng giữa động cơ và thực trạng hoạt
động học thêm ngoại ngữ trong sinh viên Xã hội học hiện nay
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Tổng quan tình hình học ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học
Khoa Xã hội học trường ĐH KHXH&NV thuộc ĐHQG Hà Nội được chính thức
thành lập, tách ra khỏi khoa Tâm lý học xã hội vào năm 1996. Hiện nay khoa đang
đào tạo hơn 500 sinh viên hệ cử nhân chính quy. Việc thi tuyển đầu vào được thực
hiên ở các khối A,C,D trong đó khối C chiếm tỉ lệ cao nhất, khối D chỉ chiếm gần
30%.
Sinh viên học tập tại khoa, cũng như sinh viên các khoa khác trong trường,
được đăng ký học ngoại ngữ theo nguyện vọng. Tuy nhiên, do ở chương trình phổ
thông sinh viên chủ yếu được đào tạo môn tiếng Anh nên đa phần sinh viên đăng
ký theo học tiếng Anh tại trường, chỉ có khoảng 10% đăng kí các thứ tiếng khác
như Pháp, Nga, Trung. Sinh viên Xã hội học được học ngoại ngữ trong 5/8 kì học
và được giảng dạy bằng những giáo trình thông dụng do giáo trình ngoại ngữ
chuyên ngành chưa được biên soạn.
Do thi đầu vào từ nhiều khối, nhiều miền khác nhau với trình độ ngoại ngữ rất
khác nhau, nhìn chung kết quả học ngoại ngữ tại trường của sinh viên Xã hội học
có một sự phân hoá rất lớn, nhiều sinh viên dễ dàng vượt qua các kỳ thi với điểm
khá, giỏi và thấy chương trình học có phần đơn giản không phù hợp với trình độ.
Trong khi đó có một bộ phận lớn các sinh viên thi khối A,C, sinh viên vùng cao,
vùng sâu vùng xa lại thấy chương trình học ngoại ngữ chính khoá quá phức tạp đối
với họ và không thể tránh khỏi việc thi lại.
Hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học rất đa dạng về động cơ,
hình thức cũng như hiệu quả thu được. Sinh viên có thể học thêm một ngoại ngữ
mới hoặc chỉ củng cố và nâng cao ngoại ngữ đang theo học tại trường. Sinh viên có
thể học với hình thức gia sư, lớp tự tổ chức, các lớp tại chức, đào tạo từ xa, nhưng
phổ biến nhất vẫn là theo học tại các trung tâm ngoại ngữ, hiện là một hình thức
học thông dụng nhất tại Hà Nội.
Hiện nay, theo số liệu thống kê của sở GD-ĐT, tính đến thời điểm tháng 8-2000,
trên địa bàn Hà Nội có 65 trung tâm ngoại ngữ có đăng kí với sở và rất nhiều trung
tâm mở không đăng kí.Các trung tâm ngoại ngữ chủ yếu tập trung ở khu vực
trường Đại học Bách khoa, cụm các trường đại học thuộc quận Thanh Xuân và Cầu
Giấy.Tại Hà Nội, chỉ có 2 trung tâm dạy ngoại ngữ với 100% giáo viên người nước
ngoài là trung tâm Apollo (có mặt tại đây từ năm 1994) và trung tâm Language
Link -UDP (có mặt từ 1996) Đây là nơi có chất lượng đào tạo rất cao, điều kiện học
tập và giảng dạy tốt nhưng cũng đòi hỏi ở người học một trình độ nhất định và đặc
biệt là học phí rất cao (300USD cho 6 tháng học tại Language Link và 171 USD
cho 3 tháng học tại Apollo ) Do đó , hầu hết sinh viên vẫn tìm đến những trung tâm
ngoại ngữ do giáo viên Việt Nam giảng dạy dù có thể môi trường và chất lượng học
tập ở những nơi này không được tốt.
