TÂM LÝ HỌC TRÍ TUỆ
TÂM LÝ HỌC TRÍ TUỆ
Phan Trọng Ngọ (Chủ b iên)
LỜI NÓI ĐẦU
Trí tuệ là một trong rất ít lĩnh vực được đề cập
ngay từ những ngày khai sinh của tâm lí học khoa học.
Từ đó đến nay, đã có rất nhiều công trình đồ sộ nghiên
cứu bản chất các quy luật phát sinh, phát triển của nó
trong đời sống và hoạt động tâm lí con người. Nhiều
nhà Bác học vĩ đại đã trở thành danh nhân văn hoá
nhân loại, do có đóng góp lớn lao trong lĩnh vực này
như G.Piagie, L.X.Vưgotxki. Nhiều chương trình dạy
học có tính chất cách mạng được xây dựng trên cơ sở
các thành tựu nghiên cứu trí tuệ trẻ em. Tuy nhiên, do
tầm quan trọng và sự hấp dẫn của nó, nên vấn đề trí
tuệ thường xuyên là nơi hội tụ của các quan điểm, các
cách tiếp cận khác nhau, phục vụ cho các mục đích
khác nhau
Thuvientailieu.net.vn
Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên
cứu ứng dụng vấn đề trí tuệ vào thực tiễn dạy học và
giáo dục trẻ em cũng như các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội. Trong khi đó các công trình nghiên cứu lí
luận cơ bản còn ít. Điều này đã gây khó khăn cho việc
học tập và nghiên cứu trí tuệ trong khoa học giáo dục
nói riêng, trong các lĩnh vực khoa học liên quan tới con
người nói chung. Để giúp các học viên, cán bộ giảng
dạy và nghiên cứu có thêm phương tiện tiếp cận vấn
đề lí thú và phức tạp này, chúng tôi biên soạn tài liệu
"Tâm lí học trí tuệ". Nội dung của tài liệu gồm 7
chương. Chương một giới thiệu các hướng tiếp cận
vấn đề trí tuệ trong tâm lí học. Chương hai phân tích
các mô hình cấu trúc của trí tuệ. Chương ba và
chương bốn là nội dung chủ yếu của tài liệu, phân tích
sự hình thành, phát triển trí tuệ của cá nhân và các yếu
tố chi phối sự phát triển. Chương năm bàn riêng về
các phương pháp nghiên cứu trí tuệ trong tâm lí học.
Chương sáu đề cập một số vấn đề về trẻ em phát triển
chậm về trí tuệ. Chương bảy (chương mở rộng), giới
thiệu một số vấn đề về trực giác trí tuệ trong truyền
thống văn hoá Phương Đông cổ đại.
Trong quá trình biên soạn tài liệu, chúng tôi
Thuvientailieu.net.vn
đã nhận được sự chỉ dẫn, góp ý nhiệt tình và sâu sắc
của PGS Lê Văn Hồng, PGS.TS Nguyễn Thạc, PGS.TS.
Nguyễn Văn Thông và nhiều nhà khoa học khác. Từ
đáy lòng, chúng tôi chân thành cảm ơn các nhà khoa
học, các bạn đồng nghiệp đã động viên và góp nhiều ý
kiến quý báu.
Trí tuệ là vấn đề phong phú và phức tạp trong
tâm lí học. Vì vậy, tuy chúng tôi đã cố gắng rất nhiều
trong quá trình biên soạn tài liệu, nhưng do thời gian
và khả năng có hạn nên khó tránh khỏi khiếm khuyết.
Chúng tôi vui lòng và biết ơn sự góp ý của đọc giả.
