TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA HÀNH CHÍNH – LUẬT
------ oOo ------
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN LUẬT LAO ĐỘNG
PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI GIÚP VIỆC GIA
ĐÌNH
2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu
Cụm từ đầy đủ
BLLĐ
Bộ Luật Lao Động
LĐGVGĐ
Lao Động Giúp Việc Gia Đình
GFCD
Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Phát triển
cộng đồng
HĐLĐ
Hợp Đồng Lao Động
UBNĐ
Ủy Ban Nhân Dân
3
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI GIÚP VIỆC
GIA ĐÌNH TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM........................................................4
1.1. Khái quát về lao động là người giúp việc gia đình....................................4
1.1.1. Khái niệm về lao động là người giúp việc gia đình............................4
1.1.2. Đặc điểm của lao động là người giúp việc gia đình............................6
1.2. Nội dung pháp luật đối với lao động là người giúp việc gia đình.............7
1.2.1. Khái niệm pháp luật đối với lao động là người giúp việc gia đình....8
1.2.2. Quy định của pháp luật về lao động là người giúp việc gia đình........9
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LAO ĐỘNG LÀ
NGƯỜI GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN............12
2.1. Thực trạng về lao động là người giúp việc gia đình..................................12
2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về lao động là người giúp việc gia đình
..........................................................................................................................13
2.2.1. Về hợp đồng lao động.......................................................................13
2.2.2. Về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.................................17
2.2.3. Về điều kiện làm việc, chế độ sinh hoạt............................................19
2.2.4. Về quản lý, kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất và giải quyết tranh
chấp lao động................................................................................................22
2.3. Kiến nghị về định hướng giải pháp hoàn thiện pháp luật..............................25
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái quát về lao động là người giúp việc gia đình
1.1.1. Khái niệm về lao động là người giúp việc gia đình
“Lao động giúp việc gia đình” đã từng tồn tại từ rất lâu ngay từ thời nô lệ và
phong kiến. Ở xã hội đó, gần như các gia đình khá giả trên lên đều có lao động
giúp việc gia đình thường được gọi là: nô lệ, gia nhân, gia nô, nô bộc, … nhưng
trong xã hội thời bấy giờ thì đây không được xem là một nghề họ bị hạn chế về
quyền hoặc không có bất cứ quyền nào. Mà thậm chí họ chỉ được xem như là
một loại “tài sản”. Trong xã hội tư bản, thì đây được xem là một công việc. Còn
hiện nay, khi mà nên kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu về giúp việc trong
các gia đình ngày càng tăng. Vì vậy lao động là người giúp việc gia đình đã được
trở thành một nghề và được pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận như:
Philippines, Pháp, Campuchia, … Trong mối quan hệ lao động này, người lao
động và người sử dụng lao động đều bình đẳng và nguyên tắc của quan hệ này là
thỏa thuận, bình đẳng, tôn trọng nhau giữa các chủ thể. Định nghĩa về lao động
là người giúp việc gia đình thì chưa có sự thống nhất trên thế giới, mà các quốc
gia quy định khác nhau trong pháp luật của nước mình.
Đầu tiên, là tại luật lao động Philippines. Chương 141 luật lao động
Philippines định nghĩa: lao động giúp việc gia đình hay dịch vụ giúp việc gia
đình là dịch vụ thực hiện tại nhà của người thuê, theo nhu cầu, mong muốn về
việc bảo trì nhà cửa và hưởng thụ, bao gồm cả việc chăm nom cho sự thoải mái
của các thành viên trong gia đình của người thuê1. Ở Campuchia, Điều 4 Bộ Luật
Lao động định nghĩa người lao động giúp việc gia đình như sau: Người lao động
giúp việc là những người được thuê để làm các công việc chăm sóc chủ nhà hoặc
tài sản của chủ nhà để đổi lấy thù lao. Nhóm người này bao gồm người giúp
việc, bảo vệ, tài xế, người làm vườn và các nghề nghiệp tương tự khác miễn là
có một “chủ nhà” thuê họ để làm việc trực tiếp tại nhà của mình2.
1
Trần Linh Trang, Pháp luật về lao động giúp việc gia đình – Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ
luật học, Hà Nội, 2015.
2
Trần Linh Trang, Pháp luật về lao động giúp việc gia đình – Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ
luật học, Hà Nội, 2015.
5
Trong Pháp luật Pháp có định nghĩa về lao động giúp việc gia đình tại Khoản
1 Điều L7221 Bộ Luật Lao Động Pháp như sau: “Lao động giúp việc gia đình là
một người được thuê làm công việc gia đình cho các cá nhân”. Không những thế
để làm rõ hơn về định nghĩa này thì tại Điều 1 Thỏa ước lao động quốc gia Pháp
đã mô tả lao động giúp việc gia đình như sau: Bản chất đặc biệt của nghề nghiệp
này là làm việc tại nhà riêng của người sử dụng lao động giúp việc gia đình. Lao
động giúp việc gia đình có thể làm việc toàn thời gian hoặc bán thời gian, thực
hiện tất cả hoặc một phần công việc nhà chẳng hạn liên quan tới vệ sinh…
Người sử dụng lao động giúp việc gia đình không thu được lợi nhuận thông qua
công việc này.
Qua tìm hiểu pháp luật các quốc gia về lao động giúp việc gia đình có thể
thấy rằng thuật ngữ này không chỉ một công việc cụ thể nhất định mà nó là bao
gồm nhiều công việc khác nhau trong các công việc gia đình. Nhìn chung ta có
thể thấy hai tiêu chí để xem xét thế nào gọi là lao động giúp việc gia đình như
sau:
Thứ nhất, lao động giúp việc gia đình là lao động được sử dụng để làm các
công việc trong gia đình mang tính chất giúp đỡ các hoạt động sinh hoạt của gia
đình. Đó là những công việc chẳng hạn như: nấu ăn, dọn dẹp vệ sinh nhà cửa,
giặt giũ, trông trẻ, chăm sóc người già, …
Thứ hai, Người sử dụng lao động là lao động giúp việc gia đình không được
phép thu lợi nhuận thông qua công việc này. Có thể hiểu tiêu chí này là người sử
dụng lao động không được phép sử dụng người lao động vào các công việc liên
quan đến hoạt động thương mại.
