ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
TRẦN MAI THANH HẰNG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VỀ ĐỀ TÀI THẾ SỰ
QUA BIỂN VÀ CHIM BÓI CÁ CỦA BÙI NGỌC TẤN
VÀ GÃ TÉP RIU CỦA NGUYỄN BẮC SƠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------
TRẦN MAI THANH HẰNG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VỀ ĐỀ TÀI THẾ SỰ
QUA BIỂN VÀ CHIM BÓI CÁ CỦA BÙI NGỌC TẤN
VÀ GÃ TÉP RIU CỦA NGUYỄN BẮC SƠN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Lê Thị Dục Tú
Hà Nội - 2015
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 5
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 10
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 10
5. Đóng góp của luận văn................................................................................ 10
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 11
CHƢƠNG 1: ĐỀ TÀI THẾ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
VÀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA TIỂU THUYẾT BIỂN VÀ CHIM BÓI CÁ
(BÙI NGỌC TẤN) VÀ GÃ TÉP RIU (NGUYỄN BẮC SƠN) TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI ............................................... 12
1.1 Đề tài thế sự trong tiểu thuyết Việt Nam .............................................. 12
1.1.1 Khái niệm đề tài văn học....................................................................... 12
1.1.2 Những loại đề tài chủ yếu trong tiểu thuyết Việt Nam .......................... 15
1.1.3 Sự trỗi dậy của đề tài thế sự trong tiểu thuyết Việt Nam ....................... 18
1.2 Sự xuất hiện của tiểu tuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn và
Gã tép riu của Nguyễn Bắc Sơn .................................................................... 21
1.2.1 Biển và chim bói cá – tiểu thuyết xuất sắc của Bùi Ngọc Tấn .............. 21
2.1.2 Gã tép riu – tiểu thuyết hấp dẫn của Nguyễn Bắc Sơn............................... 24
CHƢƠNG 2: BỨC TRANH THẾ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT BIỂN VÀ
CHIM BÓI CÁ CỦA BÙI NGỌC TẤN VÀ GÃ TÉP RIU CỦA NGUYỄN
BẮC SƠN ....................................................................................................... 29
2.1 Tiểu thuyết Biển và chim bói cá – bức tranh xã hội thời bao cấp....... 29
2.1.1 Vấn đề kinh tế - xã hội thời bao cấp ...................................................... 29
2.1.2 Các vấn đề nhân sinh.............................................................................. 36
2.2 Tiểu thuyết Gã tép riu – bức tranh xã hội thời kỳ đổi mới .................. 49
2.2.1 Vấn đề cơ chế nhà nước ......................................................................... 49
1
2.2.2 Các vấn đề xã hội thời kỳ mở cửa .......................................................... 54
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN ĐỀ TÀI THẾ SỰ TRONG
TIỂU THUYẾT BIỀN VÀ CHIM BÓI CÁ CỦA BÙI NGỌC TẤN VÀ GÃ
TÉP RIU CỦA NGUYỄN BẮC SƠN .......................................................... 67
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ........................................................... 67
3.1.1 Cốt truyện song hành ............................................................................. 67
3.1.2 Cốt truyện lồng ghép .............................................................................. 70
3.1.3 Cốt truyện liền mạch, tuyến tính ............................................................ 72
3.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật ............................................................... 74
3.2.1 Khắc họa nhân vật thông qua ngoại hình ............................................... 75
3.2.2 Khắc họa nhân vật thông qua nội tâm .................................................... 78
3.3 Ngôn ngữ trần thuật................................................................................ 83
3.3.1 Ngôn ngữ mang đặc thù nghề nghiệp .................................................... 84
3.3.2 Ngôn ngữ mang tính chất chính trị - xã hội ........................................... 85
3.3.3 Ngôn ngữ thông tục, hài hước ................................................................ 87
3.4 Giọng điệu trần thuật.............................................................................. 90
3.4.1 Giọng hài hước giễu nhại ....................................................................... 91
3.4.2 Giọng tỉnh táo, khách quan .................................................................... 95
3.4.3 Giọng triết lý, suy tư .............................................................................. 97
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 101
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiểu thuyết là thể loại lớn tiêu biểu cho loại hình tự sự, “cỗ máy cái”
của nền văn học hiện đại. Với đặc trưng thi pháp của mình, bằng phương thức
trần thuật, tiểu thuyết đã chiếm lĩnh và khái quát hiện thực cuộc sống một
cách đa chiều và phong phú. Tiểu thuyết Việt Nam nói chung, tiểu thuyết Việt
Nam đương đại nói riêng không nằm ngoài đặc trưng ấy. Cuộc đổi mới toàn
diện bắt đầu từ 1986 mang đến cho đất nước một luồng sinh khí mới, và văn
học – một bộ phận của thượng tầng kiến trúc cũng như được tiếp thêm nguồn
sức sống mới, thay da đổi thịt. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại từ 1986 đến
nay đã gặt hái được nhiều thành công cả về tư duy nghệ thuật lẫn phương thức
thể hiện. Nhìn chung, tiểu thuyết thời đổi mới đã có sự thay đổi rõ rệt về quan
niệm nghệ thuật, cách thức miêu tả và tái hiện thế giới, cách xác lập hệ ngôn
ngữ tự sự của nhà văn. Nếu như văn học giai đoạn 1945 – 1975 là giai đoạn
văn học mang tính sử thi thì văn học sau 1975, nhất là văn học sau 1986 có
thể coi là giai đoạn văn học mang cảm hứng thế sự - đời tư. Cuộc sống thời
hậu chiến đặt ra những vấn đề mới mẻ đòi hỏi nhà văn phải tham gia giải
quyết bằng cách riêng của mình. Đề tài thế sự trở thành một đề tài hấp dẫn của
tiểu thuyết, là mảnh đất đầy hứa hẹn cho các nhà văn khám phá. Đầu tiên phải
kể đến những tên tuổi từng sáng tác khá vững vàng ở giai đoạn trước đó như
Ma Văn Kháng, Lê Lựu…, tiếp đó là lớp nhà văn trưởng thành sau cuộc chiến
như Hồ Anh Thái, Dương Hướng, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Võ
Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ…. Cùng chung xu thế vận động đó, các nhà
văn “cấp tiến” như Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Bắc Sơn cũng luôn nỗ lực làm mới
mình với ý thức sáng tạo không ngừng. Không chịu đóng khung với những đề
tài cũ mòn, Bùi Ngọc Tấn và Nguyễn Bắc Sơn – hai cây bút văn xuôi tiêu
biểu của văn học Việt Nam đương đại – đã tìm cho mình một lối đi riêng với
đề tài thế sự và đã gặt hái được những thành công đáng ghi nhận. Biển và
chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn và Gã tép riu của Nguyễn Bắc Sơn – hai tác
phẩm tưởng như xa nhau về thời gian, khác nhau về không gian nghệ thuật
3
nhưng lại gặp gỡ nhau trong một mạch cảm hứng chung là đề tài thế sự đã cho
ta thấy tính hấp dẫn cũng như sự phát triển mạnh mẽ của đề tài thế sự trong
tiểu thuyết thời kỳ đổi mới. Tìm hiểu Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn
và Gã tép riu của Nguyễn Bắc Sơn trên phương diện đề tài thế sự giúp ta có
cái nhìn tổng quan về tiểu thuyết đương đại nói riêng, về văn học Việt Nam
sau 1975 nói chung.
