ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------
TRẦN ÁNH PHƢƠNG
TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG CỘNG ĐỒNG AN NINH ASEAN
Chuyên ngành: Quan hệ Quốc tế
Mã số: 60.31.40
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUỐC TẾ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thu Mỹ
Hà Nội - 2010
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................................. 4
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 7
Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 7
1.
a) Ý nghĩa thực tiễn cấp bách của đề tài ................................................................... 7
b) Ý nghĩa khoa học ................................................................................................... 8
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 8
a)
Tình hình nghiên cứu về ASC tại Việt Nam: ................................................... 8
b)
Tình hình nghiên cứu về ASC trên thế giới: .................................................. 10
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 10
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 11
5. Nguồn tài liệu ......................................................................................................... 11
6. Cấu trúc luận văn .................................................................................................... 11
Chƣơng 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH Ý TƢỞNG THÀNH LẬP CỘNG
ĐỒNG AN NINH ASEAN (ASC) ............................................................................... 14
Khái quát tình hình hợp tác chính trị - an ninh của ASEAN kể từ khi
1.1
đƣợc thành lập cho tới 2003. .................................................................................... 14
1.2
Những thách thức an ninh mới đối với ASEAN đầu thế kỷ XXI ............... 21
1.2.1
Những thách thức ở cấp độ toàn cầu ......................................................... 21
1.2.2
Những thách thức ở cấp độ khu vực .......................................................... 39
1.3 Thành lập ASC, sáng kiến hợp tác an ninh khu vực mới của In-đô-nê-xi-a 55
1.4. Hội nghị Thƣợng đỉnh ASEAN lần thứ 9 và Quyết định thành lập Cộng
đồng ASEAN ............................................................................................................ 59
1
Chƣơng 2: TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI XÂY DỰNG ASC TỪ 2003 ĐẾN 2009 ... 63
2.1 . Xây dựng kế hoạch hiện thực hóa ASC ...................................................... 63
2.1.1 Về mục tiêu của APSC .................................................................................... 66
2.1.2 Về nguyên tắc hoạt động của ASC ................................................................. 71
2.1.3 Về các định hướng chính sách và biện pháp xây dựng ASC .......................... 73
2.1.4 Cơ chế triển khai thực hiện kế hoạch xây dựng ASC ..................................... 85
2.1.5 Định dạng mô hình Cộng đồng an ninh ASEAN ........................................... 87
2.2 Tình hình thực hiện Kế hoạch xây dựng ASC ................................................ 89
2.2.1
Thông qua Hiến chương ASEAN ............................................................... 91
2.2.2
Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN .................................................. 94
2.2.3
Tăng cường hài hòa hóa pháp luật trong ASEAN ..................................... 96
2.2.4
Tăng cường hợp tác đấu tranh chống tội phạm, ngăn ngừa xung đột ...... 99
2.2.5
Mở rộng quan hệ đối thoại và hợp tác chính trị, an ninh với các đối tác
bên ngoài ............................................................................................................... 101
Chƣơng 3: TRIỂN VỌNG XÂY DỰNG ASC ......................................................... 103
3.1 Những nhân tố cơ bản tác động đến tiến trình xây dựng ASC .................... 103
3.1.1 Những nhân tố thúc đẩy tiến trình xây dựng ASC....................................... 103
3.1.2 Những thách thức cản trở tiến trình xây dựng ASC. .................................... 109
3.2 Triển vọng của ASC những năm sắp tới và một số khuyến nghị nhằm thúc
đẩy quá trình xây dựng ASC. ................................................................................ 115
3.2.1 Triển vọng xây dựng ASC những năm sắp tới.............................................. 115
3.2.2 Một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng ASC. ..................... 122
2
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 127