Hà Nội
Các tác giả
Chương 1: MỘT SỐ HƯỚNG TIẾP CẬN TRÍ TUỆ
TRONG TÂM LÍ HỌC
Chương 2: CẤU TRÚC CỦA TRÍ TUỆ
Chương 3: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ
QUA CÁC GIAI ĐOẠN LỨA TUỔI
Chương 4: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI SỰ PHÁT
TRIỂN TRÍ TUỆ CÁ NHÂN
Chương 5: CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TRÍ TUỆ
TRONG TÂM LÍ HỌC
Chương 6: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRẺ CHẬM PHÁT
Thuvientailieu.net.vn
TRIỂN TRÍ TUỆ
Chương 7: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRỰC GIÁC TRÍ TUỆ
TRONG TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ PHƯƠNG ĐÔNG
CỔ ĐẠI
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN
Thuvientailieu.net.vn
Chương 1: MỘT SỐ HƯỚNG TIẾP CẬN TRÍ
TUỆ TRONG TÂM LÍ HỌC
TÂM LÝ HỌC TRÍ TUỆ
Trí tuệ là một trong những lĩnh vực được
nghiên cứu nhiều và rất sớm trong tâm lí học. Vì vậy,
không thể đề cập hết các thành tựu đã có về vấn đề
này. Tuy nhiên, nếu không đi sâu phân tích chi tiết, mà
chỉ điểm qua, có tính chất liệt kê, có thể khái quát một
số hướng tiếp cận chính sau
1.1. TIẾP CẬN LIÊN TƯỞNG VÀ TIẾP CẬN HÀNH ĐỘNG
TINH THẦN
1.2. TIẾP CẬN HÀNH VI
1.3. TIẾP CẬN SINH HỌC
1.4. TIẾP CẬN HÌNH THÁI (GHESTAN)
1.5. TIẾP CẬN PHÁT SINH TRÍ TUỆ (TIẾP CẬN KIẾN
TẠO)
1.6. TIẾP CẬN HOẠT ĐỘNG
1.7. TIẾP CẬN LÍ THUYẾT THÔNG TIN - TÂM LÍ HỌC
NHẬN THỨC
Thuvientailieu.net.vn
1.1. TIẾP CẬN LIÊN TƯỞNG VÀ TIẾP CẬN
HÀNH ĐỘNG TINH THẦN
TÂM LÝ HỌC TRÍ TUỆ à Chương 1: MỘT SỐ HƯỚNG TIẾP CẬN TRÍ TUỆ TRONG TÂM
LÍ HỌC
Tiếp cận liên tưởng và tiếp cận hành động
tinh thần là hai hướng tiếp cận cổ điển và là điển hình
của hai trường phái triết học trái ngược nhau được du
nhập vào lĩnh vực tư duy, trí tuệ: triết học duy vật - duy
cảm Anh và triết học duy lí Đức.
1.1.1. Tiếp cận liên tưởng vấn đề tư duy, trí tuệ
Tiếp cận liên tưởng là trường phái tâm lí học
Anh, giải thích động thái các quá trình tâm lí theo
nguyên tắc kết hợp, liên tưởng các hình ảnh tri giác.
Đại biểu của hướng tiếp cận này là các nhà triết học
tâm lí học Anh: D.Ghatli (1705 – 1836), D.S.Milơ (1806
– 1873), H.Spenxơ (1820 – 1903). Trong phạm vi tâm
lí học nói chung, những luận điểm cơ bản của hướng
tiếp cận liên tưởng bao gồm: 1). Tâm lí (hiểu theo
nghĩa là yếu tố ý thức) được cấu thành từ các cảm
giác. Cảm giác là cái thứ nhất, là cái cơ sở, còn các
cấu thành như biểu tượng, ý nghĩ, tình cảm... là cái thứ
hai, xuất hiện nhờ liên
tưởng các cảm giác; 2). Điều
Thuvientailieu.net.vn
kiện để hình thành các liên tưởng là sự gần gũi của
các quá trình tâm lí; 3). Các mối liên tưởng bị quy định
bởi sự linh hoạt của các thành phần được liên tưởng
và tần số nhắc lại của chúng trong kinh nghiệm.
Sau này thuyết liên tưởng dựa vào cơ chế
phản xạ có điều kiện do P.I.Pavlov phát hiện: làm cơ
sở sinh lí thần kinh của các mối liên tưởng tâm lí
Chuyển vào lĩnh vực tư duy, trí tuệ, các nhà
liên tưởng cho rằng tư duy là quá trình thay đổi tự do
tập hợp các hình ảnh, là sự liên tưởng các biểu tượng.
Tư duy luôn là tư duy hình ảnh. Mối quan tâm chủ yếu
của các nhà liên tưởng là tốc độ và mức độ liên kết các
hình ảnh, các biểu tượng đã có, tức là quan tâm chủ
yếu tới vấn đề tái tạo các mối liên tưởng, nên tư duy
theo hướng tiếp cận liên tưởng là tư duy tái tạo. Theo
họ, có 4 loại liên tưởng; liên tưởng giống nhau, liên
tưởng tương phản, liên tưởng gần nhau về không gian
và thời gian, liên tưởng nhân quả. Liên tưởng nhân
quả có vai trò đặc biệt quan trọng trong các quá trình trí
tuệ. Sự phát triển trí tuệ là quá trình tích luỹ các mối
liên tưởng. Sự khác biệt về trình độ trí tuệ được quy về
số lượng các mối liên tưởng, về tốc độ hoạt hoá các
liên tưởng đó. Như vậy,
sự phát triển trí tuệ chỉ là sự
Thuvientailieu.net.vn
vận động bên trong của các hình ảnh cảm tính mà thôi.
