MỤC LỤC
Lời nói đầu
Phần thứ nhất : Những vấn đề chung
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng nghiên cứu
5. Khách thể và phạm vi nghiên cứu
6. Giả thuyết nghiên cứu
7. Phương pháp nghiên cứu
Phần thứ hai : Nội dung nghiên cứu
Chương 1 : Cơ sở lý luận
1. Khái niệm nhận thức
1.1. Khái niệm nhận thức
1.2. Các mức độ của nhận thức
1.3. Các tiêu chí để đánh giá nhận thức
1.4. Mối quan hệ giữa nhận thức với các hiện tượng tâm lý khác
1.4.1 Mối quan hệ giữa nhận thức với xúc cảm, tình cảm
1.4.2. Mối quan hệ giữa nhận thức và thái độ
1.4.3. Mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi
2. Những vấn đề cơ bản về HIV/AIDS
2.1.
Khái niệm HIV
2.1.1. Định nghĩa
2.1.2. Phân loại HIV
2.1.3. HIV tồn tại trong cơ thể người
2.1.4. HIV tồn tại trong môi trường
2.1.5. Các con đường lây truyền nhiễm HIV
2.1.5.1. Lây truyền qua đường tình dục
2.1.5.2. Lây truyền qua đường máu
2.1.5.3. Lây truyền từ mẹ sang con
2.1.6. Đường không lây truyền HIV.
2.1.7. Cách thức HIV xâm nhập và phát triển trong cơ thể người.
2.2.
Khái niệm AIDS
2.2.1. Định nghĩa
2.2.2. Các giai đoạn và các triệu chứng biểu hiện
2.2.2.1. Giai đoạn nhiễm HIV cấp
2.2.2.2.Giai đoạn nhiễm HIV không có triệu chứng
2.2.2.3. Giai đoạn cận AIDS
2.2.2.4. Giai đoạn AIDS toàn phát
2.2.3. Các biện pháp phòng chống cơ bản
2.2.3.1. Phòng lây truyền qua đường tình dục
2.2.3.2.Phòng lây truyền qua đường máu
2.2.3.3. Phòng lây truyền từ mẹ sang con
3. Một số đặc điểm tâm lý cơ bản ở lứa tuổi học sinh PTTH
Chương 2 : Kết quả nghiên cứu
1. Nhận thức chung về HIV/AIDS
1.1 .Nhận thức về bản chất của AIDS
1.2. Nhận thức về tác nhân gây bệnh AIDS và cách thức xâm nhập của HIV vào
cơ thể
1.3. Nhận thức về tính chất nguy hiểm của bệnh AIDS
2. Nhận thức về nguyên nhân, con đường lây truyền HIV/AIDS
2.1. Nhận thức về nguyên nhân xã hội gây nên bệnh
2.2.
Nhận thức về những hành vi có nguy cơ lây bệnh AIDS
2.3.Nhận thức về nhóm người có hành vi nguy cơ bị lây nhiễm cao
3. Nhận thức về các giai đoạn, triệu chứng biểu hiện và các biện pháp phòng
ngừa.
3.1.
Nhận thức về sự khác nhau giữa HIV và AIDS.
3.2.
Nhận thức về cách nhận biết người nhiễm HIV/ AIDS.
3.3.
Nhận thức về thời gian làm xét nghiệm phát hiện ra vi rut HIV.
3.4.
Nhận thức về giai đoạn cửa sổ.
3.5.
Nhận thức về các giai đoạn và triệu chứng biểu hiện của bệnh AIDS.
3.6.
Nhận thức về cách thức phòng tránh lây nhiễm HIV/AIDS qua đường tình
dục.
3.7.
Nhận thức về cách phòng tránh lây nhiễm HIV/AIDS qua đường máu.