Qua hai tiêu chí nêu trên có thể định nghĩa lao động giúp việc gia đình như
sau:
“Lao động giúp việc gia đình là lao động thực hiện các công việc trong gia
đình mang tính chất giúp đỡ hoạt động sinh hoạt của gia đình. Và người sử dụng
lao động không được phép thu lợi nhuận từ công việc này”.
1.1.2. Đặc điểm của lao động là người giúp việc gia đình
Phân loại lao động giúp việc gia đình
Chúng ta có thể phân loại LĐGVGĐ theo thời gian làm việc.
6
Nhóm một, người LĐGVGĐ làm việc theo hình thức không xác định thời
gian. Trong loại hình lao động này, người lao động thường ở chung với chủ hộ
được chủ hộ nuôi ăn, ở và được trả lương theo tháng.
Nhóm hai, người LĐGVGĐ làm việc theo hình thức xác định thời gian.
Người LĐGVGĐ còn có thể làm việc theo giờ thỏa thuận, điều đó có nghĩa là họ
không ở chung với chủ hộ. Công việc thực hiện được yêu cầu rõ ràng, trả lương
theo giờ hoặc theo khối lượng công việc. Ở hình thức này người LĐGVGĐ có
thể thực hiện công việc cho nhiều hộ gia đình khác nhau.
Đặc điểm của lao động là người giúp việc gia đình
Qua quan sát dưới nhiều góc độ khác nhau có thể thấy LĐGVGĐ có nhiều
đặc điểm để phân biệt so với một số loại lao động khác. Ví dụ như về độ tuổi,
trình độ học vấn, chuyên môn, … Có bốn đặc điểm chính sau đây về LĐGVGĐ.
Thứ nhất, về độ tuổi LĐGVGĐ có tất cả các nhóm từ 15 đến 60 tuổi, tuy
nhiên tập trung chủ yếu ở độ tuổi trung niên từ 40 trở lên. Bởi lẽ ở độ tuổi này
phần lớn họ đã có con cái lớn và đến tuổi lao động do đó họ điều kiện thoát ly
gia đình để đi làm xa, hơn nữa nhiều gia đình cũng thích thuê lao động ở độ tuổi
này vì họ có thể ở lại với gia đình lâu hơn và có kinh nghiệm làm việc gia đình
cũng như chăm sóc các thành viên trong gia đình tốt hơn. Bên cạnh đó, có một
bộ phận là những người ở ngoài độ tuổi lao động tham gia vào thị trường lao
động này nhưng thường không được “ưa chuộng” vì nhóm người này thường có
sức khỏe yếu, nắm bắt công việc chậm không làm được công việc nặng nên
nhiều hộ gia đình có tâm lí ngại thuê người già vì hay đau ốm và bất tiện khi để
người già chăm sóc gia đình. Và chỉ ít độ tuổi 16 -18, sở dĩ ở độ tuổi này ở nông
thôn đa phần các em gái thường không còn đi học nên khi gia đình khó khăn thì
để có thêm thu nhập thì các em tranh thủ làm thêm nghề giúp việc gia đình, đối
tượng này có cơ hội tham gia loại hình lao động bởi dễ bảo, học việc nhanh và
có thể chơi và trông em nhỏ, tuy nhiên nhóm này thường trở lại quê nhà lập gia
đình hoặc có mong muốn tìm kiếm một công việc khác khi đến 19-20 tuổi nên
tâm lí nhiều gia đình không muốn thuê đối tượng này vì tính ổn định thấp và dễ
phát sinh nhiều vấn đề phức tạp vì chưa đến tuổi trưởng thành như trộm cắp, dễ
bị kẻ xấu lợi dụng, xúi giục, quan hệ bất chính với chủ nhà,… Như vậy, nhóm
lao động từ 40-55 là nguồn tiềm năng cho nhu cầu LĐGVGĐ.
7
Thứ hai, về trình độ học vấn những thành phần tham gia vời mối quan hệ lao
động này thường là những người có trình độ học vấn thấp. Quan niệm xưa nay
thường xem LĐGVGĐ được coi là công việc thấp hèn và thường chỉ có những
người sống ở nông thôn và có trình độ học vấn thấp mới làm công việc này.
Những quan niệm về nghề giúp việc gia đình chỉ dành cho người nông thôn, có
trình độ học vấn thấp và kỹ năng giao tiếp hạn chế là những điểm khá đặc trưng
của phần lớn người LĐGVGĐ. Hiện nay trong xã hội cũng xuất hiện thêm một
số người LĐGVGĐ có trình độ cao như sinh viên đại học đi làm LĐGVGĐ theo
giờ tại các gia đình người nước ngoài tại Việt Nam, tuy nhiên mới chỉ có lượng ít
nhưng có thể thấy đây cũng là một công việc đem lại thu nhập cao so với nhiều
ngành nghề khác và hứa hẹn có nhiều thành phần lao động ở nhiều trình độ khác
nhau muốn gia nhập.
Thứ ba, Về điều kiện gia đình có thể thấy đa số người lao động lựa chọn công
việc là do kinh tế khó khăn. Họ đi làm để có thêm thu nhập vì tiền công nhận
được từ LĐGVGĐ tương đối ổn định giúp họ trang trải các nhu cầu của gia đình
và cá nhân.
Thứ tư, Về đào tạo chuyên môn phần lớn người LĐGVGĐ ở nước ta chưa có
qua đào tạo nghề. Đa phần những trường hợp được đào tạo để đi giúp việc cho
gia đình ở nước ngoài.
Tóm lại, đa phần là người LĐGVGĐ đều có những đặc điểm chung về độ
tuổi, đặc trưng giới tính, trình độ văn hóa không cao, có hoàn cảnh xuất thân đặc
biệt. Chính những đặc thù này đã tạo nên nét đặc trưng trong đối tượng lao động
cần được bảo vệ này.
