MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Mác và Ăng-ghen khi nghiên cứu lịch sử tiến hoá của xã hội loài người đã dựa
trên quan điểm duy vật khẳng định vai trò của gia đình trong sự phát triển của xã hội:
"Những trật tự xã hội của con người ở một thời đại lịch sử của một quốc gia do hai yếu tố
con người quyết định. Đó là, trình độ phát triển của lực lượng lao động và trình độ phát
triển của gia đình”
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia
đình cộng lại thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt
nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải chú ý hạt
nhân cho tốt"
Tư tưởng Hồ Chí Minh về gia đình đã được thể hiện trong các nghị quyết của
Đảng và pháp luật của Nhà nước. Từ đó, các ngành, các cấp, các đoàn thể và tổ chức xã
hội ra sức chăm lo gia đình và cơ hội để gia đình góp phần vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Ở bất kỳ thời đại nào gia đình đều giữ vai trò là tế bào của xã hội, là một trong
những nhân tố quyết định sự hưng thịnh của một quốc gia.Trong những năm qua, cùng
với các chủ trương phát triển kinh tế, chính trị, an sinh xã hội cũng được chú trọng. Vấn
đề phụ nữ, giới và bình đẳng giới ngày càng được quan tâm. Đối tượng là phụ nữ ngày
càng được tín nhiệm, đề cử vào các vị trí quan trọng trong xã hội.Trong mỗi gia đình,
người phụ nữ luôn đóng vai một vai trò quan trọng để tạo lập nên hạnh phúc gia đình. Xã
hội đã phát triển kéo theo sự thay đổi vai trò của người phụ nữ ở xã hội nói chung, trong
gia đình nói riêng, nam nữ được đối xử công bằng, không còn tư tưởng “ trọng nam khinh
nữ” nữa.Bên cạnh đó vẫn còn hiện tượng phụ nữ bị ngược đãi nhất là trong gia đình.Bạo
lực gia đình đối với phụ nữ là một hiện tượng xảy ra hầu như ở khắp các nơi trên thế giới,
mọi đẳng cấp trong xã hội và trong mọi nền văn hoá. Bạo lực gia đình đã tàn phá, hủy
hoại sự bình yên của nhiều gia đình, làm băng hoại đạo đức xã hội, tước đoạt quyền được
sống hạnh phúc của những người vợ, người con. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một
vấn đề được xã hội đặc biệt quan tâm. Đây không còn là đề tài mới nhưng vẫn rất thời sự.
Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, không ít các trường hợp bệnh nhân
nhập viện vì chấn thương do các tác nhân bạo lực gia đình gây ra, có những trường hợp
rất man rợ và đáng thương tâm. Nhiều vụ ly hôn ra toà là nguyên nhân của nạn bạo lực
gia đình. Phụ nữ là những đối tượng nhạy cảm, vì vậy, các triệu chứng trầm cảm, stress
mạnh, nguy hại hơn là sự suy giảm thần kinh đã trở thành bệnh là những di hậu của nạn
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
bạo lực gia đình. Không chỉ thế, người phụ nữ còn là đối tượng hứng chịu những tổn hại
về sinh lý dưới tác động của hành vi bạo lực về tình dục. Trong khi đó, tổn thất cho việc
giải quyết vấn đề bạo lực gia đình là không nhỏ, bao gồm nhiều khoản chi phí cho các
dịch vụ hỗ trợ luật pháp, công an, tòa án, xã hội; cho công tác tuyên truyền, y tế, giáo dục.
Đồng thời, phụ nữ - nạn nhân bạo lực gia đình sẽ giảm năng suất lao động, giảm khả năng
tạo thu nhập và việc làm.
Gia đình là tế bào của xã hội do vậy công tác xã hội cũng đặc biệt chú trọng tới sự
phát triển của gia đình.Công tác xã hội hỗ trợ, can thiệp những gia đình có vấn đề: xung
đột gia đình, ngoại tình hoặc mâu thuẫn vợ chồng, nghèo đói, bệnh tật, bạo lực gia đình…
Thông qua khoá luận này, tôi mong muốn cung cấp những kiến thức bổ ích về vấn nạn
bạo lực gia đình mà ở đây tôi muốn nhấn mạnh tới bạo lực gia đình đối với phụ nữ đến
mọi người mà đặc biệt là các bạn sinh viên công tác xã hội.Thông qua vận dụng phương
pháp công tác xã hội cá nhân trợ giúp phụ nữ bị bạo lực tôi muốn nhấn mạnh hơn nữa vai
trò hỗ trợ, can thiệp của công tác xã hội trước thực trạng vấn nạn bạo lực gia đình ngày
càng xảy ra thường xuyên ở nước ta. Với khả năng và kiến thức hạn chế của một sinh
viên tôi không nghĩ mình có thể làm thay đổi vấn nạn bạo lực gia đình ở Việt Nam nói
chung và ở địa phương tôi nói riêng nhưng tôi mong muốn sẽ mang đến cái nhìn sâu sắc,
sự nhận thức về nghề nghiệp tương lai của một nhân viên công tác xã hội thông qua đưa
ra mô hình trợ giúp, can thiệp mang “chất” công tác xã hội.Tôi hi vọng sự phát triển của
đất nước có phần không nhỏ sự trợ giúp, can thiệp của công tác xã hội để các gia đình
Việt Nam ngày càng hạnh phúc, bình yên.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Trước đây hầu hết các Chính phủ coi bạo lực đối với phụ nữ là vấn đề riêng tư
(United Nation 1996) thì ngày nay nhiều nghiên cứu quốc tế đã cho thấy bạo lực đối với
phụ nữ trong gia đình là hệ thống có tính toàn cầu, tác động trong khoảng 20-50% số phụ
nữ trên thế giới (WHO, 1998)
Bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình đã trở thành một nội dung quan trọng trong
Tuyên bố hành động của Hội phụ nữ thế giới lần thứ IV tại Bắc Kinh năm 1995 và trong
các văn bản của tổ chức Liên hợp quốc.