4 . Hành vi ứng xử đối với người nhiễm HIV/AIDS
4.1. Ưng xử của bản thân có liên quan với vấn đề nhiễm HIV/AIDS
4.2.Thái độ của bản thân đối với người nhiễm HIV/AIDS
4.3.Hành vi ứng xử với người nhiễm HIV/AIDS
5. Công tác giáo dục, tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS của trường.
5.1.Cách tiếp cận thông tin về HIV/ AIDS của học sinh trường PTTH Tây Thuỵ
Anh
5.2. Nhận thức về các biện pháp giáo dục phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS trong
các trường PTT
LỜI NÓI ĐẦU
Nhân loại đã bước sang những năm đầu của một thế kỷ mới mang theo
những di sản của một thế kỷ đầy ắp sự kiện. Trong thế kỷ đó con người đã đạt được
sự phát triển khoa học kỹ thuật cao, đã thực hiện đại cách mạng công nghiệp, nâng
cao đời sống vật chất lên tầm cao chưa từng thấy. Nhưng đồng thời thế kỷ qua cũng
đã chứng kiến những cuộc chiến tranh đẫm máu nhất, những hành vi bạo lực , xuất
hiện những biến đổi đầy kịch tính, những nghịch lý trong đời sống xã hội, nhất là ở
những nước có nền kinh tế phát triển. Chủ nghĩa cực đoan, tư tưởng sống gấp,
hưởng thụ tối đa với nạn nghiện ngập ma tuý, truỵ lạc mại dâm cuốn hút cả lớp trẻ
chưa trưởng thành mang lại nhiều bi kịch cho gia đình và xã hội. ở những nước
nghèo xuất hiện những người thèm khát đời sống xa hao hưởng lạc của phương
Tây, đua đòi sống buông thả, vô nguyên tắc hoặc bi quan chán nản tuyệt vọng mà
chất ma tuý có thể giúp họ nhất thời quên đi cuộc sống hiện tại nhưng rồi sẽ đưa họ
chui vào ngõ cụt. Đàn bà con gái phải bán thân nuôi miệng, quần áo, son phấn. Đó
chính là mảnh đất cho sự phát triển như lửa cháy một bệnh xã hội lớn nhất thế kỷ
HIV/AIDS, về tốc độ, về quy mô đại dich toàn cầu, về tỷ lệ tử vong của ngưòi bệnh
, những cái chết được báo trước.
HIV/AIDS là một căn bệnh được phát hiện ra vào năm 1981. Tốc độ lây lan một
cách nhanh chóng :
- tháng 12 năm 1996 trên thế giới đã có 22,5 triệu người nhiễm HIV
- Tháng 10 năm 1999đã tăng lên 33,4 triệu người.(16)
ở Việt Nam phát hiện trường hợp nhiễm HIV đầu tiên ở thành phố Hồ Chí Minh
vào tháng 12 năm 1990 do quan hệ tình dục với người nước ngoài.Đến tháng 8/
1993 đã có 790 người nhiễm HIV. Đến tháng 10/1999 đã có 16.000 người nhiễm
HIV, trong đó có 2.903 người chuyển sang giai đoạn AIDS và đã có 1509 người
tử vong. Theo thống kê mới nhất tính đến cuối năm 2003 tại Việt Nam đã có
76.180 người nhiễm HIV được phát hiện, trong đó 11.659 người chuyển sang
AIDS và 6.550 người tử vong.(Theo con số thống kê của uỷ ban phòng chống
AIDS của Việt Nam )
Vào đầu những năm 80 khi HIV mới được phát hiện, 80% mắc bệnh là đàn
ông chủ yếu do quan hệ đồng tính luyến ái. Lúc đó HIV khu trú trong những
cộng đồng có nguy cơ cao như người đồng tính luyến ái, gái mại dâm, người
tiêm chích ma tuý, lái xe đường dài. Tuy nhiên trong giai đoạn tiếp theo thì dịch
HIV đã ra khỏi biên giới của những cộng đồng nhỏ hẹp và trở thành đại dịch. Tỷ
lệ mắc AIDS đã chuyển từ nam sang nữ, số ca nhiễm HIV tiếp tục có xu hướng
gia tăng ở lứa tuổi trẻ. Đặc điểm trẻ hoá này cảch báo một tác hại nghiêm trọng
của đại dịch AIDS đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của cả nước trong những
năm tới.