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 131
PHỤ LỤC .................................................................................................................... 139
Hanoi Plan of Action ................................................................................................ 139
3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ABAC
APEC Business Advisory Council
Hội đồng tư vấn kinh doanh hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương
AC
ASEAN Community
Cộng đồng ASEAN
ADMM
ASEAN Defence - Military Meetings
Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN
ADSOM ASEAN Defence Senior Official‟s Meeting
Hội nghị Quan chức Quốc phòng cấp cao ASEAN
AEC
ASEAN Economy Community
Cộng đồng Kinh tế ASEAN
AIPO
ASEAN Inter-parliamentary Ozganisation
Tổ chức Liên minh Nghị viện ASEAN
AIPA
ASEAN Inter-parliamentary Assembly
Hội đồng Liên minh Nghị viện ASEAN
APEC
ASEAN – Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương
APSC
ASEAN Political Security Community
Cộng đồng an ninh chính trị ASEAN
ARF
ASEAN Regional Forum
Diễn đàn khu vực ASEAN
ASCPoA ASEAN Security Community Programme of Actions
Kế hoạch hành động xây dựng Cộng đồng an ninh ASEAN
ASEAN
Association of South South East Asia Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
4
ASC
ASEAN Security Community
Cộng đồng an ninh ASEAN
ASEM
Asia – Europe Meetings
Diễn đàn hợp tác Á - Âu
ASLOM ASEAN Senior Law Official‟s Meetings
Hội nghị quan chức pháp luật cao cấp ASEAN
ASCC
ASEAM Social – Cultural Community
Cộng đồng văn hóa xã hội ASEAN
CBMs
Confidence buildings Measures
Các biện pháp xây dựng lòng tin
COC
The Code of Conduct in the South of China Sea
Bộ qui tắc về ứng xử trên biển Nam Trung Hoa
DOC
Declarations on the Conduct of Parties in the South of China Sea
Tuyên bố về qui tắc ứng xử của các bên tại Biển Nam Trung Hoa
EAS
East Asia Summits
Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á
EPG
The Eminent Persons Group
Nhóm những nhân vật nổi tiếng
JMSU
Joint Marine Seismic Undertaking
Thỏa thuận thăm dò địa chấn chung
NATO
North Atlantic Treaty Ozganisation
Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
NMD
National Missile Defence
Hệ thống Phòng thủ tên lửa quốc gia
NPT
Nuclear Non – Proliferation Treaty
Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân
TAC
Treaty on Amity and Cooperation
5
Hiệp ước hợp tác và thân thiện
SEANWFZ
South East Asia Nuclear Weapon Free Zone Treaty
Hiệp ước khu vực phi vũ khí hạt nhân Đông Nam Á
VAP
Vientiane Actions Programme
Chương trình hành động Viên Chăn
ZOPFAN
Zone of Peace Freedom and Neutrality
Hiệp ước khu vực hòa bình, tự do và trung lập
WCO
World Customs Ozganisation
Tổ chức hải quan thế giới
6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
a) Ý nghĩa thực tiễn cấp bách của đề tài
ASEAN đang là một trong những tổ chức hợp tác khu vực thành công nhất của
các nước đang phát triển. Nó đang khẳng định vai trò của mình như một thực thể an
ninh chính trị có tầm ảnh hưởng trong khu vực và có tiếng nói tại các diễn đàn thế giới.
Trong quá trình phát triển và khẳng định mình, ASEAN không ngừng củng cố và phát
triển hợp tác về mọi mặt, đặc biệt là lĩnh vực an ninh. Tại Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN lần thứ 9 tổ chức ở Bali (In-Đô-Nê-Xia) tháng 10 năm 2003, các nhà lãnh đạo
ASEAN đã thông qua Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II, trong đó đề ra mục tiêu xây dựng
Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột là Cộng đồng an ninh ASEAN (ASC), Cộng
đồng kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN (ASCC). Trong
3 trụ cột trên, ASC được xem là trụ cột thứ nhất. Điều này cho thấy tầm quan trọng của
hợp tác chính trị - an ninh ASEAN nói chung và tiến trình xây dựng Cộng đồng
ASEAN nói riêng.
Việc xây dựng Cộng đồng ASEAN nói chung, Cộng đồng an ninh ASEAN nói
riêng là một bước ngoặt mang tính lịch sử nhằm duy trì môi trường hòa bình, ổn định
và hợp tác trong khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới đất nước, hội
nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam. Đồng thời, cộng đồng an ninh ASEAN sẽ góp
phần tăng tính liên kết giữa các quốc gia ASEAN, mang lại uy tín ngày càng cao hơn
cho tổ chức này.
Do vậy, nghiên cứu về tiến trình xây dựng Cộng đồng an ninh ASEAN và dự
báo về triển vọng hiện thực hóa nó là vấn đề khoa học có tính chất thực tiễn cấp bách
đối với khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng.
7
b) Ý nghĩa khoa học
Việc nghiên cứu quá trình xây dựng ASC và triển vọng của nó còn có ý nghĩa
quan trọng về phương diện khoa học.