Từ ngày 4 – 6/12/2001, tại Phnômpênh Campuchia đã diễn ra Hội nghị về luật
pháp phòng chống bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình ở vùng tiểu Mêkông,
Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam. Hội nghị được tổ chức và tài trợ bởi một số tổ chức
quốc tế lớn như: Diễn đàn Châu Á (Forum Asia) về quyền con người và phát triển, Diễn
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
đàn Châu Á – Thái Bình Dương về phụ nữ, Luật pháp và phát triển (APWLD); Quỹ phát
triển của Liên hợp quốc (UNIFEM); Đại sứ quán Hà Lan tại Băng Kốc…
Hội nghị diễn ra với 5 mục tiêu:
- Tăng cường cải thiện về Luật pháp cho sự tiến bộ về quyền con người của phụ
nữ ở các nước Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam.
- Xây dựng những hiểu biết chung về vấn đề bạo lực gia đình và khả năng của
từng nước trong việc phát triển các chiến lược kiểm soát bạo lực gia đình.
- Chia sẻ kinh nghiệm từ các tổ chức Phi chính phủ ở một số nước đã đạt được các
thành tích trong việc thực hỗ trợ Pháp luật cho vấn đề bạo lực gia đình.
- Thành lập mạng lưới thông tin giữa các cơ quan Quốc hội, phòng, ban, cấp,
ngành, các đoàn Luật sư và các tổ chức Phi chính phủ.
- Hội nghị đã nghe trình bày và thảo luận về các chủ đề như: vấn đề khái niệm về
bạo lực gia đình, vai trò của Văn hoá và thế giới trong phòng, chống bạo lực gia đình.
Hội nghị đã thống nhất trên một số vấn đề sau:
- Bạo lực gia đình không phải là chuyện riêng của gia đình.
- Phụ nữ đang bị coi là phụ thuộc vào nam giới trên phạm vi toàn cầu.
Hiện nay có nhiều nước, đặc biệt là ở Châu Á có những phong tục, văn hoá, tôn giáo
tạo điều kiện cho vấn đề bất bình đẳng nam, nữ và khuyến khích bạoc lực gia đình kể cả 1 số
Chính Phủ, cảnh sát chưa có hoạt động tích cực ngăn chặn bạo lực gia đình vì coi đây là
chuyện riêng của gia đình họ.
Bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình tuy mới được phát hiện và xem xét trong
vài thập kỉ gần đây song nghiên cứu của nhiều nước trên thế giới đã chứng tỏ tính chất
nghiêm trọng của tệ nạn này đồng thưòi cho thấy các nguyên nhân, hình thức bạo lực
khác nhau và sự ảnh hưởng của chúng đến sức khoẻ thể chất, tinh thần, tình dục. Việc
nghiên cứu đã góp phần giúp cho các nhà hoach định chính sách các thể chế xã hội ở mỗi
nước có biện pháp giải quyết tình trạng này.
Ở Việt Nam nghiên cứu về bạo lực gia đình muộn hơn so với các nước trên thế
giới. Trong các dạng bạo lực gia đình thì bạo lực với phụ nữ trong gia đình có tính chất
nhạy cảm.Nó tồn tại từ ngàn xưa nhưng từ xưa vẫn cho là chuyện bình thường hoặc được
che giấu chỉ đến thời gian gần đây báo cáo của hội phụ nữ, hội đồng dân số và ngân hàng
thế giới (nhóm chuyên gia của viện xã hội học) thực hiện công luận mới bắt đầu thừa
nhận nó như một hiện tượng phổ biến ở tất cả các vùng miền trong nhiều gia đình thuộc
tất cả các nhóm xã hội.Có một số công trình nghiên cứu xung quanh vấn đề này như:
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
* Năm 1997, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến hành nghiên cứu bạo lực đối với
phụ nữ trong gia đình. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng số liệu thứ cấp lấy từ báo chí và
các cơ quan khác tại 3 tỉnh Hà Nội, Hà Tây (cũ), Thái bình là cơ sở để phân tích. Kết quả
nghiên cứu cho thấy bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình là khá phổ biến. Tuy nhiên
nghiên cứu này vẫn chưa cung cấp đầy đủ được một bức tranh toàn diện về bạo lực trên
cơ sở giới.
* Năm 1999, Lê Thị Phương Mai đã nghiên cứu về “ Bạo lực và hậu quả đối với
sức khoẻ sinh sản : Hiện trạng của Việt Nam”. Nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu các
nguyên nhân và các loại bạo lực. Trong báo cáo bao gồm các trường hợp Bạo lực đối với
phụ nữ trong gia đình chủ yéu phỏng vấn phụ nữ đến Tư vấn ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả nhận thấy : Bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình có thể xảy ra ở mọi gia đình và
mọi tầng lớp xã hội.