Nếu như Bùi Ngọc Tấn thuộc đội ngũ nhà văn trước 1975, từng lăn lộn
với nghề báo, sau đó viết văn, thì Nguyễn Bắc Sơn trước khi kinh qua nghề
cầm bút đã từng là một nhà giáo, một nhà quản lý giáo dục, báo chí xuất bản.
Nếu như Bùi Ngọc Tấn viết văn khi mới tròn 20 tuổi, được xem là một nhà
văn kỳ cựu, một người mà cuộc đời gặp nhiều trắc trở, từng dính vào vòng lao
lý cũng bởi nghiệp văn chương thì Nguyễn Bắc Sơn lại là một con người từng
trải, tha thiết với cuộc đời tuy đến với nghiệp văn chương khá muộn, khi đã
chín về tuổi đời nhưng trẻ về tuổi nghề. Người ta vẫn gọi Nguyễn Bắc Sơn với
cái tên âu yếm: “nhà văn trẻ tóc bạc”. Biển và chim bói cá là tác phẩm đánh
dấu sự trở lại của Bùi Ngọc Tấn sau 20 năm ngừng bút, là kết tinh vốn sống
của nhà văn qua bao năm tháng nếm trải mọi bầm dập của cuộc đời, của số
phận, của nghề nghiệp… còn Gã tép riu nằm trong bộ ba tiểu thuyết gây được
tiếng vang và sự chú ý lớn gần đây của Nguyễn Bắc Sơn: Luật đời và cha con
– Lửa đắng – Gã tép riu. Tác phẩm nằm trong mạch chung của đề tài chính trị
- xã hội – đề tài sở trường của ông. Một tác phẩm viết về thời kỳ cuối bao cấp,
một tác phẩm viết về thời kỳ đổi mới, một tác phẩm kể về câu chuyện tan rã
của một công ty quốc doanh đánh cá biển, tác phẩm kia lại là bức tranh về đời
sống công chức trong xã hội hiện đại với tất cả những mặt trái, bất cập của
nó…hai tác phẩm tưởng chừng như không liên quan gì nhau từ không gian,
thời gian nghệ thuật tới đối tượng miêu tả…nhưng lại gặp nhau ở một điểm
chung là đã dựng lên một bức tranh thế sự chân thực về cuộc sống, về con
người. Cùng với đó là những thành tựu về mặt hình thức thể hiện như cốt
truyện, nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu… Với mong muốn đi sâu khám phá
những nét nổi bật nhất trên phương diện nội dung, nghệ thuật tiểu thuyết Biển
4
và chim bói cá và Gã tép riu trên cái nền chung của tiểu thuyết thế sự Việt
Nam, đồng thời tìm hiểu thêm về tài năng, cá tính sáng tạo của Bùi Ngọc
Tấn và Nguyễn Bắc Sơn, chúng tôi lựa chọn đề tài: Tiểu thuyết Việt Nam
về đề tài thế sự qua Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn và Gã tép riu
của Nguyễn Bắc Sơn làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình, qua đó đóng
góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu những thành tựu cũng như sự
vận động của tiểu thuyết đương đại Việt Nam trong tiến trình đổi mới của
văn học Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Khi nghiên cứu về tiểu thuyết Việt Nam đương đại, các công trình
nghiên cứu hiện nay thường khảo sát, đánh giá những đóng góp, cách tân của
tiểu thuyết trên phương diện hình thức thông qua việc vận dụng các lý thuyết
về ký hiệu học, thi pháp học, phân tâm học… Đây là một hướng đi mới mẻ và
mang lại không ít hiệu quả. Tuy nhiên một tác phẩm văn học là sự tổng hòa
của hai mặt nội dung và hình thức, hình thức biểu đạt nội dung và nội dung
làm sáng tỏ hình thức. Nghiên cứu tác phẩm trên phương diện nội dung tư
tưởng do đó là việc làm cần thiết. Chú ý đến khía cạnh đề tài của tiểu thuyết –
một trong ba loại hình nội dung chủ yếu – là một hướng nghiên cứu giàu tiềm
năng, mang lại cái nhìn toàn diện về thể loại này. Trong số đó, đề tài thế sự là
đề tài được chú ý nhiều nhất trong văn học thời kỳ đổi mới.