Đối với Việt Nam, Cộng đồng an ninh là một khái niệm mới mẻ cả về phương
diện lý thuyết lẫn thực tiễn. Việc nghiên cứu quá trình xây dựng ASC sẽ giúp cung cấp
những hiểu biết cơ bản về Cộng đồng an ninh về phương diện lý thuyết và các mô hình
Cộng đồng an ninh đang tồn tại trên thế giới. Những hiểu biết này sẽ giúp xác định tính
chất, đặc điểm của mô hình Cộng đồng an ninh mà ASEAN đang nỗ lực xây dựng và
lý giải nguyên nhân dẫn tới đặc điểm đó.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đây là một đề tài còn khá mới mẻ. Cho đến nay, trên thế giới cũng như Việt
Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này.
a) Tình hình nghiên cứu về ASC tại Việt Nam:
Tại Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về cộng đồng an ninh
ASEAN như “Cộng đồng An ninh ASEAN: Hiện trạng, Triển vọng và sự tham gia của
Việt Nam” do Vụ ASEAN, Bộ Ngoại giao thực hiện. Đây là công trình nghiên cứu đi
sâu vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn, hiện trạng của quá trình thực hiện
ASC và đánh giá triển vọng của việc hiện thực ASC.
Ngoài ra, các hội thảo khoa học quốc tế được tổ chức tại Việt Nam về ASC
trong những năm gần đây cũng đề cập đến rất nhiều khía cạnh khác nhau. Trước hết
phải kể đến hội thảo do Vụ ASEAN, Bộ Ngoại giao tổ chức có tên: “Hợp tác chính trị,
an ninh ASEAN – Cộng đồng an ninh ASEAN”. Các cuộc hội thảo về Cộng đồng
ASEAN cũng được tổ chức nhiều. Trong đó, vấn đề về ASC cũng là vấn đề được bàn
luận và quan tâm nhiều của giới nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách.
8
Cùng với các hội thảo và các công trình nghiên cứu lớn, rất nhiều học giả Việt
Nam quan tâm tới việc hình thành AC nói chung và ASC nói riêng. Hiện nay, có rất
nhiều bài báo trên các tạp chí hay các bài viết nhỏ đề cập đến các khía cạnh khác nhau
của tiến trình ASC, đặc biệt là về tính khả thi và vai trò của cộng đồng này. Có thể kể
ra ở đây một số nhà nghiên cứu có nhiều bài viết về ASC:
- PGS.TS Nguyễn Thu Mỹ. Là một nhà nghiên cứu chuyên sâu về an ninh, tác
giả đã có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về vấn đề an ninh Đông Nam Á.
Trong bài nghiên cứu “Cộng đồng an ninh ASEAN từ ý tưởng đến hiện thực”, sau khi
phân tích mục đích, nguyên tắc và các giải pháp xây dựng, tác giả đã đưa ra dự báo
triển vọng của việc xây dựng ASC. Tác giả đã làm rõ bản chất của ASC và cho thấy
việc xây dựng ASC sẽ làm yên lòng các quốc gia thành viên cũng như không làm
phương hại tới các cường quốc khác trong khu vực. Mặc dù đưa ra những yếu tố tích
cực thúc đẩy quá trình hình thành ASC, tác giả đã chỉ ra một trong những khó khăn
nhất trong quá trình hiện thực hoá ASC. Đó là nguyên tắc không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, một trong những nguyên tắc hoạt đọng cơ bản nhất của ASEAN.
- PGS.TS Trần Khánh : “Cộng đồng an ninh ASEAN (ASC): nội dung, lộ trình,
triển vọng và tác động”. Đây là đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do PGS.TSKH.
Trần Khánh, Viện Nghiên cưú Đông Nam Á làm chủ nhiệm. Đề tài đã làm rõ cơ sở
hình thành, các nhân tố tác động đến quá trình xây dựng Cộng đồng An ninh ASEAN;
phân tích các mục tiêu, nội dung cơ bản, phương thức thực hiện và triển vọng của
Cộng đồng An ninh ASEAN. Đề tài cũng đánh giá tác động của tiến trình xây dựng
Cộng đồng An ninh ASEAN , vai trò và những đóng góp của Việt Nam vào quá trình
xây dựng ASC.