* Bạo lực trên cơ sở giới: trường hợp ở Việt Nam, TS Vũ Mạnh Lợi, TS Vũ Tuấn
Huy, TS Hữu Minh, Jennifer Clenment thực hiện tại cuộc nghiên cứu thăm dò cởi mở đối
với người Việt Nam về thực trạng bạo lực chống lại phụ nữ ở các xã phường…
* Báo cáo về bạo lực với phụ nữ trong gia đình ở Việt Nam (1999), TS Lê Thị
Quý. Tác giả Lê Thi Quý đã xác định 4 nguyên nhân của bạo lực đối với phụ nữ trong gia
đình là kinh tế, học vấn, thói quen văn hoá – xã hội và bệnh thần kinh của người có hành
vi bạo lực. Đồng thời tác giả còn nêu rõ hậu quả của nạn bạo lực.
* Bình đẳng giới trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản và chống bạo lực gia
đình(2002) của Hội kế hoạch hoá gia đình Việt Nam.
* Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam (1999), GS.Lê Thi, NXB
Phụ nữ Hà Nội.
* Bạo lực trong gia đình, Bùi Thu Hằng.
* Bạo lực trong gia đình (1999), Lê Thị Quý.
* Vì một xã hội không bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em (2002), Trung tâm sức
khoẻ phụ nữ và gia đình Workbank.
Nhìn chung đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập tới vấn đề bạo lực đối với
phụ nữ trong gia đình tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu nhằm đưa ra mô hình trợ
giúp đối với đối tượng là phụ nữ bị bạo lực. Ở địa phương tôi việc nghiên cứu về bạo lực
gia đình là hạn chế hầu như chỉ có báo cáo thống kê các vụ bạo lực gia đình đối với phụ
nữ trong xã hơn thế việc trợ giúp những người phụ nữ gặp bất hạnh đó chỉ có sự hỗ trợ
của chính quyền địa phương, hội phụ nữ, cơ quan dân số…do đó phụ nữ bị bạo lực gia
đình thường ít tự lực giải quyết vấn đề của mình, vượt qua khó khăn xây dựng hạnh phúc
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
mà ỷ lại vào sự giúp đỡ đó hoặc tìm cách che giấu.Xuất phát từ lí do trên tôi lựa chọn đề
tài này làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Cách vận dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trong việc trợ giúp.
3.2 Khách thể nghiên cứu
* Phụ nữ bị bạo lực gia đình tại xã Ngọc Quan-Đoan Hùng-Phú Thọ.
* Cán bộ chính quyền, đoàn thể: Hội phụ nữ, đoàn thanh niên,cơ quan dân số…
3.3 Phạm vi nghiên cứu
* Thời gian : Từ 15/1/2011-1/4/2011.
* Không gian: Địa bàn xã Ngọc Quan - Đoan Hùng - Phú Thọ.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Thông qua sự trợ giúp của công tác xã hội những phụ nữ bị bạo lực gia đình nói
chung và phụ nữ bị bạo lực gia đình tại địa phương tôi nói riêng sẽ tự giải quyết được vấn
đề khó khăn, có niềm tin vào khả năng và sức mạnh của bản thân, xây dựng hạnh phúc
gia đình, ổn định cuộc sống.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
* Nghiên cứu về mặt lí luận những thuật ngữ liên quan đến đề tài: bạo lực gia
đình, bạo lực đối với phụ nữ.
* Nghiên cứu về nạn bạo lực gia đình trên thế giới và Việt Nam.
* Nghiên cứu về thực trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình tại xã Ngọc
Quan – Đoan Hùng- Phú Thọ.
* Vận dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trong việc trợ giúp trường hợp phụ
nữ bị bạo lực gia đình tại xã Ngọc Quan- Đoan Hùng- Phú Thọ.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp phân tích tài liệu
Sử dụng phương pháp này nhằm tìm hiểu , bổ sung và tích luỹ vốn tri thức lí luận
liên quan đến đề tài ở nhiều góc độ: Triết học, tâm lí học, công tác xã hội đồng thời
nghiên cứu những chủ trương, chính sách, văn bản pháp luật, các công trình khoa học về
bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình.Mục đích của phương pháp này là thu thập những
vấn đề lí luận liên quan đến đề tài như: bạo lực, gia đình, bạo lực gia đình, bạo lực đối với
phụ nữ.Vì đó là cơ sở cho việc xây dựng phương pháp điều tra, phân tích về thực trạng
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình trên thế giới nói chung và ở địa phương tôi nói
riêng.
- Báo cáo tóm tắt nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình với phụ nữ Việt Nam.
- Báo cáo của chính quyền xã Ngọc Quan về thực trạng bạo lực gia đình đối với
phụ nữ.
- Tìm hiểu thái độ và nhận thức của sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội về
bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình, Hà Thị Minh.
Ngoài ra khoá luận còn sử dụng phương pháp phân tích tài liệu từ phim ảnh,
internet, sách, báo, băng hình…trên cơ sở đó phân tích, sàng lọc thông tin liên quan đến
đề tài nghiên cứu.Kết hợp tham khảo một số đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn có liên
quan đến đề tài trước đó để tham khảo thêm về phương pháp nghiên cứu làm cơ sở bổ
sung cho đề tài của mình.