Nguyễn Bích Thu khi nghiên cứu về Ý thức cách tân trong tiểu thuyết
Việt Nam sau 1975 đã nhận định: “trên phương diện đề tài, tiểu thuyết thời kỳ
đổi mới đã tiếp cận và khai thác sâu hơn vào cái hiện thực hàng ngày, cái hiện
thực của đời sống cá nhân. Các nhà tiểu thuyết nhìn thẳng vào những mảnh
vỡ, những bi kịch nhân sinh, mổ xẻ, phơi bày nó bằng cái nhìn trung thực, táo
bạo. Các đề tài truyền thống hay hiện đại đều được đưa vào trường nhìn mới,
hướng những gấp khúc trong đường đời và thân phận con người thấm đẫm
cảm hứng nhân văn”. Theo đó, văn học đổi mới là giai đoạn văn học chuyển
từ tư duy sử thi sang tư suy tiểu thuyết, từ cảm hứng lịch sử dân tộc sang cảm
5
hứng thế sự đời tư. Các nhà tiểu thuyết đã phá vỡ cái nhìn đơn phiến để tạo ra
cái nhìn phức diện và sâu sắc hơn về cuộc sống, về con người.
Lê Hồ Quang trong bài Cảm hứng thế sự trong truyện ngắn Lê Minh
Khuê đã viết: “Đến những năm 80 của thế kỷ XX, sau những lúng túng tìm
đường, nhiều nhà văn thế hệ chống Mỹ đã nhanh chóng bứt ra khỏi từ trường
của khoảng chân không văn học để tiếp tục dấn bước sáng tạo… Cảm hứng sử
thi dần được thay thế bằng cảm hứng nhân sinh, thế sự. Với nhu cầu nhận
thức lại hiện thực, thay cho cái nhìn đơn tuyến và đậm chất lý tưởng trước đây
là một cái nhìn đa chiều, gai góc, đậm tính phê phán”. Qua đó cho ta thấy sự
xuất hiện của cảm hứng thế sự trong các sáng tác đương đại là một tất yếu
logic – lịch sử.
Trong bài viết Sự vận động và phát triển của các thể văn xuôi trong
văn học thời kỳ đổi mới, nhà phê bình Lý Hoài Thu đã đánh giá sự vận động
của từng thể loại trong điều kiện lịch sử mới, trong đó có tiểu thuyết. Tác giả
cho rằng: “Không phải ngẫu nhiên mà đề tài thế sự, đời tư nổi lên như một
vấn đề trung tâm của mọi nỗ lực sáng tạo trong tiểu thuyết đương đại. Ngay cả
những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh, đề tài nông thôn với quy mô hiện
thực rộng lớn, nhiều tầng, nhiều mảng, nhà văn vẫn xoáy sâu vào những vấn
đề cốt yếu của đời sống thông qua tâm điểm nhân vật. Những vui buồn, sướng
khổ, được mất…của con người đã đi vào văn chương một cách chân thực,
nhân bản và giàu tính hướng thiện”
Mai Hải Oanh trong công trình Những cách tân nghệ thuật trong tiểu
thuyết đương đại Việt Nam đã trình bày một cách hệ thống những cách tân của
tiểu thuyết Việt Nam đương đại trên các phương diện nội dung, nghệ thuật và
khẳng định: “Tiểu thuyết thời đổi mới đã có những thay đổi đáng kể về tư duy
nghệ thuật. Biểu hiện cụ thể là các nhà văn đã chú ý đến tính văn xuôi như
một đặc điểm quan trọng của tư duy tiểu thuyết hiện đại, sự phai giảm của yếu
tố sử thi và sự gia tăng của các yếu tố thế sự, đời tư”.
6
Như vậy có thể thấy những công trình nghiên cứu ở trên đây đã phần
nào cho thấy được sự đổi thay trong hệ thống đề tài, chủ đề, cảm hứng của
tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Ý thức thẩm mỹ mới, cảm quan hiện thực
mới đã ra đời và chi phối rất lớn đến sự lựa chọn đề tài của văn học.
Về những công trình nghiên cứu trực tiếp xung quanh hai cuốn tiểu
thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc tấn và Gã tép riu của Nguyễn Bắc
Sơn, chúng tôi tìm thấy bài viết Biển và chim bói cá – sử thi của thời hiện đại
của tác giả Khánh Phương. Trong bài viết, tác giả đã đưa ra những khái quát
hết sức ngắn gọn nhưng đầy đủ, sâu sắc về cuốn tiểu thuyết của Bùi Ngọc
Tấn: “cuốn tiểu thuyết đồ sộ tập trung vào khoảng hai mươi nhân vật, được
miêu tả như những hình tượng đa phương, có phần lỏng lẻo trong một tác
phẩm sắp đặt của loại hình nghệ thuật thị giác, nói bằng thứ ngôn ngữ trực
quan của mồ hôi, nước mắt, máu và cả tiếng thở dài…với vài chục chi tiết lớn
nhỏ, chi tiết nào cũng hóm hỉnh khiến người đọc phải bật cười tức khắc hoặc
lay động cảm giác sâu kín của lòng trắc ẩn, lương tri”. Còn Nguyễn Xuân
Khánh trong bài viết Sum suê và khúc khích thì cho rằng: “Ở cuốn sách trước
Bùi Ngọc tấn đã dẫn ta vào sự oan trái bi thương. Nhưng thế giới của Tấn
không chỉ có vậy. Lần này, với cuốn tiểu thuyết Biển và chim bói cá, anh đã
dẫn chúng ta ra đại dương bao la. Thời gian xảy ra trong cuốn sách là cuối
thời gian bao cấp, và chớm vào thời kỳ đổi mới. Với không gian, thời gian ấy,
chắc cuộc viễn du của người đọc sẽ gặp nhiều điều thú vị”. Trong Lời tuyên
dương Biển và chim bói cá của ông Francois Bourgeon, chủ tịch danh dự
Festival Sách và Biển của Pháp năm 2012 có đoạn: “Bùi Ngọc Tấn tặng chúng
ta một quyển tiểu thuyết nhân văn… Tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn là cuốn
sách không thể nào quên. Thậm chí có lẽ là…một quyển tiểu thuyết làm người
ta tốt hơn”. Với những thành công đã đạt được, những lời tuyên dương ấy
dành cho Biển và chim bói cá chúng tôi nghĩ là hoàn toàn xứng đáng.