- ThS. Luận Thùy Dương. Với bài nghiên cứu “Hướng tới cộng đồng an ninh
ASEAN: Triển vọng cộng đồng và vai trò của Việt Nam”, ThS. Luận Thùy Dương đã
khẳng định vấn đề xây dựng cộng đồng an ninh ASEAN là một vấn đề mang tính cấp
bách. Các quốc gia Đông Nam Á đang phải đối mặt với những thách thức lớn về an
9
ninh và chính trị như hoạt động của các lực luợng khủng bố quốc tế, vai trò ngày một
tăng của Trung Quốc trong khu vực… Trong bối cảnh đó, việc thành lập ASC là rất
cần thiết. Trong bài viết của mình, tác giả đã tóm tắt quá trình hình thành của ASC, dự
báo về triển vọng phát triển của ASC với 3 kịch bản khác nhau. Phần cuối bài nghiên
cứu, tác giả nêu rõ vai trò của Việt Nam trong tiến trình xây dựng của ASC và cho
rằng Việt Nam cần cởi mở và chủ động hơn nữa trong các hoạt động trên để đảm bảo
vị thế và lợi ích của Việt nam trong khuôn khổ hợp tác ASC.
b) Tình hình nghiên cứu về ASC trên thế giới:
AC đang là một trong những tiêu điểm của giới nghiên cứu về Đông Nam Á. Từ
những năm đầu của thế kỷ XXI, ý thức được vai trò của ASEAN, các học giả thế giới
đặc biệt quan tâm tới sự hình thành và triển vọng của ASC nói riêng và AC nói chung.
Công trình “Xây dựng cộng đồng An ninh ở Đông Nam Á: ASEAN và vấn đề của trật
tự khu vực” (Constructing a security community in Southeast Asia: ASEAN and the
problem of regional order) của Amitav Acharya (London và New York, 2001) là một
trong những công trình cơ bản cung cấp khung lý thuyết cho việc nghiên cứu Cộng
đồng an ninh ASEAN, nhất là về cơ sở lý luận của sự hình thành các nội dung, quy tắc
ứng xử và xây dựng các thể chế của ASC. Bên cạnh đó là các công trình như “Văn hóa
ngoại giao và văn hóa an ninh của ASEAN: Nguồn gốc, sự phát triển và triển vọng”
(ASEAN‟s Diplomatic and Security Culture: Origins, Development and Prospects) của
Jurgen Haacke (London and New York, 2003); “An ninh khu vực ở Đông Nam Á:
Vựơt ra ngoài cách thức ASEAN” (Regional Security in Southeast Asia: Beyond the
ASEAN way) của Mely Caballero-Anthony (Singapor, ISEAS, 2005)… Các công tình
này đã phân tích khá sâu truyền thống và cách thức hợp tác chính trị an ninh trong
ASEAN ảnh hưởng tới sự hình thành ASC.
3. Mục đích nghiên cứu
10
ASC là một tiến trình đang diễn ra với rất nhiều biến động và nhận được sự
quan tâm của các nước lớn trên thế giới. Đây là một tổ chức có ảnh hưởng sâu sắc và
trực tiếp tới hòa bình, ổn định và sự phát triển của các nước ASEAN nói chung và Việt
Nam nói riêng. Luận văn nhằm giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:
1- Cơ sở cho sự ra đời ASC.
2- Những thành tựu đạt được trong quá trình triển khai xây dựng ASC từ khi
đưa ra kế hoạch cho đến 2009.
3- Triển vọng xây dựng ASC.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình viết luận văn, người viết đã kết hợp các phương pháp nghiên
cứu khoa học khác nhau. Trong đó chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu Quan hệ
quốc tế như Chủ nghĩa Hiện thực, Chủ nghĩa Tự do… là phương pháp xuyên suốt.
Ngoài ra, tùy từng vấn đề cụ thể mà luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như
phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, thống kê; phương pháp suy luận logic với
sự tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu…; phương pháp xử lý thông tin và dự báo…
5. Nguồn tài liệu
-
Các văn kiện chính thức của ASEAN (Tiếng Việt và tiếng Anh) liên quan
đến vấn đề cộng đồng an ninh ASEAN.
-
Tài liệu và các công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước trong và ngoài
nước dưới dạng sách, tạp chí…
-
Tài liệu cập nhật trên Internet, các bản tin của Thông tấn xã Việt Nam.