2. Nhận thức của sinh viên về vai trò của ngoại ngữ.
Phong trào học ngoại ngữ trở nên thực sự lớn mạnh ở Việt Nam trong khoảng
hơn một thập kỷ nay cũng với sự mở cửa giao lưu của xã hội Việt Nam và sự phát
triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với xã hội,
ngoại ngữ được xem như một phương tiện để hội nhập với thế giới, để giao lưu học
hỏi và thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội. Đối với cá nhân, ngoại ngữ là
điều kiện để đảm bảo một tương lai vững chắc, là tấm vé giúp cá nhân tự tin gia
nhập vào thị trường việc làm đầy tính cạnh tranh như hiện nay. Sinh viên- những
người trong tương lai rất gần sẽ bước vào thị trường ấy-là những đối tượng cần đặc
biệt trao dồi và nâng cao vốn ngoại ngữ của mình. Vai trò to lớn của ngoại ngữ theo
sinh viên từ khi họ còn học tập tại giảng đường đại học, ngoại ngữ giúp sinh viên
mở rộng thêm vốn kiến thức của mình qua những nguồn tài liệu phong phú, giúp họ
trở nên tự tin hơn. Sau khi tốt nghiệp, ngoại ngữ sẽ là điều kiện cần thiết, có thể là
thế mạnh trong cạnh tranh của sinh viên khi xin việc và khi đã bước vào ngưỡng
cửa của công việc, ngoại ngữ vẫn sẽ theo họ, trở thành vốn kiến thức quý báu giúp
họ thực hiện tốt hơn công việc của mình.
Tầm quan trọng của ngoại ngữ đối với mọi người nói chung và đối với sinh viên
nói riêng dường như đã trở thành một vấn đề không cần bàn cãi. Tuy nhiên, phải
chăng mọi sinh viên đều đã có thể nhận thức được điều đó? Liệu có tồn tại những
sinh viên chỉ thấy được bề nổi của sự phát triển mạnh mẽ phong trào học ngoại
ngữ, chỉ thấy sự cần thiết mang tính hình thức của những tấm bằng khi xin việc ?
Để tìm câu trả lời cho vấn đề này, tôi tiến hành tìm hiểu nhận thức của sinh viên
đối với tầm quan trọng của ngoại ngữ thông qua câu hỏi “ Xin bạn đánh giá tầm
quan trọng của ngoại ngữ đối với bạn khi ra trường” và đưa ra 3 phương án trả lời :
1.Rất quan trọng
2.Không quan trọng lắm
3.Không quan trọng
Sở dĩ tôi chỉ đưa ra 3 phương án trên mà không có phương án “ quan trọng” bởi
tôi muốn đánh giá tầm quan trọng của ngoại ngữ theo 3 mức độ nhiều, trung bình
và ít, nếu có ai đó chỉ muốn đánh giá ở mức “quan trọng “ thì có nghĩa là họ cũng
thiên về phương án với mức độ nhiều. Chỉ đưa ra 3 phương án sẽ hạn chế được sự
phân tán trong các câu trả lời.
Bảng 2 : Đánh giá vai trò của ngoại ngữ
STT
Mức độ đánh giá
Sinh viên XHH
Sinh viên
1
Rất quan trọng
78%
76%
2
Không quan trọng lắm
20%
22%
3
Không quan trọng
2%
2%
Nhìn chung, đa phần sinh viên Xã hội học đều đánh giá vai trò của ngoại ngữ đối
với họ là rất cần thiết. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một tỷ lệ đáng kể cho rằng ngoại ngữ
đối với họ chỉ hơi quan trọng và một tỷ lệ nhỏ cho rằng ngoại ngữ không quan
trọng.Nhận thức về tầm quan trọng của ngoại ngữ trong sinh viên Xã hội học so với
sinh viên nói chung là không có sự chênh lệch đáng kể.
Ta hãy xét về cơ cấu của những ý kiến này để hiểu rõ hơn vấn đề.