Mặc dù có nhiều cố gắng để giải thích các
hiện tượng tâm lí ý thức, theo chiều hướng khách
quan, bằng cách kéo tâm lí học lại gần với sinh lí học,
nhưng về cơ bản thuyết liên tưởng chưa thoát khỏi tư
duy siêu hình, với đặc trưng là phương pháp quy nạp
hình thức các sự kiện. Vì vậy, thuyết liên tưởng mới chỉ
nêu ra nguyên tắc giải thích máy móc về trí tuệ mà
chưa đề cập đến bản chất, cấu trúc, vai trò của trí tuệ
trong hoạt động của con người.
1.1.2. Tiếp cận hành động tinh thần
Tiếp cận hành động tinh thần là đặc trưng của
trường phái tâm lí học Vuxbua - một trường phái tâm lí
học Đức, theo truyền thống triết học duy lí. Đại biểu của
trường phái này là các nhà tâm lí học Đức: O.Quynpe
(1862-1915), O. Denxơ (1881-1944) và K.Biulơ (18971963)...
Về tổng thể, trường phái Vuxbua đã cố gắng
đặt ra và giải quyết hàng loạt vấn đề khác biệt về chất
giữa tư duy với các quá trình tâm lí khác, vạch ra sự
hạn chế của các nhà tâm lí học liên tưởng trong
nghiên cứu tư duy. Thuvientailieu.net.vn
Tư tưởng chủ đạo của trường phái Vuxbua là
nghiên cứu tư duy, trí tuệ thông qua thực nghiệm giải
các bài toán tư duy. Phương pháp chủ yếu sử dụng
trong thực nghiệm là tự quan sát (hầu hết các nghiệm
thể tham gia thực nghiệm là các nhà tâm lí chuyên
nghiệp. Họ có nhiệm vụ thường xuyên thông báo về
diễn biến quá trình tư duy của mình khi giải quyết
nhiệm vụ).
Bằng thực nghiệm, các nhà tâm lí học Vuxbua
đã đi đến những kết luận về bản chất của tư duy. Theo
họ, tư duy là hành động bên trong của chủ thể nhằm
xem xét các mối quan hệ (Quan hệ ở đây là tất cả
những gì không mang đặc điểm của hình ảnh cảm
tính, là tất cả sự tổng hợp phong phú các khái niệm).
Việc xem xét các mối quan hệ này độc lập với việc tự
giác các thành phần tham gia quan hệ. Thành thử, quá
trình tư duy diễn ra không cần có sự hỗ trợ của các
biểu tượng cảm tính, rời rạc. Hành động tư duy là công
việc của "cái tôi" của chủ thể. Nó chịu ảnh hưởng của
nhiệm vụ (bài toán tư duy). Nhiệm vụ định hướng cho
hành động tư duy. Khi chủ thể nhận ra bài toán có
nghĩa là đã biến các chỉ dẫn từ bên ngoài thành tự chỉ
dẫn trong quá trình giải quyết nhiệm vụ. Tính lựa chọn
Thuvientailieu.net.vn
của tư duy bị quy định bởi sự vận động của tự chỉ dẫn.
Nó được thể hiện ở việc tăng cường một số liên
tưởng; ức chế, dập tắt các liên tưởng khác.
Trong các công trình của O.Den xơ đã chỉ ra
thực chất của tư duy là sự vận hành của các thao tác trí
tuệ để giải quyết bài toán tư duy. Quá trình này diễn ra
qua nhiều giai đoạn. Trong đó giai đoạn nhận thức
đầu bài toán và cấu trúc lại nó, tạo ra tình huống có vấn
đề cho tư duy là quan trọng nhất. Có thể nói, thực chất
của quá trình giải quyết bài toán tư duy là quá trình cấu
trúc lại bài toán đó. Trong quá trình giải các bài toán,
chủ thể phải thường xuyên sử dụng các thao tác trí tuệ
như phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, tạo ra sự
giống nhau (khái quát hoá).v.v.