1.2.
Nội dung pháp luật đối với lao động là người giúp việc gia đình
Pháp luật Việt Nam đã có những ghi nhận về lao động giúp việc gia đình. Ở
Bộ Luật Lao động 1994, đã đề cấp đến vấn đề này tại các Điều 2, Điều 28, Điều
139 nhưng vẫn còn khá mơ hồ chưa được rõ ràng và cũng như chưa được hướng
dẫn cụ thể. Nhưng ở Bộ Luật Lao động 2012 thì lao động giúp việc gia đình đã
được quy định một cách rõ ràng từ khái niệm đến nghĩa vụ của các bên khi tham
gia quan hệ lao động này. Không những thế tại năm 2014, các vấn đề về lao
động giúp việc gia đình được hướng dẫn một các cụ thể bởi các Thông tư và
8
Nghị định đi kèm. Với sự thay đổi của pháp luật này, lao động giúp việc gia đình
được công nhận như một nghề. Và xã hội cũng có nhìn nhận khác về những
người là lao động giúp việc gia đình.
1.2.1. Khái niệm pháp luật đối với lao động là người giúp việc gia đình
Ở pháp luật Việt Nam, thuật ngữ “Lao động là người giúp việc gia đình”
được định nghĩa là người lao động thực hiện các công việc trong gia đình của
một hay nhiều hộ gia đình khác nhau một cách thường xuyên. Với định nghĩa
này ta thấy rằng nhà làm luật không hạn chế phạm vi thực hiện công việc của
người LĐGVGĐ, họ có thể làm việc cho một hoặc nhiều hộ gia đình. Quy định
này tạo điều kiện cho họ nâng cao thu nhập từ đó cải thiện cuộc sống. Bởi vì đa
số những người lựa chọn công việc giúp việc gia đình thường có hoàn cảnh khó
khăn hoặc không có trình độ chuyên môn, và công việc này mang lại thu nhập
tương đối ổn định cho họ. Hơn nữa cũng sẽ có một số trường hợp họ chỉ thực
hiện công việc giúp việc gia đình ở một khoản thời gian trong ngày, đây không
phải là công việc duy nhất của họ, nên pháp luật đã tạo điều kiện để họ tận dụng
thời gian đó để lao động giúp việc cho gia đình khác. Các công việc mà người
LĐGVGĐ có thể làm nhiều công việc như: nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ, chăm
sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho
hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại. Xuất phát từ bản
chất của công việc giúp việc gia đình, đó chỉ đơn thuần là các công việc với mục
đích chăm sóc gia đình về ăn uống, sinh hoạt,… chứ không nhằm mục đích tạo
ra thu nhập cho người sử dụng lao động nên người LĐGVGĐ sẽ không làm các
công việc liên quan đến sản xuất, kinh doanh tạo ra lợi nhận hoặc cạnh tranh trên
thị trường.
Ngoài ra pháp luật lao động còn quy định người làm công việc trong gia đình
theo hình thức khoán việc không được xem là lao động giúp việc gia đình.
BLLĐ có quy định này do tính chất công việc của lao động giúp việc gia đình là
làm việc thường xuyên.Tính thường xuyên ở đây không phải là tình trạng lặp đi
lặp lại trong một chu kỳ làm việc mà phải là tính chất lặp đi lặp lại liên tục hằng
ngày của công việc. Công việc của người LĐGVGĐ mang tính chất ổn định,
hàng ngày họ có mặt thực hiện nghĩa vụ với tính chất làm công ăn lương và được
biên chế vào thành phần sinh hoạt của gia đình. Nhưng trong hình thức khoán
9
việc thì những công việc chỉ mang tính thời vụ diễn ra trong một thời điểm nhất
định. Chẳng hạn như một người lao động được thuê mướn theo hình thức cứ đến
một ngày nhất định trong tháng lại thực hiện công việc nhất định sao đó lại dược
nhận một khoản tiền cho dịch vụ đó thì không được coi là LĐGVGĐ mà họ là
những người làm việc theo hình thức khoán việc. Việc thực hiện công việc
khoán việc của họ được điều chỉnh bởi Bộ Luật Dân sự.
1.2.2. Quy định của pháp luật về lao động là người giúp việc gia đình
Hiện nay, nhu cầu sử dụng lao động giúp việc gia đình ngày càng tăng cao.
Tuy nhiên trong một thời gian dài lao động giúp việc gia đình được xem như một
công việc không được xã hội tôn trọng. Vì vậy, để làm cho người sử dụng lao
động có những hành vi và thái độ phù hợp với người lao động giúp việc gia đình,
tạo những điều kiện thích hợp để người lao động giúp việc gia đình hoàn thành
tốt công việc của mình, cũng như ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên. Bộ
luật Lao động đã có những quy định riêng về lao động là người giúp việc gia
đình.
Thứ nhất, đó là vấn đề hợp đồng lao động đối với lao động là người giúp việc
gia đình. Nhằm cụ thể hóa về quyền và nghĩa vụ vủa các bên, tạo cơ sở cho việc
giải quyết các tranh chấp, BLLĐ 2012 đã có sự thay đổi so với BLLĐ 1994 về
hình thức của hợp đồng LĐGVGĐ. BLLĐ 2012 buộc hợp đồng lao động của
quan hệ này phải được lập thành văn bản. Tức là về mặt hình thức hợp đồng này
phải được lập thành văn bản chứ không như BLLĐ 1994 thì không bắt buộc về
mặt hình thức. Trên cơ sở tôn trọng sự thỏa thuận của hai bên, BLLĐ 2012 cho
phép hai bên tự thỏa thuận thời hạn hợp đồng lao dộng. Có thể hiểu là các bên có
thể lựa chọn giao kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao
động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc
nhất định có thời hạn dưới 12 tháng. Tiếp theo là về nội dung của hợp đồng, hình
thức trả lương, kỳ hạn trả lương, thời giờ làm việc hàng ngày, chỗ ở là những nội
dung cần ghi rõ trong hợp đồng. Nội dung cụ thể của hợp đồng được ghi nhận tại
các văn bản hướng dẫn thi gồm: thông tin cá nhân của các bên ký hợp đồng lao
động; công việc và địa điểm làm việc; thời hạn của hợp đồng lao động; tiền
lương; tiền thưởng (nếu có); thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; trang bị bảo
hộ lao động; bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; ăn và chỗ ở của người lao động;
10
tiền tàu xe về nơi cư trú khi chấm dứt hợp đồng lao động đúng thời hạn; hỗ trợ
học nghề, văn hóa (nếu có); trách nhiệm bồi thường của người lao động; những
hành vi nghiêm cấm.