Bên cạnh những bài viết đã được đăng tải trên các sách, báo, tạp chí,
website, chúng tôi còn tìm thấy những luận văn, luận án, những công trình
nghiên cứu chuyên sâu về cuốn tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc
7
Tấn. Tác giả Đinh Đức Long trong luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ Văn: Đặc
điểm văn xuôi hư cấu sau 1990 của Bùi Ngọc Tấn (2012) đã đưa ra được cái
nhìn tổng quan về những đặc sắc trong nội dung – nghệ thuật văn xuôi Bùi
Ngọc Tấn, nhấn mạnh vào hai yếu tố là thế giới nhân vật và nghệ thuật trần
thuật, trong đó khẳng định Biển và chim bói cá là tác phẩm viết về những con
người của thời bao cấp tan rã. Nguyễn Thị Bích Vân trong luận văn Thạc sĩ
Ngữ văn Đặc điểm văn xuôi Bùi Ngọc Tấn qua Biển và chim bói cá và Người
chăn kiến đã phát hiện ra những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật
văn xuôi Bùi Ngọc Tấn qua hai tác phẩm. Ngoài ra còn nhiều những công
trình nghiên cứu công phu có chất lượng khác như Đặc điểm tiểu thuyết Biển
và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn, Nghệ thuật tự sự trong Biển và chim bói
cá… Nhìn chung những công trình này đã phần nào khái quát được đặc điểm
về tư tưởng và nghệ thuật của tiểu thuyết Biển và chim bói cá, qua đó thấy
được phong cách sáng tác của nhà văn.
Về cuốn tiểu thuyết Gã tép riu của Nguyễn Bắc Sơn, cũng đã có không
ít những công trình nghiên cứu dành cho tác phẩm này. Tác giả Đặng Văn
Sinh trong bài viết Gã tép riu, văn hóa, tình dục và tình yêu đã có những bình
luận rất xác đáng: “Gã tép riu thực chất là một tiểu thuyết luận đề bàn về
những bất cập của nền văn hóa đương đại”. Cuốn tiểu thuyết “không mới về
hình thức mà ở nội dung. Tác giả đã đóng góp một tiếng nói trung thực, chân
thành và dũng cảm vào hành trình tiến đến tương lai của dân tộc qua con
đường văn hóa bằng hình tượng văn học”. Trong bài viết Vì sao Gã tép riu
hấp dẫn đăng trên tapchinhanvan.vn, tác giả Nguyên Long Khánh đã đánh giá
cao nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Bắc Sơn: “Người đọc có thể dễ
dàng nhận ra trong đội ngũ nhân vật của ông bóng dáng số phận của những
con người có thật ngoài đời. Cuộc sống và trang sách nhiều khi không còn
khoảng cách. Bởi thế, tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn thường rất hấp dẫn.
Hấp dẫn cũng bởi nó rất thật. Mê hoặc người đọc mà không dùng đến son
phấn đâu có dễ. Đấy là cái tài của Nguyễn Bắc Sơn, cũng là đóng góp rất cần
được ghi nhận của ông trong văn học đương đại”. Nhà nghiên cứu Bùi Việt
8
Thắng trong bài viết Bi kịch lạc quan thì khẳng định: sức cuốn hút của tác
phẩm không chỉ toát lên từ “hơi thở của đời sống đương đại” với “một cuộc
sống đầy những ngẫu nhiên và bất thường, bất trắc” mà còn ở những nhân vật
sắc nét như Diệu Thủy, Tùng và Dự. Tác giả Vương Thúy Hòa trong luận văn
Thạc sĩ khoa học Ngữ Văn: Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc
Sơn lại đi vào phân tích những nét nổi bật trong nghệ thuật tự sự Nguyễn Bắc
Sơn qua các phương diện: nghệ thuật tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật,
người kể chuyện, ngôn ngữ, giọng điệu…thể hiện qua hai cuốn tiểu thuyết
Luật đời và cha con và Lửa đắng. Tác giả Phạm Thị Hồng Nhung trong công
trình nghiên cứu Thể tài thế sự trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (khảo sát
qua tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn) đã khám phá được những đặc trưng cơ
bản nhất của thể tài thế sự trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại mà Nguyễn
Bắc Sơn là một đại diện tiêu biểu. Người viết nhấn mạnh: “chúng tôi nhận
thấy nhà văn đã vẽ ra trước mắt chúng ta một bức tranh thế sự phức tạp, sinh
động, nhiều màu sắc với những mảng mầu sáng tối khác nhau về những vấn
đề nóng bỏng của cuộc sống hiện đại…Không chỉ chăm chỉ quan sát, phản
ánh và lý giải hiện thực nhà văn còn luôn tìm cách diễn đạt hấp dẫn để đưa
đến cho người đọc những tác phẩm có giá trị như Luật đời và cha con, Lửa
đắng, Gã tép riu.