Đứng trước tình hình có tính chất bùng nổ của đại dịch HIV/AIDS như vậy
chúng tôi muốn góp một phần nhỏ bé vào tìm hiểu thực trạng nhận thức của các
em học sinh PTTH về HIV/AIDS để từ đó có những khuyến nghị có hiệu quả
vào công tác phòng chống HIV/AIDS nói chung.
Tuy nhiên với thời gian và khả năng có hạn nên bản luận văn này không tránh
khỏi có những hạn chế, sai sót. Do vậy chúng tôi rất mong sự đóng góp ý kiến
của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo T.S . Nguyễn Hồi Loan, cô Trần Thu
Hương đã nhiêt tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Đồng thời em xin
chân thành cảm ơn thầy hiệu trưởng, các thầy cô giáo và các em học sinh của
trường PTTH Tây Thuỵ Anh đã giúp đỡ và tạo điều kiện giúp đỡ em thu thập số
liệu cho khoá luận.
1. Lý do chọn đề tài
Đại dịch HIV/AIDS đã xuất hiện trên hai thập kỷ qua, hiện đang hoành hành ở hầu
hết các nước trên thế giới mà chưa có biện pháp nào có thể chặn đứng được. Trái
lại đại dịch HIV/AIDS vẫn có chiều hướng gia tăng và là mối đe doạ đến tính mạng
và sức khoẻ cho từng cá nhân và toàn xã hội, gây bất ổn về kinh tế, chính trị và an
ninh của mọi quốc gia.Theo con số thống kê tính đến ngày 30/10/2003 tổng số
trường hợp nhiễm HIV ở Việt Nam được phát hiện là 73660 người, tổng số trường
hợp đã chuyển sang AIDS là 11254 người và tổng số tử vong vì AIDS là 6325
người ( Theo con số thống kê của tạp chí AIDS và cộng đồng số 10 - 2003).
Theo con số mới nhất của ban chỉ đạo phòng chống HIV/AIDS Hà Nội thông
báo ngày 12 tháng 5 năm 2004 là : hiện nay trên thế giới đã có 40 triệu người
nhiễm HIV, trong đó có 70 % trường hợp bị lây truyền qua con đường quan hệ tình
dục. Tốc độ lan truyền nhanh chóng : cứ 1 phút lại có 10 người bị nhiễm. Ở Việt
Nam đã có 80.000 người được phát hiện trong đó có 1/3 là phụ nữ.
Vậy chúng ta phải làm gì để khống chế dịch HIV/AIDS trong bối cảnh chưa có
vác xin phòng hiệu và thuốc đặc trị cho người nhiễm HIV/AIDS ? Đây thực sự là
một câu hỏi lớn đáng lưu tâm cho toàn nhân loại. Tuy nhiên, để góp phần khống
chế được tốc độ gia tăng của dịch, biện pháp trước mắt cũng như về lâu dài ngay cả
khi thế giới có được vac xin phòng hiệu thì nó vẫn luôn là một biện pháp hiệu quả
tốt nhất, đó là tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao sự hiểu biết của mọi người
trong cộng đồng về HIV giúp cho họ có biện pháp phòng tránh tốt nhất. Mặt khác,
muốn tiến hành các biện pháp tuyên truyền có hiệu quả cao nhất thì cần phải đánh
giá được thực trạng nhận thức của họ về vấn đề HIV/AIDS.
Đại dịch HIV/AIDS đẫ để lại hậu quả nặng nề về nhiều mặt như : về kinh tế, an
ninh chính trị, về sức khoẻ của mỗi cá nhân, và giảm tuổi thọ trung bình của xã hội.