Bảng 3 : Đánh giá vai trò của ngoại ngữ theo giới, năm học và hộ khẩu
thường trú của sinh viên Xã hội học
STT
1
2
Mức độ đánh giá
Rất quan trọng
Giới
Năm
I-
Nữ
80%
Năm
87,2%
III-IV Nông
82,8%
Không quan trọng Nam 27,8%
Nữ
Không quan trọng
Hộ khẩu
Nam 69,4%
lắm
3
Năm học
Nam
Nữ
76,7%
Năm
15%
15,6% Năm
2,8%
1,6%
II Đô
thị
thôn
69,8%
I-II Đô thị 8,5%
III-IV Nông
thôn
23,3%
30,2%
Năm I- II 5% Đô thị 4,3%
Năm III-IV Nông
thôn
0
0
Về mặt giới, có một sự chênh lệch nhất định trong việc đánh giá vai trò của
ngoại ngữ. Nữ sinh viên có xu hướng coi ngoại ngữ có tầm quan trọng cao hơn đối
với họ với hơn 80% coi ngoại ngữ là rất quan trọng, trong khi tỷ lệ này ở nam chỉ
là gần 70%. Tỷ lệ coi ngoại ngữ là không quan trọng ở nữ cũng thấp hơn nam và ở
cả hai giới phương án này chỉ chiếm một phần rất nhỏ.
Theo cơ cấu năm học, không có sự phân biệt lớn ở sự lựa chọn phương án
đầu.Với phương án coi ngoại ngữ là không quan trọng lắm thì có sự chênh lệch khá
rõ, có tới 23,3% sinh viên những năm cuối coi ngoại ngữ là không quan trọng lắm,
thì tỉ lệ này ở nhóm sinh viên những năm đầu là 15%.Tuy nhiên, trong khi không
một sinh viên năm III-IV nào đánh giá rất thấp vai trò của ngoại ngữ, còn ở nhóm
sinh viên năm I-II, lại có 5% coi ngoại ngữ là không quan trọng đối với họ.Như vậy
là dù có sự chênh lệch nhất định ở các phương án trả lời nhưng nhìn chung không
có sự khác biệt lớn trong nhận thức của các nhóm sinh viên những năm cuối và đầu
về tầm quan trọng của ngoại ngữ,
Hộ khẩu thường trú cũng là một yếu tố tác động đến nhận thức của sinh viên về
tầm quan trọng của ngoại ngữ. Trong nhóm sinh viên có hộ khẩu đô thị, có gần
90% coi ngoại ngữ là rất quan trọng đối với họ, tỷ lệ này trong nhóm sinh viên
nông thôn chỉ là xấp xỉ 70%. Hầu hết sinh viên đô thị đều định hướng làm việc tại
đô thị, đồng thời với định hướng đó họ cũng cần coi ngoại ngữ như một phương
tiện, một điều kiện thiết yếu. Còn đối với sinh viên nông thôn, tỷ lệ lựa chọn
phương án này thấp hơn vì có một bộ phận sinh viên định hướng làm việc tại quê
nhà sẽ không coi ngoại ngữ là yếu tố tối cần thiết. Cũng có một sự chênh lệch lớn
trong sự lựa chọn phương án thứ hai, số sinh viên nông thôn coi ngoại ngữ là không
quan trọng lắm cao gấp gần 4 lần so với sinh viên đô thị Tuy nhiên , ở phương án
cuối cùng, hướng đi của các câu trả lời đã thay đổi, không một sinh viên nông thôn
nào phủ nhận vai trò của ngoại ngữ nhưng lại có 4,3% sinh viên đô thị coi ngoại
ngữ là không quan trọng đối với họ.Mặc dù vậy, nhìn chung nhóm sinh viên đô thị
vẫn có xu hướng coi trọng ngoại ngữ hơn.
Tóm lại, ta có thể rút ra những nhận xét sau đây về nhận thức của sinh
viên Xã hội học đối với tầm quan trọng của ngoại ngữ :
- Đa số sinh viên coi ngoại ngữ là rất quan trọng đối với họ khi ra trường.
- Nhóm nữ sinh viên, nhóm có hộ khẩu thường trú tại đô thị có xu hướng đánh
giá cao vai trò của ngoại ngữ hơn so với hai nhóm nam và thường trú tại
nông thôn.