Thứ hai, đó là về vấn đề quyền và nghĩa vụ của người sử dụng LĐGVGĐ và
người LĐGVGĐ. Khi hợp đồng lao động được ký kết sẽ làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên. Đây có thể gọi là “quyền và nghĩa vụ đối ứng”3. Nghĩa vụ
đầu tiên phải được nhắc đến của người sử dụng LĐGVGĐ là: Thực hiện đầy đủ
thỏa thuận đã giao kết trong hợp đồng lao động. Các thỏa thuận này có thể là
thỏa thuận về thời hạn thực hiện hợp đồng; thỏa thuận về tiền lương, hình thức
trả lương, kỳ hạn trả lương; thỏa thuận về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,
nghỉ hàng tuần, nghỉ lễ, nghỉ tết. Cũng như đối với các lao động khác, để đảm
bảo cuộc sống về già hoặc không có thu nhập, đồng thời được chăm sóc sức
khỏe khi đau ốm, bệnh tật của người LĐGVGĐ, người sử dụng LĐGVGĐ có
nghĩa vụ trả cho người LĐGVGĐ một khoản tiền theo quy định của pháp luật để
họ tự lo đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Bên cạnh đó người sử dụng
LĐGVGĐ phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm của người giúp việc gia đình.
Người sử dụng LĐGVGĐ phải bố trí chỗ ăn, ở sạch sẽ, hợp vệ sinh cho người
giúp việc gia đình, nếu có thỏa thuận.Tạo điều kiện cho người giúp việc gia đình
được tham gia học văn hóa, học nghề. Trả tiền tàu xe cho người LĐGVGĐ để họ
trở về nơi cư trú, tuy nhiên họ sẽ không được thanh toán chi phí này nếu họ kết
thúc hợp đồng lao động trước thời hạn. Đây là những quyền lời đáp ứng các nhu
cầu cơ bản nhất mà người sử dụng LĐGVGD phải đáp ứng cho người
LĐGVGĐ. Luật cũng quy định một bên có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ
bất kỳ lúc nào nhưng phải thông báo trước 15 ngày. Vì đây là quyền và nghĩa vụ
đối ứng, tuy BLLĐ không quy định nhưng ta có thể thấy rằng người LĐGVGĐ
sẽ có những quyền tương ứng với những nghĩa vụ của người sử dụng LĐGVGĐ
đã nêu trên. Bên cạnh đó người LĐGVGĐ cũng có những nghĩa vụ nhất định
gồm bốn nghĩa vụ chính trong đó có một nghĩa vụ mà pháp buộc thực hiện để
bảo vệ chính người LĐGVGĐ. Nghĩa vụ của họ được quy định cụ thể tại BLLĐ
2012. Cụ thể là:Thực hiện đầy đủ thỏa thuận hai bên đã ký kết trong hợp đồng
lao động. Trong quá trình người LDGVGĐ làm việc nếu họ làm hư hỏng, mất
mát tài sản của người sử dụng LĐGVGĐ thì phải bồi thường theo thỏa thuận
3
Quyền và nghĩa vụ đối ứng: Là quyền của bên này sẽ tương ứng với nghĩa vụ của bên kia. Và ngược lại.
11
hoặc theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ tiếp theo là thông báo kịp thời cho
người sử dụng lao động về những khả năng, nguy cơ gây tai nạn, đe dọa an toàn,
sức khỏe, tính mạng, tài sản của gia đình người sử dụng LĐGVGĐ và bản thân.
Cuối cùng là tố cáo với cơ quan có thẩm quyền nếu người sử dụng LĐGVGĐ có
hành vi ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động hoặc hành vi trái pháp
luật khác. Ở đây quấy rối tình dục có thể hiểu là hình thức quấy nhiễu hướng tới
giới tính của người có liên quan, còn cưỡng bức lao động cũng được định nghĩa
tại BLLĐ 2012 như sau: Cưỡng bức lao động là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực
hoặc các thủ đoạn khác nhằm buộc người khác lao động trái ý muốn của họ. Quy
định này đã chuyển từ quyền thành nghĩa vụ để bắt buộc người LĐGVGĐ phải
tố giác các hành vi đó của người sử dụng LĐGVGĐ với cơ quan có thẩm quyền.
Mục đích của của quy định này là để bảo vệ chính người LĐGVGĐ, người có vị
trí yếu thế hơn trong quan hệ lao động này và tạo cho họ một môi trường làm
việc tốt nhất. Bên cạnh đó với mục đích tạo môi trường tốt nhất này cho người
LĐGVGĐ BLLĐ 2012 còn ghi nhận những hành vi nghiêm cấm đối với người
sử dụng LĐGVGĐ như sau: Nghiêm cấm ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng
bức lao động, dùng vũ lực đối với lao động là người giúp việc gia đình. Giao
việc cho người giúp việc gia đình không theo hợp đồng lao động. Giữ giấy tờ tùy
thân của người lao động.
Như vậy có thể thấy những quy định của pháp luật về LĐGVGĐ ngày càng
cụ thể, xóa bỏ đi sự mơ hồ trước đó về khái niệm, hợp đồng, hay cả quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ lao động này.
12
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LAO ĐỘNG LÀ NGƯỜI
GIÚP VIỆC GIA ĐÌNH VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN
2.1.