Học sinh cấp III lại là thế hệ tương lai của đất nước, đang chuẩn bị hành trang để
bước vào đời,vì vậy việc giáo dục sức khoẻ sinh sản nói chung và giáo dục nhận
thức về HIV/AIDS nói riêng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp thiết.
Trong những năm qua Bộ Giáo Dục đã có rất nhiều dự án phục vụ cho công việc
này. Đặc biệt năm 2004 “ Dự án VIEO/P11Bộ Giáo Dục, riêng ở tỉnh Thái Bình dự
an VIEO01/ P15 đã được triển khai.
Xuất phát từ thực tiễn như vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu tìm hiểu thực
trạng nhận thức của học sinh PTTH đới với vấn đề HIV/AIDS, chúng tôi tiến hành
triển khai thực tế trên địa bàn trường PTTH Tây Thuỵ Anh – huyện Thái thuỵ –
tỉnh Thái Bình. Trên cơ sở đó, đề xuất các biện pháp tuyên truyền có hiệu qủa nhằm
nâng cao nhận thức của lứa tuổi học sinh PTTH về căn bệnh này.
2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu nhận thúc của học sinh trường PTTH Tây Thuỵ Anh – Huyện Thái thuỵ
– Tỉnh Thái Bình về HIV/AIDS, từ đó đề xuất các biện pháp giáo dục, tuyên truyền
nhằm nâng cao nhận thức của học sinh về căn bệnh này góp phần vào công tác
phòng chống HIV/AIDS chung của cả nước.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài của chúng tôi nhằm giải quyế tcác nhiệm vụ sau:
3.1 Về mặt lý luận : làm rõ một số khái niệm cơ bản có liên quan đến đề tài.
3.1.1 Khái niệm nhận thức
- Khái niệm.
- Các mức độ của nhận thức.
- Các tiêu chí để đánh giá.
- Mối quan hệ giữa nhận thức với các hiện tượng tâm lý khác:
+ Mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi.
+ Mối quan hệ giữa nhận thức và xúc cảm, tình cảm.
+ Mối quan hệ giữa nhận thức và thái độ.
3.1.2 Những vấn đề về HIv/AIDS.
- Những vấn đề chung về HIV/AIDS.
- Các giai đoạn và triệu chứng biểu hiện của AIDS.
- Các nguyên nhân, con đường lây truyền HIV/AIDS.
- Các biện pháp phòng ngừa
3.1.3 Một số đặc điểm tâm lý cơ bản ở lứa tuổi học sinh PTTH.
3.2 Nghiên cứu thực tiễn.
3.2.1 Tìm hiểu thực trạng nhận thức của học sinh trường PTTH Tây Thuỵ Anh về
vấn đề HIV/AIDS.
3.2.2 Nêu lên một số kết luận và khuyến nghị nhằm nâng cao sự hiểu biết và cách
thức phòng tránh của học sinh PTTH về HIV/AIDS .
4. Đối tượng nghiên cứu.
Nhận thức của học sinh trường PTTH Tây Thuỵ Anh về HIV/AIDS.
5. Khách thể và phạm vi nghiên cứu.
5.1. Khách thể nghiên cứu:
Nghiên cứu 311 em học sinh thuộc cả ba khối 10,11,12 của trường PTTH Tây
Thuỵ Anh .
Trong đó :
- 101 em học sinh khối 10.
- 102 em học sinh khối 11.
- 106 em học sinh khối 12.
( Có 2 học sinh không ghi lớp )
5.2. Phạm vi nghiên cứu.
Chỉ nghiên cứu các em học sinh của trường PTTH Tây Thuỵ Anh – huyện Thái
Thuỵ – tỉnh Thái Bình.
6. Giả thuyết nghiên cứu.
Tất cả các em học sinh của trường PTTH Tây Thuỵ Anh đều có những hiểu biết
nhất định về HIV/AIDS, tuy nhiên những hiểu biết đó chỉ dừng lại ở mức chưa đầy
đủ và không sâu sắc.