6. Cấu trúc luận văn
Chƣơng 1: Trong chương này, người viết đề cập tới quá trình hình thành ý
tưởng thành lập Cộng đồng an ninh ASEAN. Thông qua việc nhìn lại những thành tựu
cũng như hạn chế của ASEAN trong hợp tác an ninh - chính trị kể từ sau khi kết thúc
11
chiến tranh lạnh cho tới 2003 và phân tích những biến động của tình hình an ninh thế
giới cũng như khu vực, người viết muốn khẳng định lại nhu cầu cấp thiết của việc
thành lập một cơ chế hợp tác an ninh mới nhằm đảm bảo an ninh và hòa bình khu vực,
tạo điều kiện cho các quốc gia trong khu vực phát triển. Trong chương này, người viết
cũng đã đưa ra một cách tổng quát về sáng kiến hợp tác an ninh khu vực mới của InĐô-Nê-Xia cũng như phản ứng của các nước thành viên ASEAN đối với ý tưởng của
nước này. Phần cuối chương 1, người viết đã tổng kết những vấn đề cơ bản nhất về
mục tiêu, các cấu thành cũng như vai trò của ASC được đề cập tới trong Hội nghị
thượng đỉnh lần thứ 9.
Chƣơng 2: Trong chương 2, người viết tập trung điểm lại tình hình triển khai
xây dựng ASC từ 2003 cho tới 2009. Bắt đầu từ việc xem xét lại việc lập kế hoạch xây
dựng ASC, người viết đã phân tích những mục tiêu, nguyên tắc hoạt động cũng như
những định hướng chính sách và biện pháp xây dựng ASC theo như kế hoạch đề ra.
Sau khi nhìn lại kế hoạch của việc xây dựng ASC, người viết đã phân tích được tiến độ
xây dựng cộng đồng này so với thời gian đã đưa ra. Người viết cũng đưa ra những kết
quả bước đầu đã đạt được của ASC sau gần bảy năm xây dựng. Mặc dù, ASC là một
thể nghiệm mới, chưa được xác định trong thực tiễn nhưng dựa trên lý thuyết về cộng
đồng an ninh của các học giả trên thế giới, người viết đã định vị một cách chủ quan về
ASC. Dựa trên bản chất của tổ chức này, người viết cho rằng, ASC được xây dựng dựa
trên mô hình của cộng đồng an ninh đa nguyên.
Chƣơng 3: Người viết muốn khẳng định những thành tựu mà ASEAN đã đạt
được trong nỗ lực xây dựng ASC nhằm mục tiêu hòa bình, an ninh trong khu vực. Từ
việc nêu bật thành tựu của tiến trình xây dựng ASC thông qua xem xét các hoạt động
đã làm được trong 75 hoạt động đề ra theo kế hoạch, người viết đã phân tích những tác
động của thành tựu này tới an ninh khu vực. Trước khi phân tích về triển vọng của
ASC trong những năm sắp tới, người viết đã đề cập tới những thách thức, những vấn
12
đề đặt ra trong quá trình xây dựng ASC. Đó là những nhân tố tác động sâu sắc và trực
tiếp tới tiến trình hình thành cộng đồng này. Phần cuối luận văn, trên cơ sở tham khảo
ý kiến của các học giả trong và ngoài nước, người viết đưa ra một số khuyến nghị
nhằm thúc đẩy hơn nữa tiến trình xây dựng ASC.
13
Chƣơng 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH Ý TƢỞNG THÀNH LẬP
CỘNG ĐỒNG AN NINH ASEAN (ASC)
1.1
Khái quát tình hình hợp tác chính trị - an ninh của ASEAN kể từ khi
đƣợc thành lập cho tới 2003.
Như chúng ta đã biết, ra đời trong bối cảnh chiến tranh lạnh và nằm ở tâm điểm
của cuộc đấu tranh quyền lực giữa các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung quốc, trong
Tuyên bố thành lập ngày 8-8-1967, ASEAN đã nói rõ mục đích thành lập của mình là
để thúc đẩy hợp tác giữa các nước trong vùng trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa,
khoa học kỹ thuật nhằm biến Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và thịnh
vượng. Chỉ tới năm 1976, trước những biến đổi cơ bản về chính trị, an ninh ở Đông
Nam Á, sau khi chiến tranh Việt nam kết thúc, hợp tác chính trị mới chính thức được
đưa vào chương trình nghị sự của Hiệp hội. Hợp tác an ninh trên cơ sở đa phương đã
không được đề cập tới trong tất cả các văn kiện của ASEAN cho tới khi Chiến tranh
lạnh kết thúc. Điều này là do ASEAN muốn tránh sự nghi kỵ của các nước xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt là Trung quốc, Việt nam, vốn luôn coi ASEAN là tổ chức quân sự trá
hình được lập ra để thay thế SEATO đã suy yếu.
Hợp tác an ninh của ASEAN được tiến hành chủ yếu trên cơ sở song phương giữa
các nước thành viên ASEAN với nhau, hoặc giữa các nước thành viên với các cường
quốc quân sự ngoài khu vực.