5.2 Phương pháp phỏng vấn
Tôi sử dụng phương pháp này làm phương tiện cho các phương pháp nêu trên
đồng thời thu thập một số thông tin cụ thể, chính xác góp phần tăng độ tin cậy và sức
thuyết phục của khoá luận.Cụ thể tôi tiến hành trao đổi, trò chuyện trực tiếp với nhóm phụ
nữ bị bạo lực tại khu hành chính 7 xã Ngọc Quan - Đoan Hùng - Phú thọ trong đó có một
phụ nữ tôi chọn làm trường hợp để vận dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trong
việc trợ giúp.Tôi cũng tiến hành trò chuyện và thu thập thông tin từ chính quyền xã, hội
phụ nữ, cơ quan dân số…tại địa phương.Phương pháp này giúp tôi nhận biết được ý kiến,
thái độ, suy nghĩ của họ về vấn nạn bạo lực gia đình nói chung và tại địa phương mình nói
riêng.
5.3 Phương pháp quan sát
Quan sát là chú ý tới những đặc điểm của người , vật, tình huống…mục đích là sử
dụng những dữ kiện quan sát được để hiểu thêm về đối tượng, sự việc.Khi nghiên cứu
chúng ta thường sử dụng phương pháp quan sát để thu thập thông tin một cách trực tiếp,
cụ thể, chính xác.Chúng ta thường quan sát môi trường xung quanh đối tượng nghiên cứu,
mối quan hệ và vai trò của đối tượng nghiên cứu trong môi trường.
Quan sát đối tượng: Hành vi, ngoại hình, thái độ, cử chỉ, dấu hiệu lo lắng, bất an,
ngôn ngữ cơ thể..Trong khoá luận này tôi sử dụng phương pháp quan sát với mục
đích:Thu thập thêm thông tin về bạo lực gia đình tại khu 7 xã Ngọc Quan, những biểu
hiện, cử chỉ, thái độ của nhóm phụ nữ bị bạo lực tại địa phương, hiểu biết về gia đình nạn
nhân bị bạo lực…
5.4 Điều tra thu thập thông tin
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
Đây là phương pháp cơ bản của khóa luận này. Để tìm hiểu bạo lực gia đình tại
địa phương và có kế hoạch can thiệp trợ giúp mang tính chất công tác xã hội.Tôi sử dụng
phương pháp này với mục đích:
- Tìm hiểu thực trạng phụ nữ bị bạo lực gia đình tại địa phương.
- Những nguyên nhân gây nên thực trạng trên.
- Hậu quả khi phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình:
+ Đối với bản thân.
+ Đối với gia đình.
+ Đối với xã hội.
- Tìm hiểu những chính sách hỗ trợ nạn nhân của bạo lực gia đình của chính
quyền và các tổ chức đoàn thể có liên quan.
6. Ý nghĩa của đề tài
6.1 Ý nghĩa lí luận
Đề tài có ý nghĩa trong việc cung cấp những thông tin cơ bản về nạn bạo lực gia
đình đồng thời giúp sinh viên công tác xã hội nắm vững lí thuyết phương pháp công tác
xã hội cá nhân.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Giúp sinh viên công tác xã hội hiểu rõ hơn về thực trạng phụ nữ bị bạo lực gia
đình tại địa phương từ đó vận dụng kiến thức đã học trong việc trợ giúp - Đó là cách vận
dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trợ giúp đối tượng là phụ nữ bị bạo lực gia
đình tại địa phương mình.
7. Kết cấu của khoá luận
Chương I
Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.
Chương II
Thực trạng phụ nữ bị bạo lực gia đình tại xã Ngọc Quan – Đoan
Hùng – Phú Thọ.
Chương III
Vận dụng phương pháp công tác xã hội cá nhân trong việc trợ
giúp trường hợp phụ nữ bị bạo lực gia đình tại xã Ngọc Quan – Đoan Hùng – Phú
Thọ.
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Cơ sở lí luận
1.1.1Các khái niệm
1.1.1.1Bạo lực gia đình
“Bạo hành gia đình/Bạo lực gia đình là thuật ngữ dùng để chỉ các hành vi bạo lực
giữa các thành viên trong cùng một gia đình. Hành vi bạo lực thường thấy nhất là giữa vợ
và chồng nhưng bạo lực giữa cha mẹ với con cái hay ông bà, anh em ruột với nhau hoặc
giữa mẹ chồng và con dâu cũng có xảy ra và được xếp vào nhóm các hành vi này. Nạn
nhân của bạo lực thân thể thường là phụ nữ - vợ hoặc mẹ của đối tượng, với nam giới họ
là nạn nhân của bạo lực tinh thần nhiều hơn. Bạo lực gia đình xảy ra ở mọi quốc gia, nền
văn hóa, tôn giáo không ngoại lệ giàu nghèo và trình độ học vấn cao hay thấp” [3 ]
1.1.1.2 Bạo lực đối với phụ nữ
Bạo lực đối với phụ nữ là bất cứ hành động bạo lực nào trên cơ sở giới gây ra,
hoặc có thể gây ra tổn hại cho phụ nữ về mặt thể chất, tình dục hoặc về tâm lý hay kinh tế,
bao gồm cả việc đe doạ thực hiện những hành động đó, ép buộc hay cố tình tước đoạt một
cách tùy tiện sự tự do, dù xảy ra ở nơi công cộng hay đời sống riêng tư. [3 ]
1.1.1.3 Công tác xã hội
Công tác xã hội là hoạt động chuyên nghiệp được thực hiện dựa trên nền tảng
khoa học chuyên ngành nhằm hỗ trợ đối tượng có vấn đề xã hội (cá nhân, nhóm, cộng
đồng) giải quyết vấn đề gặp phải, cải thiện hoàn cảnh, vươn lên hoà nhập xã hội theo
hướng tích cực, bền vững. [4; 41]
1.1.1.4 Công tác xã hội cá nhân
Công tác xã hội cá nhân là phương pháp giúp đỡ một cá nhân có vấn đề khó khăn
thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy bằng chính khả năng của họ. [ 1;10]
1.1.2 Một số lí thuyết liên quan
1.1.2.1 Thuyết hành vi
Tâm lý học hành vi không mô tả, không giảng giải các trạng thái ý thức, mà quan
tâm đến hành vi của tồn tại người.