Thực trạng về lao động là người giúp việc gia đình
Trên thực tế, nghề LĐGVGĐ mang lại thu nhập tương đối ổn định cho người
lao động, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Vì vậy, sử dụng
người giúp việc là nhu cầu nhất thiết của nhiều gia đình, nhất là tại các đô thị
lớn... Bởi thế, lực lượng lao động này tăng nhanh trong những năm gần đây.
Theo thống kê chưa đầy đủ, lao động giúp việc gia đình tăng từ 157 nghìn người
năm 2008 lên 246 nghìn người năm 2016, dự báo đến năm 2020, cả nước có
khoảng 350 nghìn người4. Hiện nay, người LĐGVGĐ chủ yếu ở độ tuổi trung
niên (36-55 tuổi). Bên cạnh đó, có một bộ phận đáng kể là những người ở ngoài
độ tuổi lao động (trên 55 tuổi) tham gia vào thị trường lao động này. Theo kết
quả điều tra của IFGS5 2011, có 61,5% người LĐGVGĐ ở độ tuổi 36-55, 23,8%
người lao động ở độ tuổi 35 trở xuống; 14,8% người lao động ở độ tuổi 56 trở
lên. Các kết quả nghiên cứu về giúp việc gia đình tại Việt Nam thời điểm 2015
đều có chung nhận định: lao động giúp việc gia đình chủ yếu là nữ giới. Nhìn
chung, người lao động giúp việc gia đình có trình độ học vấn không cao. Phần
lớn có trình độ từ trung học cơ sở trở xuống. Theo kết quả điều tra tại Hà Nội và
TP. HCM của IFGS, 2011 có 85,7% người lao động có trình độ học vấn THCS
trở xuống. Tỷ lệ người lao động có trình độ tiểu học trở xuống là 31,8%. Tỷ lệ
tương ứng theo điều tra của GFCD, 2012 là 84,6% và 22%. Lao động giúp việc
gia đình là lĩnh vực có sự tham gia của lao động chưa thành niên, trong đó phần
nhiều là nữ giới. Kết quả điều tra của IFGS cho biết trong số 371 người lao động
nữ, có 3% ở độ tuổi 16-186. Tuy là công việc không quá khó nhưng giúp việc gia
đình đòi hỏi người lao động phải có nhiều kỹ năng về các công việc trong gia
4
5
6
Nghề giúp việc gia đình: Nhiều vấn đề cần giải quyết, laodongxanha.net, 2017.
Viện nghiên cứu gia đình và giới (Institute For Family and Gender Studies).
Tình hình Lao động giúp việc gia đình, gfcd.org.vn, 2015.
13
đình. Người lao động hiện nay chưa đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu của
nghề. Theo trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và phát triển cộng đồng cho biết,
LĐGVGĐ có tới hơn 90% của qua đào tạo.
Có thể thấy LĐGVGĐ ở nước ta ngày càng phát triển, nhu cầu về loại lao
động này cũng tăng cao và có những nhìn nhận khác nhau từ xã hội nhưng chưa
đầy đủ. Tuy công việc này bình đẳng như các nghề khác, sự đóng góp cho sự
phát triển của xã hội là đáng kể nhưng nghề này vẫn chưa được nhiều người
trong xã hội xem trọng, và được gắn với tên thường gọi “ Ô Sin”.
2.2. Quy định của pháp luật Việt nam về lao động là người giúp việc gia
đình
Tuy pháp luật lao động hiện nay quy định rất cụ thể về vấn đề LĐGVGĐ. Với
các quy định tại BLLĐ 2012 và các văn bản hướng dẫn đi kèm thì quy định của
vấn đề này đã rất rõ ràng và có những hướng dẫn chi tiết về việc thực hiện.
Nhưng việc thực hiện trên thực tế vần còn rất nhiều khó khăn và bấp cập. Đặc
biệt là các cơ qua có thẩm quyền gặp khó khăn trong vần đề quản lý quan hệ lao
động này.
2.2.1. Về hợp đồng lao động
HĐLĐ là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa người lao động và
người sử dụng lao động. HĐLĐ đối với LĐGVGĐ là sự thỏa thuận giữa người
lao động làm công việc giúp việc giúp cho gia đình với người sử dụng lao động
về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên
trong quan hệ lao động. Sau đây là quy định của pháp luật cũng như yêu cầu về
hợp động lao động đối với người giúp việc.
Thử việc
Trước khi kí kết HĐLĐ, người sử dụng và người lao động có thể thỏa thuận
về việc làm thử, quyền, nghĩa vụ hai bên trong thời gian thử việc và kết thúc thời
gian thử việc theo quy định BLLĐ. Thời gian thử việc không quá 06 ngày làm
việc. Hai bên chỉ được thỏa thuận về việc làm thử đối với công việc thường
xuyên phải làm khi ký HĐLĐ. Tiền lương trong thời gian thử việc bằng 85%
mức lương đã thỏa thuận, trường hợp chưa thỏa thuận được mức tiền thì mức
tiền lương trong thời gian thử việc ít nhất bằng 85% mức lương tối thiểu vùng tại
14
địa bàn nơi người lao động làm việc. Thực tế có rất nhiều trường hợp người sử
dụng lao động vi phạm quy định này như: yêu cầu người LĐGVGĐ thử việc dài
hơn so với quy định 06 ngày như 10 ngày, 15 ngày hay thậm chí là 1 tháng;
không trả lương cho người lao động trong thời gian thử việc; không ký HĐLĐ
bằng văn bản với LĐGVGĐ khi đã hết thời gian thử việc mặc dù vẫn tiếp tục sử
dụng người lao động.