7. Phương pháp nghiên cứu.
Trong khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi đã sử dụng phương pháp sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Trong quá trình thực hiện đề tài này chúng tôi đã tìm đọc nhiều tài liệu về
HIV/AIDS. Các tài liệu đó đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề về HIV/AIDS
như : bản chất của bệnh, lịch sử hình thành, diễn biến của bệnh, các triệu chứng
biểu hiện của bệnh, cách lây truỳên và biện pháp phòng chống...
Sử dụng các công trình nghiên cứu về nhận thức trên thế giới và ở Việt Nam để
hiểu được nội hàm của khái niệm nhận thức làm cơ sở của đề tài.
7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi ( an két).
Đây là phương pháp cơ bản được sử dụng để nghiên cứu nhận thức của học sinh
trường PTTH Tây Thuỵ Anh đối với vấn đề HIV/AIDS. Việc xây dựng phiếu điều
tra đựoc dựa trên cơ sở, mục đích, nội dung nghiên cứu.
7.3 . Phương pháp quan sát.
Phương pháp này được sử dụng kết hợp để chính xác hoá thông tin đã thu được từ
các biện pháp khác.
7.4. Phương pháp thống kê toán học.
Chúng tôi xử lý số liệu nghiên cứu bằng máy vi tính với chương trình thống kê
xã hội học SPSS
PHẦN 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
Chương 1 : Cơ sở lý luận.
1. Khái niệm nhận thức.
1.1. Khái niệm
Nhận thức là một trong những vấn đề lý luận cơ bản của những ngành khoa học
nghiên cứu về con ngươì trong đó có triết học và tâm lý học.
Từ ngày xa xưa đã có những câu hỏi được đặt ra như : con người là ai ? Thế giới
này tồn tại như thế nào? Có sự tồn tại của thế giới bên kia không ?” Các nhà triết
học cổ đại đã luôn cố gắng đi tìm lời giải đáp cho những câu hỏi đó. Và việc đi tìm
lời giải đáp cho những câu hỏi đó thực chất là một quá trình con người bắt đầu sử
dụng tư duy của mình để nhận thức và khám phá hiện thực. Như vậy con người
nhận thức thế giới xung quanh để hiểu hiện thực cuộc sống đang diễn ra. Có rất
nhiều quan điểm khác nhau khi nói về nhận thức.
Theo quan điểm của tâm lý học Mác - xít thì nhận thức là một trong ba mặt cơ bản
của đời sống tâm lý con người bên cạnh tình cảm và hoạt động( T117-10). Giữa
chúng có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ. Một đời sống tâm lý được coi là cân
bằng khi có sự thống nhất giữa nhận thức, tình cảm và hoạt động. Quá thiên về lý
trí sẽ trở thành con người khô khan, thiếu đi sức mạnh thúc đẩy của động cơ tình
cảm, còn nếu quá thiên về tình cảm dễ không sáng suốt, dễ xa rời quy luật khách
quan, hành động tự phát theo những cảm xúc chủ quan duy ý chí. Vì vậy hành động
cũng phải dựa trên nhận thức quy luật khách quan, nếu không là hành động theo ý
chí mù quáng.
K.K.Platonốp - nhà tâm ly học Xô Viết định nghĩa : Nhận thức là quá trình thu
nhận tri thức chân thực trong thế giới khách quan, trong qúa trình hoạt động thực
tiễn xã hội.
Như vậy nhờ hoạt động nhận thức, con người không chỉ phản ánh được hiện thực
xung quanh mà còn nhận thức bản thân mình nữa, không chỉ phản ánh cái bên
ngoài mà còn phản ánh cả cái bản chất bên trong, không chỉ phản ánh cái hiện tại
mà cả cái đã qua và cái sẽ tới các quy luật phát triển của hiện thực nữa(T117-10).