Các sự kiện quan sát thấy đều được lý giải theo nguyên tắc: khi có một kích thích
nào đó tác động vào cơ thể tạo ra một phản ứng nhất định. Do đó, mọi hành vi do cơ thể
tạo ra đều được biểu đạt theo công thức kích thích - phản ứng (S – R), và hành vi chỉ còn
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
lại là các cử động bề ngoài, hoàn toàn không liên quan gì với ý thức được coi là cái bên
trong.
Đi theo những người nghiên cứu tâm lý học động vật lấy nguyên tắc “thử và lỗi”
làm nguyên tắc khởi thủy điều khiển mọi hành vi, Oat-xơn muốn loại trừ tâm lý học duy
tâm với phương pháp nội quan bằng cách nghiên cứu hành vi theo phương pháp lâu nay
vẫn dùng trong tâm lý học động vật. [11]
1.1.2.2 Thuyết hệ thống sinh thái
Lí thuyết hệ thống và sinh thái giúp cho những người thực hành công tác xã hội
phân tích thấu đáo sự tương tác trong các hệ thống xã hội và hình dung những tương tác
này ảnh hưởng ra sao tới hành vi con người.
Lí thuyết hệ thống sinh thái chỉ ra sự tác động mà các tổ chức, các chính sách,
cộng đồng và nhóm ảnh hưởng lên cá nhân.Mục đích của công tác xã hội cá nhân là cải
thiện mối tương tác giữa thân chủ và hệ thống.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng mạng lưới xã hội gồm bạn bè, người thân, láng giềng,
bạn đồng nghiệp và cả con vật cưng chiều giúp giảm thiểu tác động tai hại của những
căng thẳng trong cuộc sống.Trái lại, người thiếu mạng lưới xã hội đáp ứng với những
căng thẳng trong cuộc sống bằng trầm cảm, dùng ma tuý hay uống rượu, có hành vi bạo
lực hoặc đối phó bằng những cách thức không phù hợp.
Thế mạnh chủ yếu của mô hình các hệ thống sinh thái là phạm vi rộng đến nỗi
những vấn đề tiêu biểu của con người như chăm sóc sức khoẻ, quan hệ gia đình, thu nhập
bất thường, khó khăn về sức khoẻ tâm thần…có thể gộp tất cả vào mô hình này, giúp
người thực hành nghề nghiệp phân tích các biến số phức tạp liên quan đến vấn đề này.
Đánh giá cội rễ của vấn đề và quyết định trọng tâm can thiệp là những bước đi đầu tiên
khi áp dụng mô hình các hệ thống sinh thái. [1; 76]
1.1.2.3 Thuyết xung đột
Những người đặt nền móng xây dựng lí thuyết xung đột là C.Mác, Ăng ghen,
Simmel…
Vận dụng lí thuyết xung đột vào nghiên cứu gia đình
Những người theo lí thuyết xung đột cho rằng tình yêu là một yếu tố quan trọng
trong hôn nhân và gia đình hiện đại, những mâu thuẫn và xung đột cũng hết sức cơ
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
bản.Cách tiếp cận của lí thuyết này không tin xung đột là tồi tệ mà coi nó như một bộ
phận tự nhiên của đời sống gia đình.
Gia đình bao gồm những cá nhân có nhân cách, lí tưởng, giá trị, sở thích và mục
đích khác nhau.Mỗi người không phải bao giờ cũng hài hoà với mọi người khác trong gia
đình.Các gia đình thường có bất đồng từ nhỏ đến lớn.Họ chỉ khác nhau về tần số, mức độ,
tính chất, biểu hiện và cách giải quyết xung đột.
Theo lí thuyết xung đột yếu tố quyền lực là yếu tố hết sức quan trọng trong giải
quyết mâu thuẫn, xung đột trong gia đình.Mọi người trong gia đình đều có quyền lực ở
mức độ khác nhau, cá nhân nào, nhóm nào có nhiều quyền lực nhất thì thắng trong cuộc
xung đột. [6;22]
1.1.2.4 Thuyết bình quyền
Thuyết bình quyền xem xét khái niệm “ Quyền lực” trong mối quan hệ của con
người đặc biệt là lạm dụng quyền lực.
Đấu tranh với những truyền thống cũ mà phụ nữ và trẻ em bị xem như vật dụng
hoặc vật sở hữu của nam giới. [6;5]
1.1.3 Hệ thống văn bản luật về phòng chống bạo lực gia đình
1.1.3.1 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Qua các thời kỳ kháng chiến kiến quốc, nước ta đã có Hiến pháp năm 1946, Hiến
pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980.
Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội lần thứ VI
của Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan
trọng. Quốc hội quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để đáp ứng yêu cầu của tình hình
và nhiệm vụ mới.