Đánh giá tổng quát, hướng tiếp cận của các
nhà tâm lí học Vuxbua đã có đóng góp lớn cho tâm lí
học về tư duy, trí tuệ. Lần đầu tiên, trong tâm lí học, tư
duy, trí tuệ được nghiên cứu là một hành động bên
trong, là một quá trình vận động của các thao tác trí
tuệ. Nó có đối tượng là các quan hệ. Đây là bước tiến
lớn trên con đường tìm hiểu bản chất của tư duy, trí tuệ
và khắc phục các quan niệm giản đơn của thuyết liên
tưởng về vấn đề này.Thuvientailieu.net.vn
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của triết
học duy lí Đức (từ I.Cantơ, I.G.Phichtơ đến
G.V.Hêghen), nên hành động tư duy, trí tuệ theo quan
điểm của phái Vuxbua, chỉ thuần tuý là hành động tinh
thần bên trong. Nó không liên quan tới các yếu tố bên
ngoài. Bài toán tư duy (hoàn cảnh có vấn đề) chỉ có tác
dụng khởi động lúc đầu, còn sau đó các thao tác tự
vận động theo lôgic nội tại của chúng. Nội dung khách
quan của bài toán và các thao tác chỉ quan hệ về hình
thức, còn thực chất chúng tách rời nhau. Nói cách
khác, vấn đề quan hệ giữa chủ thể tư duy với các điều
kiện bên ngoài của chính quá trình tư duy đã bị loại ra
khỏi tầm nghiên cứu của các nhà tâm lí học Vuxbua. Vì
vậy, vấn đề bản chất xã hội và lôgic tâm lí của tư duy, trí
tuệ vẫn chưa được giải quyết.
Thuvientailieu.net.vn
1.2. TIẾP CẬN HÀNH VI
TÂM LÝ HỌC TRÍ TUỆ à Chương 1: MỘT SỐ HƯỚNG TIẾP CẬN TRÍ TUỆ TRONG TÂM
LÍ HỌC
1.2.1 Thuyết hành vi cổ điển
Tiếp cận hành vi là một trong những cố gắng
rất lớn của tâm lí học thế giới đầu thế kỉ XX, nhằm khắc
phục tính chủ quan trong nghiên cứu các hiện tượng
tâm lí người thời đó. Kết quả là, đã hình thành lên
trường phái có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển
của tâm lí học Mỹ và thế giới thế kỷ XX: Tâm lí học hành
vi, mà đại biểu xuất sắc là các nhà tâm lí học kiệt xuất:
J.Watson
E.L.Toocdai
(1878-1958),
(1874-1949),
E.Tolmen
(1886-1959),
B.Ph.Skinnơ
(1904-
1990)...Các nhà tâm lí học theo hướng tiếp cận hành vi
phủ nhận việc nghiên cứu ý thức con người. Theo họ,
ý thức không đóng vai trò gì trong việc điều chỉnh hoạt
động của con người và tâm lí học không thể nghiên
cứu nó bằng phương pháp khách quan. Vì vậy, tâm lí
học chỉ nghiên cứu hành vi con người mà thôi. Tâm lí
(của cả người và con vật) chỉ là các dạng hành vi khác
nhau. Hành vi là tập hợp các phản ứng của cơ thể đáp
Thuvientailieu.net.vn
lại các kích thích từ môi trường bên ngoài. Nhiệm vụ
của nhà tâm lí học là mô tả và lượng hoá các hành vi
đó, đúng như nó diễn ra trong tình huống xác định.
Phương pháp của nhà tâm lí học là quan sát khách
quan và thực nghiệm các phản ứng của cơ thể khi có
tác nhân kích thích, nhằm mục đích xác định tương
quan giữa kích thích và phản ứng. Hầu hết các thực
nghiệm của trường phái hành vi được thực hiện trên
động vật (chuột, chim bồ câu...), sau đó, các kết quả
này được ứng dụng trên con người. Cơ sở sinh lí thần
kinh được quan tâm trong các thực nghiệm là phản xạ
có điều kiện). Cơ chế hình thành các hành vi là sự mò
mẫm của chủ thể, theo nguyên tắc "thử và sai," qua
nhiều lần, cho tới khi xác lập được các phản ứng phù
hợp, luyện tập và củng cố nó. Các nhà hành vi chủ
nghĩa coi nhẹ tính tích cực của chủ thể, đề cao vai trò
của kích thích bên ngoài trong việc tạo ra các phản
ứng. Vì vậy, nghiên cứu và điều khiển việc hình thành
hành vi trí tuệ (cho cả động vật và con người) được quy
về việc nghiên cứu tạo ra "môi trường các kích thích",
được sắp xếp theo lôgic cho phép hình thành các
phản ứng mong muốn, tức là quá trình "điều kiện hoá
hành vi."