Lê Nin đã tổng kết quy luật của hoạt động nhận thức nói chung như sau : “Từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là
con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách
quan”(T117-118-10)
Tóm lại từ các quan điểm nhận thức như trên chúng ta có thể tổng kết lại như
sau : Nhận thức là quá trình thu nhận những tri thức chân thật về thế giới khách
quan trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội, là quá trình tâm lý phản ánh sự vật,
hiện tượng xung quanh và bản thân con người, trên cơ sở đó con người tỏ thái độ,
tình cảm và hành động.
1.2.Các mức độ nhận thức.
Nhận thức là một quá trình. Quá trình này thường gắn với mục đích nhất định
nên nhận thức của con người là một hoạt động. Đặc trưng nhất của hoạt động nhận
thức là phản ánh hiện thực khách quan ( T67-20)
Trong việc nhận thức thế giới con người có thể đạt tới những mức độ nhận thức
khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp. Nhận thức bao gồm nhiều quá trình khác
nhau và sản phẩm của mỗi quá trình là khác nhau. Ta có thể chia hoạt động nhận
thức thành hai mức độ : nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Hoạt động nhận
thức bao gồm nhiều quá trình khác nhau, ở những mức độ phản ánh khác nhau
như : cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng ... Những quá trình này sẽ cho chúng
ta những sản phẩm khác nhau như : hình ảnh, biểu tượng, khái niệm (T67-20).
Trong hoạt động nhận thức của con người, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
có quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau, đan xen nhau. Nhận thức cảm tính là cơ
sở, là mức độ ban đầu, cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính. Đồng thời nhận thức
cảm tính là thành phần của nhận thức lý tính, nhận thức lý tính chi phối nhận thức
cảm tính, làm cho nhận thức cảm tính tinh vi hơn, nhạy bén hơn và có ý nghĩa hơn.
Nhận thức là một quá trình thống nhất biện chứng giữa mức độ nhận thức cảm tính
và nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính ( bao gồm cảm giác và tri giác) : là mức độ nhận thức đầu
tiên của con người. Đặc điểm của nhận thức cảm tính là chỉ phản ánh được những
thuộc tính không bản chất của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác
quan của ta (T67-20). Sản phẩm của nhận thức cảm tính là những hình ảnh trực
quan, cụ thể về thế giới, chưa phải là những quy luật về thế giới. Nhận thức cảm
tính mới chỉ là mức độ nhận thức sơ đẳng song có vai trò rất quan trọng. Nhận thức
cảm tính thu nhận thông tin ban đầu làm nguyên liệu cho hoạt động tâm lý cao hơn,
thiết lập các mối quan hệ tâm lý của cơ thể với môi trường, định hướng và điều
chỉnh hoạt động của con người trong môi trường đó. Có thể nói rằng nhận thức cảm
tính là điều kiện để xây dựng lên “lâu đài nhận thức” và đời sống tâm lý con người.
Như vậy nhận thức cảm tính chỉ phản ánh những sự vật hiện tượng đang trực tiếp
tác động vào các giác quan của ta. Tuy nhiên, trong thực tiễn của đời sống lại luôn
đòi hỏi con người phải hiểu biết nhiều hơn những gì mà các giác quan trực tiếp có
thể đem lại. Và con người có khả năng đạt đến sự hiểu biết đó bằng một quá trình
nhận thức gián tiếp và khái quát cao hơn, đó là tư duy và tưởng tượng ( còn gọi là
nhận thức lý tính ).
Nhận thức lý tính là mức độ nhận thức cao hơn nhận thức cảm tính (T68-20).
Nhận thức lý tính phản ánh những thuộc tính bên trong, những mối quan hệ bản
chất, có tính quy luật của sự vật, hiện tượng. Phương thức phản ánh của nhận thức
lý tính là phản ánh một cách gián tiếp. Đó không chỉ là sự phản ánh hiện tại mà còn
cả quá khứ và tương lai. Quá trình nhận thức lý tính có sản phẩm là những khái
niệm, phán đoán, quy luật, quy tắc, những biểu tượng mới ... Nhận thức lý tính có
quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính. Nhận thức lý tính có vai trò vô cùng quan
trọng trong việc giúp con người hiểu biết bản chất, những mối quan hệ có tính quy
luật của sự vật hiện tượng tạo điều kiện để họ làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân
mình.