Hiến pháp này quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an
ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của các cơ quan Nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm
chủ, Nhà nước quản lý.
Điều 52: “ Mọi công dân đều có quyền bình đẳng trước pháp luật”
Điều 63: “ Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân
phẩm phụ nữ”
Điều 71: “ Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm công dân”
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
1.1.3.2 Luật tố tụng hình sự Số: 19/2003/QH11
Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố
tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và
công dân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn
tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Bộ luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm.
Điều 5. Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã
hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.
Điều 7. Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân.
Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, tài sản.
Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị
xử lý theo pháp luật.
Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người
thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp
cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật.
1.1.3.3 Luật dân sự
Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá
nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản
trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau
đây gọi chung là quan hệ dân sự).
Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức,
lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong
quan hệ dân sự, góp phần tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân
dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
Điều 609 quy định “ Người nào xâm phạm tính mạng, sưc khoẻ, nhân phẩm, uy
tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường.Thiệt hại về sức khoẻ được tính toán bồi thường theo điều 613; thiệt hại do tính
mạng bị xâm hại được bồi thường theo điều 614; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín
bị xâm hại được bồi thường theo điều 615”
1.1.3.4 Luật phòng chống bạo lực gia đình số 02/2007
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo
vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức
trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực
gia đình.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình có sáu chương với 46 điều đã được Quốc hội
khóa XII, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 21-11-2007 và Chủ tịch nước ký lệnh công bố
ngày 5-12-2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2008.
Điều 2. Các hành vi bạo lực gia đình
1. Các hành vi bạo lực gia đình bao gồm:
a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ,
tính mạng;
b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm
trọng;
d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và
cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
đ) Cưỡng ép quan hệ tình dục;
e) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện,
tiến bộ;
g) Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản
riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
h) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc
về tài chính;
i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
2. Hành vi bạo lực quy định tại khoản 1 Điều này cũng được áp dụng đối với
thành viên gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà
chung sống với nhau như vợ chồng.
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
Điều 5. Quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình
1. Nạn nhân bạo lực gia đình có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng,
nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình;
b) Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn, bảo vệ,
cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này;
c) Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật;
d) Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và thông tin khác
theo quy định của Luật này;
đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Điều 8. Những hành vi bị nghiêm cấm
1. Các hành vi bạo lực gia đình quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi bạo lực
gia đình.
3. Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động bạo lực gia
đình.
4. Trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người phát
hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.
5. Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình.
6. Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc thực hiện
hoạt động trái pháp luật.
7. Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp luật đối
với hành vi bạo lực gia đình
Điều 19. Biện pháp ngăn chặn, bảo vệ
1. Các biện pháp ngăn chặn, bảo vệ được áp dụng kịp thời để bảo vệ nạn nhân bạo
lực gia đình, chấm dứt hành vi bạo lực gia đình, giảm thiểu hậu quả do hành vi bạo lực
gây ra, bao gồm:
a) Buộc chấm dứt ngay hành vi bạo lực gia đình;
b) Cấp cứu nạn nhân bạo lực gia đình;
c) Các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự đối với người có hành vi bạo lực gia đình;
d) Cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân; sử dụng điện thoại
hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn nhân (sau đây gọi là
biện pháp cấm tiếp xúc).
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
2. Người có mặt tại nơi xảy ra bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ của
hành vi bạo lực và khả năng của mình có trách nhiệm thực hiện các biện pháp quy định
tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này.
3. Thẩm quyền, điều kiện áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp quy định tại điểm c
khoản 1 Điều này được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính hoặc pháp luật về tố tụng hình sự.
4. Việc áp dụng biện pháp quy định tại điểm d khoản 1 Điều này được thực hiện
theo quy định tại Điều 20 và Điều 21 của Luật này.
Điều 26. Cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình
1. Cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình là nơi chăm sóc, tư vấn, tạm lánh, hỗ
trợ những điều kiện cần thiết khác cho nạn nhân bạo lực gia đình.
2. Cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình bao gồm:
a) Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh;
b) Cơ sở bảo trợ xã hội;
c) Cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình;
d) Cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình;
đ) Địa chỉ tin cậy ở cộng đồng.
3. Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn hoạt động trợ giúp nạn nhân của các
cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia đình.
1.1.3.5 Luật hôn nhân và gia đình 2010
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan
trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.Để đề cao vai trò của
gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy truyền thống và những phong tục, tập
quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn
nhân và gia đình, để nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc
xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam; Kế thừa và phát triển pháp luật
về hôn nhân và gia đình Việt Nam.Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992.Luật này quy định chế độ hôn nhân và gia đình.
Điều 4. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
1. Quan hệ hôn nhân và gia đình thực hiện theo quy định của Luật này được tôn
trọng và được pháp luật bảo vệ.
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
2. Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; cấm kết
hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, ly hôn; cấm cưỡng ép ly hôn, ly hôn giả tạo; cấm yêu sách
của cải trong việc cưới hỏi.
Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người đang có chồng, có vợ.
Cấm ngược đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, anh, chị, em và
các thành viên khác trong gia đình.
3. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý kịp
thời, nghiêm minh, đúng pháp luật.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền
có biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm minh đối với người có hành vi vi phạm
pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Điều 18. Tình nghĩa vợ chồng
Vợ chồng chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau
xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Điều 19. Bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng
Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt
trong gia đình.