Thuvientailieu.net.vn
Theo các nhà tâm lí học hành vi, hành vi trí tuệ
(của cả người và động vật) là các phản ứng có hiệu
quả mà cá thể (chủ thể) học được, nhằm đáp lại các
kích thích của môi trường sống. Trong các công trình
của J.Watson, hành vi trí tuệ được đồng nhất với ngôn
ngữ bên trong. Từ đó, ông chia tư duy thành 3 dạng:
thứ nhất, là các thói quen, kĩ xảo ngôn ngữ đơn giản
(đọc một đoạn thơ hay đoạn văn mà không làm thay
đổi trật tự từ); dạng thứ hai, giải quyết các nhiệm vụ tuy
không mới, nhưng ít gặp và phải có hành vi ngôn ngữ
kèm theo (nhớ lại một đoạn thơ hay một sự kiện đã
thoảng qua trong kí ức); dạng thứ ba: giải quyết các
nhiệm vụ mới, buộc cơ thể lâm vào hoàn cảnh phức
tạp, đòi hỏi phải giải quyết bằng ngôn ngữ trước khi
thực hiện một hành động cụ thể.
Như vậy, vấn đề học tập và kĩ xảo đạt được là
trung tâm của tâm lí học hành vi. Theo các nhà hành vi,
tư duy giống như kĩ xảo, nó được hình thành theo cơ
chế phản xạ và luyện tập chúng.
1.2.2. Các học thuyết hành vi mới
Sự phát triển tiếp theo của hướng tiếp cận
hành vi sau J.Watson đã dẫn đến phân hoá trường
Thuvientailieu.net.vn
phái tâm lí học này thành ba nhánh: Tâm lí học hành vi
bảo thủ, trung thành với các luận điểm ban đầu, có tính
cơ giới về hành vi trí tuệ con người của J. Watson
(Thuyết S-R), đại biểu là Skinnơ; Tâm lí học hành vi
mới, với ý đồ nghiên cứu cả các yếu tố trung gian của
chủ thể trong sơ đồ kích thích - phản ứng, yếu tố đó
chính là quá trình nhận thức (Thuyết S-S), đại biểu là
E.Tolmen, tâm lí học hành vi chủ quan (Thuyết "TOTE"chữ đầu của các từ tiếng Anh,T: Test, O: Operate,T:
Testt E: Exit, tức là thuyết thử - thao tác - thử - thoát ra).
Đại diện thuyết TOTE là O.Milơ, Galanter, Priham. Sự
khác nhau giữa các thuyết trên tập trung ở ba điểm.
Thứ nhất, nhân tố phát động một hành vi. Thuyết hành
vi cổ điển cho rằng các phản ứng bên ngoài là nhân tố
phát động, còn theo thuyết hành vi mới thì đó là các
"cấu trúc nhận thức"; đối với thuyết TOTE, nhân tố phát
động hành vi của con người và con vật là các quá trình
ở trung ương thần kinh, trí nhớ, tâm thế, sự mong
đợi...Thứ hai, kết quả học tập. Thuyết (S-R) quan niệm
kết quả học tập là kĩ xảo (trật tự nào đó của các cử
động).
Còn thuyết (S-S), kết quả học tập là "các cấu
trúc nhận thức" (hay là sự phản ánh một tình huống
Thuvientailieu.net.vn
nào đó). Thứ ba: phương pháp ứng xử. Thuyết (S-R)
cho rằng phương thức thích ứng là "thử và sai", còn
theo thuyết (S-S), tính chất và thành công của các hành
vi phụ thuộc vào cấu trúc của tình huống khách quan
quy định. Vì vậy, tổ chức (cấu trúc) tình huống quy định
sự hoạt hoá của cá thể, nó quy định sự nắm bắt các
quan hệ bản chất của tình huống. Ngược lại, thuyết
TOTE, đề cao hình ảnh, kế hoạch của các phản ứng.