Hợp tác an ninh song phương giữa các nước thành viên được tiến hành chủ yếu
qua 4 hình thức cơ bản:
Trao đổi thông tin, tình báo
Đào tạo, huấn luyện quân đội
Tập trận chung
Hợp tác tuần tra biên giới
14
Trong 4 hình thức trên, hợp tác tuần tra biên giới là phổ biến nhất.
Về hợp tác an ninh giữa các nước Đông Nam Á với các cường quốc ngoài khu
vực, đáng chú ý nhất là hợp tác an ninh giữa Thái lan và Mỹ, Phi lip pin - Mỹ và hợp
tác Việt nam - Xô ký tháng 11/ 1978.
Tuy không ký kết các hiệp ước hợp tác an ninh với một cường quốc ngoài khu
vực, Ma-Lai-Xia và Sing-Ga-Po đã tham gia Khối 5 cường quốc (bao gồm Anh, Úc,
Niu Dilan, Ma-Lai-Xia, Sing-Ga-Po ) được thành lập vào năm 1971 và coi đó như một
chỗ dựa an ninh của mình.
Sau khi Chiến tranh lạnh chấm dứt, quan hệ giữa các nước lớn ở Đông Nam Á đã
trở nên hòa dịu. Mặc dù các nước đó vẫn tiếp tục tranh giành ảnh hưởng và quyền lợi
với nhau, nhưng họ đã thừa nhận lợi ích và ảnh hưởng của nhau trong khu vực. Các
hoạt động can thiệp, lật đổ do sự thúc đẩy từ bên ngoài, về cơ bản, đã được hạn chế.
Đây là cơ hội thuận lợi để các nước trong khu vực xích lại gần nhau. Quan hệ giữa
ASEAN và Đông dương đã được cải thiện rõ rệt. Vào năm 1988, Việt nam đã tuyên bố
ý định ra nhập ASEAN.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực trên, môi trường an ninh ở Đông Nam Á
vẫn rất bấp bênh bởi sự tiềm ẩn của các nguy cơ xung đột ở nhiều nơi trong khu vực,
đặc biệt là các vấn đề về tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên, tôn
giáo sắc tộc… Xuất phát từ thực tế này, các nước ASEAN đã nhận thấy vấn đề xây
dựng một cơ chế hợp tác an ninh đa phương ở khu vực đã trở thành một nhu cầu cấp
bách nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định cho khu vực.
Mặc dù ASEAN ra đời nhằm hướng tới mục đích cao nhất là hòa bình, ổn định
cho Đông Nam Á nhưng vì ngại sự phản ứng của Trung Quốc và các lực lượng cách
mạng ở Đông Dương nên cơ chế hợp tác an ninh đa phương của ASEAN trước năm
1993 chưa hề được đưa vào chương trình nghị sự.
Mãi tới Tháng 1/1992, trong Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Xingga-po, vấn đề hợp tác an ninh đa phương lần đầu tiên được chính thức đưa vào chương
15
trình nghị sự của ASEAN bằng việc thành lập Diễn đàn an ninh ASEAN (ARF) bàn về
hợp tác chính trị và an ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Thành tựu đáng kể nhất của hợp tác an ninh ASEAN kể từ khi thành lập ASEAN
chính là việc ra đời ARF. Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) được thành lập năm 1994
nhằm thúc đẩy cơ chế đối thoại và tham vấn về các vấn đề an ninh và chính trị trong
khu vực, xây dựng lòng tin và phát triển ngoại giao phòng ngừa. Khẩu hiệu của ARF là
"Xúc tiến hòa bình và an ninh qua đối thoại và hợp tác ở Châu Á Thái Binh Dương".
Với sự tham dự của nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực Đông Nam Á. ARF là
sự thể hiện tính tiến bộ của các quốc gia Đông Nam Á trong vấn đề an ninh và hợp tác
an ninh khu vực, gắn quốc gia với khu vực và gắn khu vực với quốc tế.
Các mục tiêu của Diễn đàn khu vực ASEAN được quy định rõ trong tuyên bố của
các nhà lãnh đạo ARF đầu tiên (1994), đó là:
- Tăng cường đối thoại hợp tác và hội đàm các vấn đề chính trị và an ninh của các
nước có chung lợi ích và mối quan tâm.