Như vậy các công trình nghiên cứu, bài viết trên đây đã phần nào chỉ ra
được xu hướng chung trong sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam đương đại
cũng như khái quát được những nét cơ bản nhất trong phong cách nghệ thuật
Bùi Ngọc Tấn và Nguyễn Bắc Sơn qua Biển và chim bói cá và Gã tép riu. Tuy
nhiên các ý kiến, nghiên cứu đó chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những nét lớn về
tư tưởng và nghệ thuật của hai tác phẩm chứ không đi sâu tìm hiểu một khía
cạnh quan trọng của nội dung là đề tài tác phẩm trong sáng tác của cả hai nhà
văn Bùi Ngọc Tấn và Nguyễn Bắc Sơn. Để bổ sung vấn đề còn bỏ ngỏ đó,
cũng như đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu tiểu thuyết Bùi
Ngọc Tấn và Nguyễn Bắc Sơn trong bức tranh chung của tiểu thuyết đương
đại Việt Nam, chúng tôi triển khai đề tài luận văn Tiểu thuyết Việt Nam về đề
9
tài thế sự qua Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn và Gã tép riu của
Nguyễn Bắc Sơn, trong đó nhấn mạnh vào phương diện đề tài thế sự, lấy đó
làm mục tiêu triển khai cho luận văn này.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đề tài thế sự trong hai tiểu thuyết
Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn và Gã tép riu của Nguyễn Bắc Sơn qua
đó có được cái nhìn khái quát về đề tài thế sự trong tiểu thuyết Việt Nam nói
chung.
Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: chúng tôi tập trung nghiên cứu về đề tài thế
sự trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
- Đối tượng khảo sát: Các tác phẩm mà luận văn chọn làm đối tượng
khảo sát là tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn và Gã tép
riu của Nguyễn Bắc Sơn
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết tốt nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chọn lựa một
số phương pháp sau:
- Phương pháp so sánh – đối chiếu
- Phương pháp thống kê – phân loại
- Phương pháp hệ thống – loại hình
- Phương pháp phân tích – tổng hợp
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về một khía cạnh
nội dung tác phẩm văn học là đề tài, cụ thể là đề tài thế sự trong tiểu thuyết
đương đại Việt Nam, mà tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn và
Gã tép riu của Nguyễn Bắc Sơn là hai đại diện tiêu biểu. Qua đó mang tới cái
nhìn rõ nét, toàn diện hơn về hai cuốn tiểu thuyết nói riêng, về sự vận động
của thể loại tiểu thuyết nói chung
10
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc học tập bộ môn Lý luận văn học, Văn học Việt Nam hiện đại và giảng
dạy văn học trong nhà trường
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba chương
Chương 1: Đề tài thế sự trong tiểu thuyết Việt Nam và sự xuất hiện của
tiểu thuyết Biển và chim bói cá (Bùi Ngọc Tấn) và Gã tép riu (Nguyễn Bắc
Sơn) trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
Chương 2: Bức tranh thế sự trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá của
Bùi Ngọc Tấn và Gã tép riu của Nguyễn Bắc Sơn
Chương 3: Phương thức thể hiện đề tài thế sự trong tiểu thuyết Biển và
chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn và Gã tép riu của Nguyễn Bắc Sơn
Và cuối cùng là danh mục Tài liệu tham khảo
11
CHƢƠNG 1: ĐỀ TÀI THẾ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM VÀ
SỰ XUẤT HIỆN CỦA TIỂU THUYẾT BIỂN VÀ CHIM BÓI CÁ (BÙI
NGỌC TẤN) VÀ GÃ TÉP RIU (NGUYỄN BẮC SƠN) TRONG TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1 Đề tài thế sự trong tiểu thuyết Việt Nam
1.1.1 Khái niệm đề tài văn học
Trong lý luận văn học, đề tài là một khái niệm hết sức quan trọng.
Cùng với khái niệm chủ đề, nó góp phần chủ yếu thể hiện phương diện khách
quan của nội dung tác phẩm văn học. Văn học nhận thức và thể hiện cuộc
sống. Đời sống là nơi xuất phát của văn học, là nguồn tư liệu phong phú, vô
cùng vô tận cho các nhà văn khai thác. Trong cái bao la đó, tùy theo vốn sống,
sở trường và niềm quan tâm của riêng mình, tùy theo những đòi hỏi của thời
đại mình, nhà văn thường hướng về một phạm vi nhất định của hiện thực
khách quan, lấy phạm vi ấy làm cơ sở cho lao động sáng tạo. Phạm vi ấy
chính là đề tài.
Như vậy, phạm vi cuộc sống mà nhà văn miêu tả trong tác phẩm văn
học gọi là đề tài.
Cụ thể hơn, đề tài của tác phẩm là lĩnh vực đời sống mà tác phẩm phản
ánh, là bộ phận của hiện thực khách quan được nhà văn chọn lựa để khai thác,
khái quát tài liệu, từ đó xây dựng nên tác phẩm. Nói một cách vắn tắt, chỉ ra
đề tài của tác phẩm tức là chỉ ra tác phẩm ấy miêu tả cái gì, viết về cái gì? Mỗi
nhà văn tuy viết nhiều, nhưng thường quen thuộc một số đề tài nhất định,
nghĩa là cuộc sống thì trăm hình muôn vẻ nhưng nhà văn chỉ khai thác một
mặt nào đó mà họ thành thuộc, am hiểu và thiết tha thể hiện. Sáng tác của
Nam Cao xoay quanh hai đề tài: đời sống nông dân và những người tiểu tư
sản trí thức (Chí Phèo, Lão Hạc, Sống mòn, Trăng sáng…); Tô Hoài, Nguyên
Ngọc hiểu sâu kỹ những cảnh, những người miền núi (Truyện Tây Bắc, Đất
nước đứng lên, Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng…); còn Võ Huy Tâm sống
nhiều ở vùng mỏ nên thường hướng đến thể hiện những việc, những người ở
những vùng than, vỉa than (Vùng mỏ, Những người thợ mỏ…).