Nói cách khác, theo TOTE, những kinh nghiệm,tri thức
đã có về hành vi, sự chỉ dẫn quá trình tiến hành hành vi
đó quy định chất lượng của hành vi ứng xử.
Ngày nay, nhiều luận điểm của các nhà
nghiên cứu trí tuệ theo hướng tiếp cận hành vi không
còn phù hợp với sự phát triển của tâm lí học hiện đại.
Tuy nhiên công lao không thể phủ nhận của cách tiếp
cận này là đã đưa tính chặt chẽ khoa học, khách quan
vào việc nghiên cứu trí tuệ con người. Rõ ràng là,
muốn nghiên cứu khách quan tâm lí cá nhân phải
nghiên cứu hành vi của nó. Muốn huấn luyện một chức
năng tâm lí nào đó phải đưa chủ thể vào trong các
điều kiện xác định, tức là phải thông minh hoá nội
dung dạy học theo một quy trình chặt chẽ để qua đó có
thể quan sát và kiểm soát được quá trình hình thành
Thuvientailieu.net.vn
các hành vi tâm lí của người học. Tuy nhiên, sự cực
đoan hoá yếu tố môi trường kích thích, coi nhẹ vai trò
chủ thể người học sẽ dẫn đến sự "định mệnh xã hội"
trong dạy học và phát triển
Thuvientailieu.net.vn
1.3. TIẾP CẬN SINH HỌC
TÂM LÝ HỌC TRÍ TUỆ à Chương 1: MỘT SỐ HƯỚNG TIẾP CẬN TRÍ TUỆ TRONG TÂM
LÍ HỌC
Thực ra, cách tiếp cận hành vi cũng bắt nguồn
từ hướng tiếp cận sinh học. Tức là chịu ảnh hưởng
của thuyết tiến hoá hành vi cá thể, thu được do tập
nhiễm và sự phức tạp hoá các hành vi bản năng của
cá thể. Tuy vậy, tâm lí học hành vi mới chủ yếu khai
thác quan hệ tương tác giữa hành vi với các kích thích
của môi trường. Ngoài ra, còn nhiều công trình cũng
tiếp cận tâm lí từ góc độ sinh học, nhưng khai thác
khía cạnh khác. Trong số đó có các công trình nghiên
cứu cơ sở sinh lí thần kinh của hoạt động trí tuệ; vai trò
của yếu tố bẩm sinh và sự di truyền của trí tuệ, trí thông
minh. Theo hướng này, có 3 lĩnh vực được quan tâm
nhiều
1.3.1. Các công trình nghiên cứu cơ sở sinh lí- thần
kinh của trí tuệ
Trong lĩnh vực này, trước hết phải đặc biệt
quan tâm tới các nghiên cứu về phản xạ và về quy luật
hoạt động thần kinh Thuvientailieu.net.vn
cấp cao của các nhà sinh lí học
Nga do I.P.Pavlov lĩnh xướng. Kết quả nghiên cứu sự
hình thành và dập tắt các phản xạ có điều kiện, các quy
luật hoạt động thần kinh cấp cao ở người là cơ sở
sinh lí thần kinh của hoạt động trí tuệ. Các công trình
của K.X.Lésli (nhà sinh lí học Mỹ, 1890 - 1958), của
K.Gônđơstêin (nhà tâm lí học và sinh lí học Đức 18781965) và của nhiều nhà tâm - sinh lí học cùng xu
hướng đã hình thành các lí thuyết về định khu chức
năng tâm lí của não bộ. Việc làm tổn thương các vùng
thần kinh trên não bộ sẽ dẫn đến làm mất hoặc rối
loạn khả năng tiến hành các hành động tâm lí, trí tuệ
tương ứng.
1.3.2. Nghiên cứu vai trò và sự phát triển của các
hành vi bản năng và tự tạo trong hoạt động tâm trí
của người và động vật
Việc nghiên cứu về cơ chế dấu ấn của nhà
sinh lí học Mỹ R.Lorenz đã cho thấy ảnh hưởng của
dấu ấn ban đầu đối với các hành vi tiếp theo. Kết quả
nghiên cứu này không chỉ được vận dụng trong quá
trình triển khai các thao tác trí tuệ của cá nhân mà còn
có ý nghĩa lớn trong ứng xử xã hội của họ. Một trong
những lĩnh vực đang được chú ý nhiều của tập tính
học về con người hiện
nay là nghiên cứu mối quan hệ
Thuvientailieu.net.vn
- Xem thêm -