- Đóng góp đáng kể vào những nỗ lực nhằm xây dựng một khu vực đáng tin cậy
và dân chủ ở châu Á – Thái Bình Dương. [30,12]
Trong một khu vực vốn ít có lịch sử hợp tác an ninh, Diễn đàn khu vực ASEAN
là một diễn đàn quan trọng nhất về hợp tác an ninh ở châu Á. Diễn đàn này đã bổ sung
vào các cơ chế liên minh song phương và đối thoại khác nhau hiện có ở châu Á, củng
cố thêm viễn cảnh hợp tác an ninh ở khu vực này. Diễn đàn ARF được xây dựng từ ý
tưởng – rút ra từ chính kinh nghiệm của ASEAN - rằng một tiến trình đối thoại có thể
tạo ra những biến chuyển tích cực trong quan hệ chính trị giữa các nước. Nó tạo ra một
cơ chế hoạt động giúp các thành viên có thể thảo luận về các vấn đề an ninh hiện có
trong khu vực và tăng cường các biện pháp hợp tác nhằm thúc đẩy hoà bình và an ninh
trong khu vực.
Khó khăn của ARF chính là ở sự khác biệt giữa các nước tham gia ARF về cả dân
tộc, tôn giáo, văn hóa, chế độ chính trị và trình độ phát triển , thậm chí là có những
16
quốc gia ở thế đối địch nhau. Chính vì vậy, ở giai đoạn đầu, ARF tập trung vào các
biện pháp xây dựng lòng tin nhằm hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau.
Sự ra đời của ARF là một thành công lớn về phương diện ngoại giao của Hiệp hội
này ở thời kỳ Hậu chiến tranh lạnh. ARF không chỉ tạo cơ hội cho ASEAN đóng góp
vào hoà bình ổn định và hiểu biết lẫn nhau giữa các nước trong khu vực châu Á – Thái
Bình Dương mà còn giúp cho ASEAN thể hiện được vai trò lãnh đạo của mình đối với
quá trình an ninh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Số lượng thành viên của ARF tăng lên tới 26 quốc gia, thu hút được sự quan tâm
của các cường quốc khác ngoài khu vực. Đây là tổ chức duy nhất có sự tham gia của
hầu hết các cường quốc như Mỹ, EU, Nhật Bản, Liên bang Nga, Trung Quốc và Ấn
Độ.
Hoạt động của ARF ngày càng gia tăng về cường độ và mở rộng về phạm vi, hiện
đang ở thời điểm phức tạp liên quan đến chuyển từ giai đoạn thực hiện các biện pháp
xây dựng lòng tin (CBMs) sang ngoại giao phòng ngừa. Để đối phó với nhiều nguy cơ
mới nảy sinh, đặc biệt là khủng bố và nguy cơ an ninh phi truyền thống, ARF lập ra
nhiều cơ chế mới, hoạt động mang tính thực chất và ràng buộc hơn, không loại trừ khả
năng chuyển từ cơ chế đối thoại sang cơ chế hợp tác.
Tuyên bố của chủ tịch ARF – 10 nhận định ARF “có ý nghĩa to lớn đối với an
ninh và ổn định ở châu Á – Thái Bình Dương. Bất kể sự đa dạng về thành viên của nó,
diễn đàn này đã có một hồ sơ về các thành tựu đóng góp vào việc duy trì hoà bình, an
ninh trong vực”. Những thành tựu chính của ARF được ghi nhận trong Tuyên bố của
Chủ tịch ARF – 10 bao gồm:
- Tính hiệu quả của ARF với tư cách là một cầu nối cho các cuộc đối thoại và tư
vấn song phương cũng như đa phương cùng với việc thiết lập những quy tắc đối thoại
và hợp tác, ra quyết định dựa trên sự đồng thuận, không can thiệp lẫn nhau, sự tiến bộ
không ngừng và phát triển với tốc độ cân đối, hợp lý cho mọi thành viên.
17
- Sự sẵn sàng giữa các bên tham dự ARF nhằm thảo luận hàng loạt các vấn đề an
ninh trong một cơ chế đa phương
- Sự tin tưởng lẫn nhau được xây dựng dần qua các hoạt động hợp tác
- Tạo lập và duy trì đối thoại và tư vấn về các vấn đề an ninh và chính trị
- Minh bạch được thực hiện thông qua những biện pháp của ARF như trao đổi
thông tin liên quan đến chính sách quốc phòng và việc xuất bản các báo cáo của chính
phủ về quốc phòng
- Một mạng lưới được triển khai giữa các quan chức quân đội, quốc phòng và an
ninh quốc gia của các bên tham gia ARF.
Tuy nhiên, với vai trò là một diễn đàn, ARF vẫn tồn tại những hạn chế trong việc
giải quyết các vấn đề an ninh khu vực.