Chủ thể hợp đồng lao động
Theo quy định tại Điều 3 Thông tư 19/2014/TT-BLĐTBXH, người ký HĐLĐ
bên phía người sử dụng LĐGVGĐ là: Chủ hộ; người được chủ hộ hoặc các chủ
hộ ủy quyền hợp pháp; người được các thành viên trong hộ gia đình hoặc các hộ
gia đình ủy quyền hợp pháp. Người ký kết HĐLĐ bên phía người lao động là:
người LĐGVGD từ đủ 18 tuổi trở lên; người LĐGVGĐ từ đủ 15 đến dưới 18
tuổi và có văn bản đồng ý của người đại diện theo pháp luật của người
LĐGVGĐ. Như vậy, pháp luật lao động cho phép trẻ em từ đủ 15 tuổi trở lên có
thể làm LĐGVGĐ nếu công việc đó nhẹ nhàng, phù hợp với lứa tuổi, thời gian
làm việc không vượt quá thời gian quy định của pháp luật.
Hình thức hợp đồng
Theo quy định Nghị định 27/2014/NĐ-CP hợp đồng lao động đối với
LĐGVGĐ bắt buộc phải được lập thành văn bản. Tuy nhiên, các quy định pháp
luật về HĐLĐ với LĐGVGĐ vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc gây tranh cãi và
thiếu khả thi trên thực tế. Trên thực tế, đa số HĐLĐ với LĐGVGĐ được giao kết
bằng lời nói. Bởi vì, phần lớn người LĐGVGĐ là phụ nữ nông thôn, thường lại
chính là những người có quan hệ đồng hương, quan hệ họ hàng với gia đình sử
dụng lao động, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, cộng thêm tâm lý, thói quen giải
quyết các quan hệ bằng tình cảm nên họ không biết hoặc không muốn ký hợp
đồng lao động. Theo khảo sát của GFCD, có trên 90% HĐLĐ là thỏa thuận
miệng giữa người giúp việc và chủ hộ. Khi được hỏi về ý định giao kết HĐLĐ
bằng văn bản thì chỉ có 48,6% LĐGVGĐ có ý định ký hợp đồng bằng văn bản
với người lao sử dụng lao động7.
Nội dung của hợp đồng
7
Trung tâm nghiên cứu giới, gia đình và phát triển cộng đồng (2013), Báo cáo tóm tắt: Tổng quan tình hình lao
động giúp việc gia đình tại Việt nam từ năm 2007 đến nay, Hà Nội.
15
Các nội dung cụ thể phải có trong HĐLĐ được hướng dẫn tại Điều 6 Thông
tư 19/2014/TT-BLĐTBXH gồm: Thông tin cá nhân của các bên ký HĐLĐ; công
việc và địa điểm làm việc; thời hạn của HĐLĐ; tiền lương; tiền thưởng (nếu có);
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; trang bị bảo hộ lao động; bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế; ăn và chỗ ở của người lao động; tiền tàu xe về nơi cư trú khi chấm
dứt HĐLĐ đúng thời hạn; hỗ trợ học nghề, học văn hóa (nếu có); trách nhiệm
bồi thường của người LĐGVGĐ; những hành vi nghiêm cấm. Trên thực tế, hầu
hết HĐLĐ được không được ký bằng hình thức văn bản nếu có được ký bằng
văn bản thì nội dung thường cũng rất sơ sài chủ yếu là nội dung về tiền lương;
công việc và địa điểm làm việc, những nội dung khác ít được người sử dụng lao
động và người lao động ghi nhận trong hợp đồng.
Ký kết hợp đồng
Được quy định tại Điều 5, Nghị định số 27/2014/NĐ-CP nếu người sử dụng
lao động có thuê mướn, sử dụng nhiều lao động là người giúp việc gia đình thì
người sử dụng lao động ký kết HĐLĐ với từng người lao động. Hợp đồng lao
động được lập ít nhất thành 2 bản, mỗi bên giữ một bản. Người sử dụng lao động
có trách nhiệm thông báo với UBND xã, phường, thị trấn nơi người lao động làm
việc về việc sử dụng LĐGVGĐ trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ký HĐLĐ.
Bên cạnh đó để bảo vệ quyền lợi cho những người LĐGVGĐ không biết chữ
Điều 4 Thông tư 19/2014/TT-BLĐTBXH đã nêu rõ về việc ký kết hợp đồng lao
động đối với lao động không biết chữ như sau: người sử dụng lao động đọc toàn
bộ nội dung HĐLĐ để người lao động nghe và thống nhất nội dung trước khi ký
HĐLĐ; người lao động thực hiện ký HĐLĐ bằng hình thức điểm chỉ; trường
hợp cần thiết, người lao động yêu cầu người sử dụng lao động mời người thứ ba
không phải là thành viên của hộ gia đình làm chứng trước khi ký HĐLĐ và trong
hợp đồng phải ghi rõ tên, số chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu, hộ khẩu
thường trú, địa chỉ liên lạc khi cần và chữ ký của người làm chứng.
Chấm dứt hợp đồng lao động
Chấm dứt HĐLĐ là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các
bên theo HĐLĐ đã giao kết. Nghị định 27/2014/NĐ-CP và Thông tư
19/2014/TT-BLĐTBXH quy định cụ thể về căn cứ chấm dứt, nghĩa vụ, trách
nhiệm của các bên khi chấm dứt HĐLĐ. Theo quy định tại Điều 10 Nghị định
16
27/2014/NĐ-CP, HĐLĐ chấm dứt trong các trường hợp sau: hết hạn HĐLĐ; đã
hoàn thành công việc theo HĐLĐ; hai bên thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ; Người
lao động chết; người sử dụng lao động là cá nhân chết; người sử dụng lao động
hoặc người lao động đơn phương chấm dứt HĐLĐ.
Thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Đối với người LĐGVGĐ, khi muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động, họ phải thông báo trước cho người sử dụng lao động 15 ngày, tuy nhiên họ
chỉ cần báo trước 03 ngày trong các trường hợp: người sử dụng lao động vi phạm
hợp đồng (vi phạm về tiền lương, công việc, điều kiện làm việc) hoặc có vấn đề
về sức khỏe. Và họ có thể nghỉ việc mà không cần báo trước khi bị người sử
dụng lao động hoặc thành viên trong hộ gia đình ngược đãi, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm, quấy rối tình dục, dùng vũ lực hoặc cưỡng bức lao động; khi phát
hiện thấy điều kiện làm việc có khả năng đe dọa an toàn, sức khỏe của bản thân,
đã báo cho người sử dụng lao động biết mà chưa được khắc phục; do thiên tai,
hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác mà người lao động đã tìm mọi biện
pháp khắc phục nhưng không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động. Hiện
nay, người LĐGVGĐ tự ý bỏ việc mà không tuân thủ quy định của pháp luật.