12
Tầm quan trọng của khái niệm đề tài là ở chỗ, nếu chưa nhận ra đề tài,
thì chưa bước vào tiếp nhận hình tượng. Tuy nhiên từ hiện tượng nghệ thuật
sinh động nhận ra đối tượng được phản ánh trong tác phẩm không phải là một
việc dễ dàng. Chúng ta lấy một ví dụ hội họa: đề tài bức tranh Đức mẹ của
Raphaen chẳng hạn. Về đề tài bức tranh này, có nhiều cách hiểu khác nhau.
Có ý kiến cho rằng nhân vật trong bức tranh là người đàn bà quý tộc, dựa trên
thái độ nghiêm trang, kiêu hãnh của người mẹ và đứa bé. Ý kiến thứ hai dựa
vào trang phục giản dị cho rằng đó là người đàn bà thôn quê. Ý kiến thứ ba lại
cho rằng đó là người mẹ bình thường mang niềm tự hào kiêu hãnh trần tục.
Như vậy, với ba đề tài khác nhau, ta có ba hình tượng khác nhau. Bản thân
việc nhận ra đề tài quyết định đến hình tượng của bức tranh như thế nào.
Tầm quan trọng của việc xác định đề tài còn ở chỗ góp phần giúp
chúng ta khái quát phong cách nghệ thuật của nhà văn. Bởi vì trong sáng tác,
nhà văn bao giờ cũng hướng về những lĩnh vực đời sống mà mình thích thú và
quen thuộc nhất, hướng về những hiện tượng đời sống mà mình thực sự xúc
động để sáng tạo nên tác phẩm, do đó sự quan tâm đến những đặc điểm của đề
tài trong hàng loạt tác phẩm giúp chúng ta tìm hiểu một số phương diện thuộc
thế giới nghệ thuật của nhà văn cũng như phần nào khái quát được phong cách
nghệ thuật của nhà văn đó.
Sự khảo sát tác phẩm ở phương diện đề tài còn là cơ sở quan trọng để
chúng ta hình dung nhìn nhận và đánh giá các trào lưu văn học cũng như nền
văn học của cả một thời kỳ lịch sử. Nhìn vào các trào lưu văn học, các phương
pháp sáng tác đã tồn tại trong lịch sử chúng ta dễ dàng nhận ra mỗi trào lưu và
phương pháp sáng tác thường có những đề tài cơ bản của mình. Hiện tượng đó
càng thêm nổi bật khi chúng ta so sánh hệ thống đề tài khác nhau của các trào
lưu văn học và phương pháp sáng tác cùng tồn tại ở một giai đoạn văn học. Sự
khác biệt rõ rệt về đề tài giữa các tác phẩm của ba dòng văn học lãng mạn,
hiện thực và cách mạng ở giai đoạn 1930 – 1945 trong văn học Việt Nam là
một ví dụ.
13
Đề tài văn học cũng có những giới hạn phạm vi rộng hẹp khác nhau.
Đó có thể là một giới hạn bề ngoài như đề tài loài vật, đề tài sản xuất, đề tài
kháng chiến chống Mỹ, đề tài bộ đội Trường Sơn, đề tài tiểu tư sản, đề tài
nông dân… Tuy nhiên đối tượng nhận thức của văn học là cuộc sống, con
người với tính cách, số phận và quan hệ nhân sinh phức tạp của nó. Do đó cần
đi sâu vào phương diện bên trong của đề tài. Đó là cuộc sống nào, con người
nào được miêu tả trong tác phẩm. Tác phẩm Tắt đèn thể hiện cuộc sống bế tắc
tan vỡ của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Sống mòn của Nam
Cao thể hiện cuộc sống quẫn bách mỏi mòn của tầng lớp trí thức nghèo. Đề tài
Ơgiêni Grăngđê là tấn bi kịch gia đình tư sản trong thời kỳ tích lũy tư bản chủ
nghĩa. Đề tài Thép đã tôi thế đấy là cuộc sống anh hùng của thế hệ thanh niên
Xô Viết những năm sau Cách mạng tháng Mười. Mỗi nhân vật trong tác phẩm
cũng đều có thể tiêu biểu cho một đề tài. Chị Dậu là một nông dân, vì suất sưu
của chồng và em chồng mà chồng chị bị đánh, bị trói, con chị bị bán, bản thân đi
ở vú còn chịu bao nỗi tủi nhục, tiền đồ của chị “tối đen như mực” ở cuối tác
phẩm… thì đề tài tác phẩm là số phận bi thảm của người nông dân ta trước Cách
mạng. Nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là người con gái tài sắc vẹn
toàn nhưng vì tình thế bắt buộc phải bán mình chuộc cha, thân phận lưu lạc suốt
mười lăm năm trời chịu đựng biết bao khổ đau bầm dập, lúc làm kỹ nữ, lúc là
con ở, khi lại làm lẽ, khi thành ni cô…cuối cùng phải tự tử ở sông Tiền Đường
thì đề tài chủ yếu của tác phẩm là số phận bất hạnh của người tài hoa, người
phụ nữ trong xã hội cũ.
Khái niệm đề tài cũng được chia ra làm nhiều loại, gọi là loại đề tài.