ARF chỉ là một quá trình chứ không phải là một thể chế. Mục đích chính từ khi
thành lập là xây dựng lòng tin và sự tin cậy lẫn nhau giữa các nước tham gia, đồng thời
tạo ra một mô hình quan hệ ổn định và có thể dự đoán trước được giữa các nước lớn ở
Đông Nam Á.Và đến tận hôm nay, ARF với những hạn chế của mình cũng chỉ mới có
khả năng thúc đẩy niềm tin giữa các nước trong khu vực.
ARF chưa có khả năng giải quyết được những vấn đề an ninh nóng bỏng hiện nay
tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương như vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên,
vấn đề eo biển Đài Loan hay tranh chấp Biển Đông. Tốc độ chạy đua vũ trang trong
khu vực châu Á – Thái Bình Dương vẫn đang hết sức nóng bỏng. Mặc dù đã sử dụng ở
các kênh và các cấp độ khác nhau nhưng nỗ lực của ARF nhằm giảm chạy đua vũ trang
và giải trừ quân bị vẫn là điều khó trở thành hiện thực. Sự đa dạng của các thành viên
khiến cho việc đi đến sự nhất trí chung cho các vấn đề này đến thời điểm hiện nay vẫn
là điều không tưởng. [33, tr.54]
Với sự tham gia của hầu hết các siêu cường trên chính trường thế giới, việc lãnh
đạo của ASEAN đối với ARF thực sự bị chi phối và phụ thuộc rất nhiều vào thái độ
của các nước này. Khả năng của ASEAN chưa thể có 5những tác động hay ảnh hưởng
18
tới các nước lớn. Mà thực tế, các quốc gia khi tham gia vào ARF hay bất cứ tổ chức
quốc tế nào thì đều đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu. Họ sẽ không chấp nhận hi sinh
hay đặt bất cứ điều gì lên trên lợi ích chiến lược của họ. Chính bởi vậy, ARF đã thất
bại không ít lần trong các hoạt động nhằm đảm bảo an ninh khu vực. Ví dụ như: Mỹ từ
chối ký Hiệp ước SEANWFZ với lý do là hiệp ước này hạn chế việc triển khai tàu
chiến của Mỹ tại các vùng biển quốc tế và cho rằng hiệp ước này vi phạm luật biển.
Hơn 10 năm qua, ARF vẫn đang ở giai đoạn 1 của lộ trình 3 giai đoạn, đó là: Xây
dựng lòng tin – Ngoại giao phòng ngừa – Giải quyết các cuộc xung đột. Nếu vẫn tồn
tại một cơ chế hoạt động như hiện nay, ARF chắc chắn sẽ không đủ sức mạnh và uy tín
để đảm bảo an ninh trong nội bộ - vấn đề hàng đầu của các nước ASEAN cũng như
làm chủ tình hình khu vực Đông Nam Á để ASEAN không bị các nước lớn ngoài khu
vực chi phối và lũng đoạn. [33, tr.56]
Mặc dù nhận thức một cách sâu sắc tầm quan trọng của hợp tác an ninh đa
phương nhưng các thành tựu trong hợp tác đa phương của ASEAN sau năm 1993 và
trước năm 2003, thực sự không có nhiều sự kiện nổi bật thể hiện bước tiến của Hiệp
hội. Thời điểm quan trọng nhất trong lĩnh vực hợp tác an ninh đa phương của ASEAN
những năm sau chiến tranh lạnh là năm 1995.
Trong năm này, ASEAN có hai bước tiến quan trọng: (1) kết nạp Việt Nam (ngày
28 tháng 7 năm 1995), bắt đầu tiến trình mở rộng ASEAN; (2) ký kết Hiệp ước về khu
vực Đông Nam Á không vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), hưởng ứng phong trào giải trừ
quân bị đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới sau Chiến tranh lạnh và hiện thực hóa
Tuyên bố ZOPFAN.
Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 17 (tháng 7/1984) đã nhất trí lập khu vực
không có vũ khí hạt nhân ở Đông Nam Á (gọi tắt là SEANWFZ), coi đó là 1 trong
những công cụ hình thành Khu vực hoà bình, tự do và trung lập (ZOPFAN). Tại Hội
nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 5 tại Băng-cốc tháng 12/1995, những người đứng đầu
Nhà nước/Chính phủ của cả 10 nước Đông Nam Á đã ký Hiệp ước SEANWFZ. Từ
19
- Xem thêm -