Điều 21. Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng
1. Vợ, chồng tôn trọng và giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau.
2. Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân
phẩm, uy tín của nhau.
1.1.3.6 Luật bình đẳng giới nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Luật này quy định nguyên tắc bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội và gia đình, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia
đình, cá nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới.
Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau
cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình
đẳng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam,
nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Điều 18. Bình đẳng giới trong gia đình.
1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên
quan đến hôn nhân và gia đình.
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
2. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình
đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực
trong gia đình.
3. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử
dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm
theo quy định của pháp luật.
4. Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để
học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.
5. Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia
đình.
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1 Thực trạng bạo lực gia đình trên thế giới
Bạo lực gia đình đặc biệt là bạo lực đối với phụ nữ ở khắp mọi nơi trên thế giới
với nhiều dạng thức tinh vi không phân biệt dân tộc, màu da, tầng lớp, lứa tuổi, trình độ
văn hoá, địa vị xã hội.Ngay ở những nước được coi là phát triển và văn minh ở Châu Âu,
Châu Mĩ vẫn có không ít người phải chịu đựng nạn này.
Theo số liệu điều tra năm 2001, hơn 1/2 triệu phụ nữ Mĩ (588.490 phụ nữ) chết do
bạo lực gia đình bởi người chồng của họ.Có khoảng 85% nạn nhân của bạo lực gia đình là
nữ và chỉ xấp xỉ 15% nạn nhân là nam.Trong năm 2001, bạo lực gia đình gây tội nghiêm
trọng của chồng đối với vợ tăng 20%, số vụ bạo lực của vợ đối với chồng tăng 3% trong
tổng số các vụ nghiêm trọng đối với đàn ông.Trung bình mỗi ngày có hơn 3 phụ nữ bị giết
bởi chồng hoặc bạn trai của mình.
Ở Pháp điều tra mới đây cho thấy tỉ lệ phụ nữ bị chồng ngược đãi là 2,5% tức là
khoảng 1,5 triệu người.Theo “ Liên đoàn đoàn kết phụ nữ quốc gia Pháp” nhận định: Chỉ
riêng tại Paris , Kinh đô ánh sáng của văn minh nhân loại có 60 phụ nữ bị chồng hay
người tình đánh giết mỗi năm”.Trên cả nước Pháp có 450 phụ nữ chết do bạo lực thể xác
hay bạo lực tinh thần trong gia đình.Trong tài liệu công bố tại hội nghị Châu Âu lần thứ
nhất về phòng chống thương tích và nâng cao an toàn tại Viên, Áo từ ngày 25-27/6/2000
cũng đưa ra những số liệu đáng quan tâm về nạn bạo lực gia đình: bạo lực giữa các đôi
lứa chiếm 40%-70%, án mạng ỏ phụ nữ, cứ 4 phụ nữ thì có 1 phụ nữ đã từng bị bạo lực
tình dục (tỉ lệ này là 1/20 ở nam) trong cuộc đời, 4%-6% người già sống trong gia đình đã
từng bị đối xử tệ.
Các số liệu cho thấy bạo lực gia đình thực sự là một vấn đề có tính toàn cầu và đòi
hỏi 1 cáh tiếp cận đa ngành để giải quyết triệt để.
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
1.2.2 Thực trạng bạo lực gia đình ở Việt Nam (2010)
1.2.2.1 Bạo lực thể xác do chồng gây ra
32% phụ nữ từng kết hôn cho biết họ đã phải chịu bạo lực thể xác trong đời và 6%
đã từng trải qua bạo lực thể xác trong vòng 12 tháng trở lại đây.
Hình 1.1 Tỉ lệ phụ nữ bị chồng gây ra bạo lực thể xác chia theo độ tuổi ở Việt
Nam; 2010 (N = 4561) [14; 14]
Có sự khác biệt giữa các khu vực và trình độ học vấn và với phụ nữ có trình độ
văn hóa thấp hơn thì tỷ lệ bị bạo lực thể xác cao hơn so với phụ nữ có trình độ học vấn
cao hơn và trong số những phụ nữ bị bạo lực cao hơn thì mức độ nghiêm trọng của những
hành vi bạo lực cũng cao hơn.
Trong số những phụ nữ đã từng mang thai, tỷ lê ê bị bạo lực thể xác trong ít nhất
một lần mang thai là 5% và tỷ lệ bị bạo lực khi đang mang thai cao nhất ở những phụ nữ
chưa từng đến trường.
1.2.2.2 Bạo lực tình dục do chồng gây ra
Phụ nữ gặp khó khăn hơn khi tiết lộ những trải nghiệm bạo lực tình dục so với
những trải nghiệm bạo lực thể xác. Tương tự như vâ êy, việc nói về bạo lực tình dục trong
hôn nhân được xem như một chủ đề không phù hợp. Tuy nhiên, trong các buổi phỏng vấn
có 10% phụ nữ từng kết hôn cho biết họ đã từng bị bạo lực tình dục trong đời và 4% trong
12 tháng qua. Đáng chú ý là bạo lực tình dục hiện tại không thay đổi nhiều ở những nhóm
tuổi khác nhau (tới 50 tuổi) và trình độ học vấn của phụ nữ.