Khái niệm loại của đề tài gắn liền với loại hiện tượng lịch sử xuất hiện trong
đời sống. Chẳng hạn, có thể bắt gặp loại đề tài về số phận người chinh phụ,
cung nữ, người tài hoa trong sáng tác của Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều,
Nguyễn Du khoảng cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Thơ văn Nguyễn Đình
Chiểu nổi lên loại đề tài những người trung nghĩa. Văn học Nga thế kỷ XIX
hình thành loại đề tài về những “con người thừa”, đề tài những người tháng
14
Chạp, đề tài những người hư vô chủ nghĩa, đề tài con người nhỏ bé, đề tài
phàm tục tiểu tư sản…
Tóm lại, đề tài là cơ sở để nhà văn khái quát những chủ đề, xây dựng
những hình tượng, những tính cách điển hình. Việc xác định đề tài cho phép
liên hệ nội dung tác phẩm với một mảnh đời sống nhất định của thực tại. Đề
tài có thể nói là cửa ngõ quan trọng để người đọc đến với thế giới nghệ thuật
mà nhà văn vẽ nên trong trang sách.
1.1.2 Những loại đề tài chủ yếu trong tiểu thuyết Việt Nam
Trong chiến tranh, nền văn học luôn cùng chung vận mệnh và đồng
hành cùng dân tộc qua những thăng trầm của lịch sử. Khi hòa bình lập lại,
nhất là từ đầu những năm 80 trở đi, văn học có nhiều biến đổi sâu rộng. Trong
quá trình vận động và cách tân văn học, tiểu thuyết là thể loại được quan tâm
nhiều nhất. Từ sự cách tân về hình thức nghệ thuật đến sự đổi mới về nội dung
đề tài, tiểu thuyết Việt Nam đang dần hòa nhập vào quỹ đạo văn chương thế
giới.
Một khuynh hướng nổi bật trong tiểu thuyết Việt Nam những năm
sau giải phóng là xông thẳng vào thực tại, trực tiếp viết về các vấn đề sản
xuất, quản lý kinh tế - xã hội, vấn đề đội ngũ tri thức trẻ trước vận hội mới
chiếm một số lượng lớn các tác phẩm được in trong vòng một phần tư thế
kỷ sau khi đất nước hòa bình và thống nhất. Người ta gọi là tiểu thuyết về
đề tài sản xuất hay tiểu thuyết viết về đề tài nóng… Cách gọi khác nhau
nhưng đều chỉ ra tính thời sự của tác phẩm tiểu thuyết bám sát các diễn
biến đời sống trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Đầu những năm tám mươi của thế kỷ XX xuất hiện một số tác phẩm
viết trực diện về “khoán 10 trong nông nghiệp” của Đào Vũ (Bí thư cấp
huyện), của Nguyễn Kiên (Nhìn dưới mặt trời), của Nguyễn Phan Hách (Tan
mây), của Nguyễn Hữu Nhàn (Dốc nắng)… Dòng tiểu thuyết thời sự này là sự
nối tiếp tiểu thuyết Cù lao chàm, Đứng trước biển của Nguyễn Mạnh Tuấn,
Chân dung một quản đốc của Nguyễn Hiểu Trường, Giấy trắng của Triệu
Xuân, Mưa mùa hạ của Ma Văn Kháng, Đồng chiêm của Hoàng Minh Tường,
15
Đối thoại sông Đà của Trần Chinh Vũ, Đất mặn của Chu Văn, Hạt mùa sau
của Nguyễn Thị Ngọc Tú… Xu hướng tiểu thuyết này thể hiện sự dấn thân,
nhập cuộc của nhà văn vào khả năng đáp trả nhạy bén các vấn đề bức xúc của
đời sống xã hội. Riêng hai cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Mạnh Tuấn gây một
tiếng vang lớn trong đời sống văn học, được tái bản nhiều lần ở nhiều nhà
xuất bản và nhận được nhiều ý kiến phản hồi từ bạn đọc, nhất là những người
lao động, điều đó nói lên ý nghĩa mật thiết giữa văn học và cuộc sống. Thành
công của tác giả chính là ở chỗ nắm bắt được tâm lý và nhu cầu thay đổi quản
lý trong sản xuất cũng như trong đời sống xã hội, vì thế nó đồng vọng được
với đông đảo bạn đọc. Mưa mùa hạ của Ma Văn Kháng, Hạt mùa sau của
Nguyễn Thị Ngọc Tú viết về đội ngũ các nhà khoa học – những trí thức trẻ là tác phẩm viết trực diện về các vấn đề sản xuất, nhưng đằng sau là vấn đề
con người, vấn đề nhân tâm thời đại. Nhìn chung các tác phẩm viết về sản
xuất trong các lĩnh vực công – nông nghiệp, đội ngũ trí thức trẻ nổi bật ở ưu
điểm nêu vấn đề, ở cách nhìn thẳng vào sự thật đời sống nhưng về chất
lượng nghệ thuật còn hạn chế nên đến nay còn lại rất ít trong tâm trí bạn đọc.