Đối với người sử dụng lao động, họ cũng có quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động với người LĐGVGĐ nhưng phải báo trước cho người LĐGVGĐ
15 ngày. Nhưng nếu người LĐGVGĐ vi phạm HĐLĐ hoặc khi họ bị ốm đau
bệnh tật phải điều trị 30 ngày liên tục thì người sử dụng lao động chỉ cần báo
trước 03 ngày. Và không phải báo trước nếu người LĐGVGĐ có những hành vi
sau đây: trộm cắp, đánh bạc, cố ý gây thương tích, có các hành vi ngực đãi, xúc
phạm danh dự nhân phẩm, quấy rối tình dục người sử dụng LĐGVGĐ hoặc các
thành viên trong hộ gia đình; sử dụng các chất gây nghiện, mại dâm; hoặc do các
nguyên nhân như thiên tai, hỏa hoạn và các trường hợp bất khả kháng khác mà
người sử dụng LĐGVGĐ đã tìm mọi cách khắc phục nhưng không thể tiếp tục
thực hiện HĐLĐ.
Trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động khi hợp đồng
lao động chấm dứt
Khi hợp đồng lao động chấm dứt, người sử dụng LĐGVGĐ sẽ có những
trách nhiệm đối với người LĐGVGĐ như sau: thanh toán các khoản liên quan
17
đến quyền lợi của người lao động (tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế);
tiền lương cho những ngày nghỉ hàng năm mà người lao động chưa nghỉ, chi phí
ăn, chỗ ở của người lao động, tiền hỗ trợ học văn hóa, học nghề, các khoản thỏa
thuận khác trong HĐLĐ (nếu có); tiền tàu xe đi đường khi người lao động về nơi
cư trú, trừ trường hợp người lao động làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn và
HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đơn
phương chấm dứt HĐLĐ; trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định của
BLLĐ. Tuy nhiên, hiện nay các quy định này chưa được người sử dụng lao động
thực hiện đầy đủ như: không thanh toán tiền lương cho những ngày nghỉ hàng
năm mà người lao động chưa nghỉ, trợ cấp thôi việc cho người lao động. Thông
thường, khi chấm dứt HĐLĐ, người sử dụng lao động và người lao động chỉ
thỏa thuận thanh toán khoản tiền lương còn thiếu và tiền tàu xe đi đường khi
người lao động về nơi cư trú. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân trong đó có
sự thiếu hiểu biết về pháp luật của người lao động làm cho người sử dụng lao
động có điều kiện vi phạm và ý thức chấp hành pháp luật của các bên.
2.2.2. Về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
Tiền lương
Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động
để thực hiện công việc theo thỏa thuận. Theo đó mức tiền lương sẽ do hai bên
thỏa thuận và ghi trong hợp đồng lao động. Mức tiền lương sẽ bao gồm cả chi
phí ăn, ở của người lao động sống tại gia đình người sử dụng lao động (nếu có,
nhưng không vượt quá 50% mức tiền lương trong hợp đồng lao động) và không
được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng tại nơi người lao động làm việc.
Về hình thức trả lương: người sử dụng lao động có thể thỏa thuận trả lương
cho người lao động theo thời gian (tháng, tuần, ngày, giờ). Thời hạn trả lương do
người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận, thời điểm trả lương cố
định trong ngày, trong tuần hoặc trong tháng và ghi trong hợp đồng lao động.
Người lao động hưởng lương theo giờ, ngày, tuần, tháng thì được trả lương sau
giờ, ngày, tuần, tháng làm việc hoặc trả gộp do hai bên thỏa thuận.
Tiền lương làm thêm được quy định cụ thể Thông Tư 19/2014/TTBLĐTBXH. Người lao động là thêm giờ thì được trả lương ít nhất bằng 150%
tiền lương theo giờ; làm việc vào ngày nghỉ lễ, tết được trả lương ít nhất 300%
18
tiền lương ngày; làm thêm giờ vào ban đêm thì được trả thêm 20% tiền lương
ngày.
Tiền lương tính trả cho ngày nghỉ hằng năm, nghỉ lễ, tết được tính nhau sau:
tiền lương ghi trong HĐLĐ của tháng trước liền kề trước khi người lao động
nghỉ hằng năm, lễ, tết chia cho số ngày làm việc bình thường trong tháng do hai
bên thỏa thuận ghi trong HĐLĐ, nhân với số ngày nghỉ hằng năm, nghỉ lễ, nghỉ
tết của người lao động. Quy định nhằm tạo điều kiện cho người LĐGVGĐ
hưởng được những ngày nghỉ năm, lễ, tết được trọn vẹn về tinh thần củng như
vật chất.
Theo Điều 16 Nghị định 27/2014/NĐ-CP thì tiền lương ngừng việc được quy
định một cách rất dễ hiểu và hợp tình hợp lí. Người sử dụng lao động thanh toán
đầy đủ lương khi người lao động nghỉ việc do lỗi của người sử dụng lao động;
nếu không có lỗi trong việc nghỉ việc của người lao động thì không phải thanh
toàn lương.
Khấu trừ tiền lương, đây là một chế tài rất thiết thực,tăng tính trách nhiệm kỷ
luật cho “người làm” và “chủ nhà”. Tuy để trách sự bất công, lạm dụng quy định
này để người sử dụng LĐGVGĐ thu các khoản tiền vô lí gây ảnh hưởng đến
quyền lợi, thu nhập của người LĐGVGĐ. Quy định khấu trừ lương không quá
30% tiền lương đối với người lao động không sống cùng chủ hộ và không quá
60% tiền lương (khi đã trừ chi phí ăn ở) đối người lao động sống chung với chủ
hộ.
Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
Người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả thêm cùng lúc với kỳ trả
lương của người lao động một khoản tiền tương đương với mức đóng bảo hiểm
xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động
theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế để người lao động
tự lo bảo hiểm. Nhưng thường người lao động không tham gia bảo hiểm.
Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi người lao động bị ốm, bị
bệnh
Trường hợp người lao động sống cùng gia đình người sử dụng lao động bị
ốm, bị bệnh, người sử dụng lao động tạo điều kiện để người lao động nghỉ ngơi,
khám, chữa bệnh. Chi phí khám, chữa bệnh do người lao động chi trả, trừ trường
19
hợp hai bên có thỏa thuận khác. Nhưng ngược lại cũng quy định người sử dụng
lao động không phải trả lương cho những ngày người lao động phải nghỉ việc do
bị ốm, bị bệnh nhằm bảo quyền lợi của người sử dụng lao động.
2.2.3. Về điều kiện làm việc, chế độ sinh hoạt
Về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
Về cơ bản, các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đối với
LĐGVGĐ được quy định tương tự như các trường hợp khác. Để phù hợp với đặc
thù công việc của người LĐGVGĐ pháp luật cho phép hai bên tự thỏa thuận thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tuy nhiên phải đảm bảo người lao động phải
được nghỉ ít nhất 8 giờ, trong đó có 6 giờ liên tục trong 24 giờ. Thời giờ làm việc
đối với lao động chưa thành niên từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi không được quá 08
giờ trong 01 ngày và 40 giờ trong 01 tuần. Mỗi tuần người lao động được nghỉ ít
nhất 24 giờ liên tục. Nhưng trên thực tế, các công việc giúp việc gia đình là
những công việc nhỏ nhặt, không tên có thể diễn ra vào bất kỳ thời điểm nào
trong ngày nên thời gian làm việc của người lao động có thể không kéo dài liên
tục mà xen kẽ giữa thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi, nên khó có thể
phân định rạch ròi. Kết quả khảo sát của GFCD cho thấy tỉ lệ số người giúp việc
thỏa thuận thời gian làm việc với gia chủ là 30,8%, trong đó 61,1% cho biết họ
làm việc nhiều hơn 8 giờ/ngày và 35% số người giúp việc cho rằng họ làm việc
trên 10 giờ trên ngày8. Theo quy định điều 23 Nghị định 27/2014/NĐ-CP nếu
người LĐGVGD làm việc từ đủ 12 tháng trở lên thì sẽ được nghỉ hàng năm 12
ngày được hưởng nguyên lương. Người LĐGVGĐ có thể thỏa thuận với người
sử dụng LĐGVGĐ để nghỉ hàng năm nhiều lần, hoặc nghỉ gộp tối đa 03 năm
một lần. Người LĐGVGĐ được nghỉ làm và hưởng nguyên lương trong các ngày
lễ, tết theo quy định của BLLĐ.
Về an toàn lao động, vệ sinh lao động
Các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với LĐGVGĐ được
quy định tại Điều 24 Nghị định 27/2014/NĐ-CP. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Người sử dụng lao động có trách nhiệm hướng dẫn cách sử dụng
máy, thiết bị, đồ dùng, các biện pháp phòng, chống cháy, nổ trong gia đình có
liên quan đến công việc của lao động là người giúp việc gia đình; thực hiện các
8
Trung tâm Nghiên cứu giới, gia đình và phát triển cộng đồng (2013), Báo cáo tóm tắt: Tổng quan tình hình lao
động giúp việc gia đình tại Việt Nam từ năm 2007 đến nay, Hà Nội.
20
chế độ có liên quan đến bảo đảm an toàn và chăm sóc sức khỏe của lao động là
người giúp việc gia đình.
Thứ hai, Lao động là người giúp việc gia đình có trách nhiệm chấp hành đúng
hướng dẫn sử dụng máy, thiết bị, đồ dùng và phòng, chống cháy, nổ.
Thứ ba, Hằng năm, người sử dụng lao động phải bố trí để người lao động
khám sức khỏe định kỳ, trường hợp cần thiết, người sử dụng lao động yêu cầu
người lao động phải khám sức khỏe, chi phí khám sức khỏe do người sử dụng
lao động chi trả, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác.
Việc khám sức khỏe này được hướng dẫn cụ thể tại Điều 19 Thông tư
19/2014/ TT-BLĐTBXH như sau: Người sử dụng lao động phải bố trí để người
lao động khám sức khỏe định kỳ ít nhất một năm một lần; Trường hợp cần thiết
người sử dụng lao động yêu cầu người lao động thực hiện khám sức khỏe tại cơ
sở y tế do người sử dụng lao động chỉ định; Chi phí khám sức khỏe định kỳ và
khám sức khỏe theo yêu cầu của người sử dụng lao động do người sử dụng lao
động chi trả, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác.
Các quy định về việc khám sức khỏe của người lao động giúp việc gia đình
góp phần đảm bảo sức khỏe cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho họ được khám
chữa bệnh trong quá trình làm việc. Tuy nhiên, các quy định này vẫn chưa được
áp dụng rộng rãi trên thực tế. Bởi vì phần lớn người LĐGVGĐ có trình độ thấp
và không được trang bị tốt các kiến thức về pháp luật, nên họ không biết được
các quyền lợi mà họ đáng được nhận. Và người sử dụng lao động cũng lợi dụng
sự không hiểu biết của người LĐGVGĐ mà tước đi quyền lợi đáng ra họ phải
được hưởng.
Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi người lao động bị tai nạn lao
động
Khi người lao động bị tai nạn lao động, người sử dụng lao động có trách
nhiệm là cấp cứu kịp thời và điều trị chu đáo; thông báo cho người thân của
người lao động biết; thực hiện trách nhiệm của người sử dụng lao động theo quy
định của BLLĐ; Khai báo và phối hợp với cơ quan chức năng có thẩm quyền để
điều tra tai nạn lao động theo quy định của pháp luật. Và hơn nữa người sử dụng
lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao
- Xem thêm -