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
1.2.2.3 Bạo lực tinh thần và kinh tế do chồng gây ra
Bạo lực tinh thần và kinh tế cũng không kém phần quan trọng so với bạo lực tình
dục và thể xác và thường ảnh hưởng đến phụ nữ nhiều hơn bạo lực tình dục và thể xác.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ một cuộc khảo sát thì khó có thể xác định những loại hình
bạo lực này và câu hỏi đặt ra chỉ bao phủ một số giới hạn các hành vi lạm dụng có thể xảy
ra đối với phụ nữ. Tuy vậy, kết quả chỉ ra rằng tỷ lệ bị bạo lực tinh thần rất cao: 54% phụ
nữ cho biết đã phải chịu bạo lực tinh thần trong đời và 25% cho biết đã bị bạo lực tinh
thần trong 12 tháng qua. Tỷ lệ bị bạo lực về kinh tế trong đời là 9%.
1.2.2.4 Kết hợp bạo lực thể xác, tình dục và tinh thần do chồng gây ra
Tỷ lệ bạo lực thể xác và tình dục là chỉ tiêu quan trọng về bạo lực do chồng gây ra
và được sử dụng để so sánh quốc tế.
Tại Việt Nam cũng như nhiều nước khác phụ nữ cho biết bị bạo lực tình dục cũng
cho biết bị bạo lực thể xác. Tỷ lệ bạo lực tình dục hoặc thể xác hoặc cả hai trong đời và
hiện thời trên toàn quốc lần lượt là 34% và 9%.
Hình 1.2 Tỉ lệ phụ nữ bị chồng gây bạo lực thể xác hoặc bạo lực tình dục chia
theo vùng Việt Nam; 2010 (N = 4561) [14; 15]
Tỷ lệ bạo lực trong cuộc đời khác nhau theo vùng và giữa các nhóm dân tộc và
thay đổi từ 8% đến 38%.
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
Hình 1.3 Tỉ lệ phụ nữ bị chồng gây bạo lực thể xác và tình dục chia theo
nhóm dân tộc Việt Nam; 2010 (N = 4561) [14; 15]
Khi kết hợp ba loại bạo lực chính: thể xác, tình dục và tinh thần do chồng gây ra
đã có hơn nửa phụ nữ (58%) trả lời từng bị ít nhất một trong ba loại bạo lực này trong
cuộc đời. Tỷ lệ này trong 12 tháng qua là 27%. Có sự liên hệ chặt chẽ giữa ba loại bạo lực
và đánh giá sự đan xen chỉ ra rằng luôn có một phụ nữ vừa bị bạo lực tình dục hoặc thể
xác vừa bị lạm dụng tinh thần.
Chỉ bạo lực
tinh thần
23,5%
Thể xác + tình dục +
tinh thần 6,8%
Tình dục +
tinh thần 2,5%
Thể xác +
tinh thần
20,1%
Chỉ tình
dục 0,9%
Chỉ thể
xác 3,6%
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
Tình dục
+ thể xác
0,1%
Hình 1.4 Bạo lực chồng chất trong đời , bạo lực thể xác, bạo lực tình dục và
bạo lực tinh thần do người chồng gây ra đối với phụ nữ đã lập gia đình ở Việt Nam;
2010 (N = 4561) [14; 17]
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI XÃ NGỌC QUAN – ĐOAN
HÙNG – PHÚ THỌ
2.1 Khái quát về địa bàn xã Ngọc Quan - Đoan Hùng - Phú Thọ
2.1.1 Lịch sử hình thành xã Ngọc Quan
Ngọc Quan là xã nằm ở phía Tây của huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.Trải qua
các thời kì lịch sử, địa danh tỉnh, huyện cũng như xã Ngọc Quan có nhiều thay đổi.Thời
Vua Hùng dựng nước xã Ngọc Quan thuộc bộ Văn Lang, bộ chủ của nhà nước Văn Langnhà nước đầu tiên của dân tộc Việt. Đời nhà Trần xã Ngọc Quan thuộc huyện Tây Lan
châu Tuyên Quang, lộ Tam Giang. Đến thời nhà Lê, nhà Nguyễn, xã Ngọc Quan thuộc
huyện Ngọc Quan, phủ Đoan Hùng, lộ Thao Giang, trấn Sơn Tây.Khi thực dân Pháp xâm
lược nước ta, chính quyền đô hộ thực hiện chính sách “ cai để trị” tiếp tục chia cắt và điều
chỉnh lộ giới một số xã, huyện trong tỉnh.Ngày 8/9/1891, tỉnh Hưng Hoá được thành lập,
Ngọc Quan thuộc phủ Đoan Hùng, tỉnh Hưng Hoá.Ngày 5/5/1903 tỉnh Hưng Hoá đổi tên
thành tỉnh Phú Thọ gồm phủ Đoan Hùng, các huyện Tam Nông, Thanh Thuỷ, Sơn Vi
(Lâm Thao), Thanh Ba, Hạ Hoà, Phù Ninh, Cẩm Khê, Hạc Trì và hai châu Thanh Sơn,
Yên Lập, xã Ngọc Quan lúc đó thuộc phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ.Cách mạng tháng 8
thành công, nước ta quyết định xoá bỏ cấp tổng, phủ, châu, mở rộng phạm vi cấp xã và
thay tên gọi làng bằng thôn.Ngọc Quan nằm trong liên xã Tây Sơn gồm các xã Tây Quan,
Ngọc Lũ, Tây Côc, Ca Đình, Yên Kiện.Thời kì này Ngọc Quan có 9 làng: Làng Cả, làng
Ketnooi.com kết nối công dân điện tử
- Xem thêm -