Từ sau 1975, càng lùi xa chiến tranh chúng ta càng có nhu cầu tìm hiểu
sâu sắc hơn về những gì đã xảy ra, những gì thuộc về lịch sử. Vì thế trong tiểu
thuyết sau 1975 nở rộ một loạt tác phẩm viết về đề tài chiến tranh sau chiến
tranh: Năm 1975 họ đã sống như thế và Chim én bay của Nguyễn Trí Huân,
Nắng đồng bằng, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Đất trắng của Nguyễn Trọng
Oánh, Bến không chồng của Dương Hướng… Một số nhà văn đã dày công
sáng tác những bộ tiểu thuyết dài nhiều tập về chiến tranh như Phan Tứ với
Người cùng quê, Nam Hà với Đất miền đông, Xuân Thiều với Tư thiên, Đặng
Đình Loan với Đường thời đại…Những tác phẩm này đã cố gắng thể hiện con
người và chiến tranh trên cả hai mặt của một vấn đề: vai trò của chiến tranh
đối với con người và ngược lại. Tiểu thuyết viết về chiến tranh phong phú về
chủ đề, giọng điệu, bút pháp và được soi sáng bởi lý tưởng nhân văn cao cả và
trình độ nghệ thuật mới. Đa số nhà văn viết về chiến tranh như là một trách
16
nhiệm cao cả, như một món nợ tinh thần phải trả cho hàng triệu người đã
“quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Đầu những năm tám mươi thế kỷ XX, tiểu thuyết Việt Nam xuất hiện
nhiều tác phẩm có nét chung là cố gắng khám phá, phát hiện lại thực tại, gọi là
khuynh hướng “nhận thức lại thực tại” hay đề tài thế sự. Các tác phẩm Thời xa
vắng của lê Lựu, Tháng ngày đã qua của Xuân Thiều, Sống với thời gian hai
chiều của Vũ Tú Nam, Thời gian của người của Nguyễn Khải, Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu… có thể coi là những thể
nghiệm, tìm tòi của tiểu thuyết đương đại trong phương hướng đi tìm chân lý
đời sống bằng cách nhận thức lại đời sống. Thời xa vắng (1986) có thể coi là
cuốn tiểu thuyết đột phá của khuynh hướng này. Đề tài thế sự trong tiểu thuyết
thể hiện khát vọng phân tích, tổng kết, chiêm nghiệm và suy ngẫm, triết luận
về đời sống và con người của nhà văn. Tác giả đã vận dụng hình thức bi kịch
để tái tạo đời sống vì bi kịch có tác dụng “thanh lọc tâm hồn”, có khả năng
phát hiện các “tình huống thế giới” theo cách nói của Hêghen.
Bên cạnh việc nhận thức lại thực tại, những tác phẩm thuộc đề tài thế
sự còn hướng tới những vấn đề đạo đức, nhân cách của con người trong xã
hội. Trong các tác phẩm thuộc đề tài này, nhà văn tái hiện bao nhiêu câu
chuyện éo le, thăng trầm, bao nhiêu cảnh đời và số phận khác nhau. Đi sâu
vào thế giới bên trong của con người, tiểu thuyết chú trọng phát hiện “biện
chứng tâm hồn” của con người trong một bối cảnh xã hội nhiều đổi thay,
thăng trầm và quanh co. Những sáng tác của Nguyễn Khải, Vũ Tú Nam, Ma
Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu, Lê Minh Khuê, Trần Thùy Mai, Khuất
Quang Thụy, Dạ Ngân…đều có nét chung là viết theo tinh thần “gạn đục khơi
trong”, phát hiện và chắt chiu cái đẹp đồng thời truy kích đến cùng cái ác, cái
xấu đang bao vây con người.
Bề ngoài có khi khó phân biệt giữa các loại đề tài sản xuất, đề tài chiến
tranh hay đề tài thế sự nhưng dù viết về đề tài nào, tiểu thuyết nói riêng và văn
xuôi nói chung cũng chỉ nhằm hướng tới con người trong tính toàn vẹn và
phức tạp của nó. Qua sự phát triển của thể loại tiểu thuyết trong dòng chảy của
17
nền văn học Việt Nam, có thể nhận thấy tiểu thuyết đang ngày càng vượt lên,
dẫn đầu và xứng đáng với vai trò là “cỗ máy cái” trong nền văn học nghệ
thuật.
1.1.3 Sự trỗi dậy của đề tài thế sự trong tiểu thuyết Việt Nam
Lịch sử ở bước ngoặt là cơ hội cho tiểu thuyết phát triển. Cũng giống
như thời kỳ sau hòa bình (1954), sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam
thống nhất đất nước (1975), một thời kỳ mới mở ra trong đời sống xã hội của
dân tộc Việt Nam độc lập – thống nhất – hòa bình. Vượt qua giai đoạn quán
tính (khoảng từ 1975 đến 1985), văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng
đang tạo đà phát triển mới. Không chỉ phát triển theo những quy luật nội tại,
vốn có của bản thân, văn học giờ đây đã nhanh nhạy trước yêu cầu của đời
sống, tiếp xúc một cách chủ động và mạnh mẽ với các yếu tố ngoại sinh. Sự
tiếp xúc đa dạng hơn trong môi trường văn hóa cởi mở và hội nhập đã làm
thay đổi thị hiếu thẩm mỹ của người đọc và người cầm bút, thúc đẩy quá trình
cách tân, hiện đại hóa văn học, trong đó có tiểu thuyết.
Trong hệ thống thể loại văn xuôi sau 1975, tiểu thuyết có ưu thế và
chiếm vị trí chủ đạo trong công cuộc vận động và đổi mới văn học. Đặc biệt là
từ 1986 đến nay, văn học đổi mới trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật” đã
kéo theo một hệ quả tất yếu đó là: tính sử thi nhạt dần, thay vào đó, đề tài thế
sự đã khẳng định được vị thế mới của mình và có sự trỗi dậy mãnh liệt, dần
dần trở thành đề tài chính yếu của tiểu thuyết Việt Nam. Sự chuyển biến này
phần nào đã đáp ứng được nhu cầu phân tích, lý giải, suy tư về con người, xã
hội của một thời kỳ đầy biến động.
Một trong những khía cạnh được tiểu thuyết thế sự rất quan tâm đó là
những xung đột trong xã hội mà trước hết là xung đột giữa các dòng họ. Trên
nhiều vùng quê, chính những người nông dân hồn hậu, chất phác, giàu tình
cảm lại gây không ít những đau khổ cho nhau và cho chính mình chỉ vì sự
thiếu hiểu biết, sự ấu trĩ trong nhận thức, tâm lý bầy đàn, sự trì trệ, bảo thủ và
tập tục làng xã. Bởi vậy, chiến tranh kết thúc nhưng những làng quê bé nhỏ
vẫn không hề bình yên. Ở đó cuộc sống luôn bị khuấy đảo, sôi lên vì những
18
- Xem thêm -