- Trong cơ cấu đánh giá theo năm học, trong từng phương án trả lời có sự khác
biệt nhất định những trên mặt bằng chung thì giữa hai nhóm năm I-II và năm
III-IV không có sự khác biệt lớn trong đánh giá vai trò của ngoại ngữ.
Như vậy, có thể nói tỷ lệ sinh viên đánh giá cao vai trò của ngoại ngữ chiếm
phần đông là một dấu hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, cần thấy rằng từ nhận thức
đến hành vi là một quá trình dài và khó khăn, phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Nhận
thức của sinh viên về ngoại ngữ tốt như vậy nhưng trong thực tế họ đã hành động
như thế nào.Ta hãy tìm hiểu thực trạng việc học thêm để hiểu phần nào một khía
cạnh trong hoạt động học ngoại ngữ của họ.
3.Thực trạng hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học
3.1 Một số nhận xét và tương quan với sinh viên nói chung
Ngoại ngữ là một môn học quan trọng trong chương trình chính khoá của học
sinh từ tiểu học đến đại học và trên đại học. Đối với sinh viên, môn học này càng
đặc biệt quan trọng bởi nó có ý nghĩa lớn đối với công việc của họ sau khi tốt
nghiệp. Chính vì thế, ngoài việc học ngoại ngữ theo chương trình chính khoá của
nhà trường, nhiều sinh viên đã dành thời gian cho việc học thêm ngoại ngữ để củng
cố và tăng cường một trong những vốn tri thức quan trọng này trong hành trang vào
đời của họ. Sinh viên Xã hội học nói riêng càng có nhiều lý do để trau dồi vốn kiến
thức của mình, bởi trong thế kỷ 21 này Xã hội học đã được coi là ngành khoa học
mũi nhọn ở Việt Nam và ngoại ngữ là vốn quý không thể thiếu giúp những nhà Xã
hội học tương lai giao lưu, học hỏi những tri thức Xã hội học thế giới để Xã hội học
Việt Nam sẽ ngày càng lớn mạnh, ngày càng phát huy được vai trò của nó trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Vậy thực tế hoạt động học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học đang diễn
ra như thế nào và hoạt động ấy có những điểm gì tương đồng và khác biệt với hoạt
động học thêm ngoại ngữ của sinh viên nói chung ?
Theo kết quả điều tra mẫu, số lượng sinh viên Xã hội học học thêm ngoại ngữ
là 78, chiếm 78%; số lượng sinh viên không học thêm là 22, chiếm 22%.Trong khi
đó, tỉ lệ đi học thêm ngoại ngữ trong nhóm sinh viên nói chung là 61%. Như vậy
qua kết quả này ta thấy rằng học thêm ngoại ngữ là một hoạt động khá phổ biến
trong sinh viên Xã hội học hiện nay và sinh viên Xã hội học có xu hướng đi học
thêm nhiều hơn so với sinh viên nói chung. Sự phổ biến này cũng được thể hiện rõ
qua cơ cấu của người đi học thêm.
Bảng 4: Cơ cấu sinh viên học thêm ngoại ngữ
STT
1
Số lượng(đơn vị:người)
%
25
69,4%
53
82,8%
30
75%
Tiêu chí
Giới tính
1.Nam
2.Nữ
2
Năm học
1.I hoặcII
48
80%
43
91,5%
35
66%
2.III hoặc IV
3
Hộ khẩu thường trú
1. Đô thị
2. Nông thôn
Như vậy hoạt động học thêm ngoại ngữ là hoạt động tương đối phổ biến trong sinh
viên Xã hội học nói chung nhưng mức độ phổ biến cũng có khác biệt giữa các
nhóm giới tính, năm học và hộ khẩu thường trú khác nhau. Nhóm sinh viên nam,
nhóm năm thứ I-II và nhóm nông thôn có xu hướng đi học thêm ít hơn so với
những nhóm còn lại
Bảng 5: Lý do học thêm ngoại ngữ của sinh viên Xã hội học
STT
Sinh viên XHH
Sinh viên
43,6%
42,6%
14,1%
29,5%
Lý do
1
Để nâng cao
trình độ ngoại ngữ
2
Để củng cố trình độ ngoại ngữ
- Xem thêm -