Như vậy, nhận thức mang lại cho con người hiểu biết về thế giới khách quan.
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu chúng tôi xem xét nhận thức về HIV/AIDS của
học sinh hiện nay ở trường PTTH Tây Thuỵ Anh. Nhận thức của học sinh về
HIV/AIDS được đề cập đến như là một quá trình hiểu biết của họ về bản chất, các
giai đoạn, các triệu chứng biểu hiện của AIDS. Nhận thức về sự nguy hiểm, các con
đường lây truyền nhiễm HIV/AIDS, cũng như cách phòng chống lây nhiễm căn
bệnh xã hội này.
1.3.Các tiêu chí để đánh giá nhận thức.
Để đánh giá được thực trạng nhận thức của học sinh trường PTTH Tây Thuỵ
Anh về vấn đề HIV/AIDS chúng tôi dựa trên các tiêu chí đánh giá sau đây:
3.1.Nhận thức đúng hay sai về vấn đề HIV/AIDS.
3.2.Mức độ nhận thức về vấn đề HIV/AIDS:
- Nhận thức đầy đủ hay không đầy đủ.
- Nhận thức sâu sắc hay sâu sắc.
3,.3.Thông qua hành vi để đánh giá nhận thức : họ thực hiện hành vi là
chủ động hay thụ động, và hành vi đó có thống nhất với nhận thức của họ
hay không.
4.Mối quan hệ giữa nhận thức và các hiện tượng tâm lý khác.
4.1.
Mối quan hệ giữa nhận thức và xúc cảm, tình cảm.
Trong khi phản ánh thế giới khách quan, con người không chỉ nhận thức thế giới đó
mà còn tỏ thái độ của mình đối vơí nó nữa (T195-10). Những hiện tượng tâm lý
biểu hiện thái độ của con người đối với những cái mà họ nhận thức được gọi là xúc
cảm và tình cảm của con người (T195-10).
Giữa phản ánh nhận thức và phản ánh xúc cảm tình cảm có mối quan hệ qua lại
chặt chẽ với nhau. Phản ánh nhận thức là tiền đề cho phản ánh xúc cảm. Ngược lại
thì xúc cảm tình cảm cũng có vai trò tác động, củng cố nhận thức hoàn thiện, sâu
sắc hơn. Xúc cảm tình cảm là động lực, kích thích thúc đẩy con người nhận thức,
thúc đẩy mạnh mẽ con người tìm tòi chân lý. Có thể nói xúc cảm tình cảm nảy sinh
trên cơ sở nhân thức, nhưng khi đã nảy sinh, hình thành thì tình cảm lại tác động
trở lại nhận thức, thậm chí có thể làm biến đổi nhận thức. V.I . Lê Nin đã nhận định
“ nếu không có xúc cảm của con người thì không có sự tìm tòi chân lý”.
Phản ánh cảm xúc và phản ánh nhận thức có những điểm giống và khác nhau :
a. Giống nhau:
Đều là sự phản ánh hiện thực khách quan.
Đều mang tính chủ thể và có bản chất xã hội – lịch sử.
b. Khác nhau :
Thứ nhất, xét về đối tượng phản ánh : quá trình nhận thức phản ánh bản thân
sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan, còn tình cảm lại phản ánh mối
quan hệ giữa các sự vật hiện tượng với nhu cầu, động cơ của con người chứ
không phản ánh bản thân các sự vật hiện tượng ( T196-10).
Thứ hai, về phạm vi phản ánh thì nói chung những sự vật hiện tượng tác
động vào các giác quan ta đều được phản ánh ( nhận thức) với mức độ sáng tỏ
đầy dủ khác nhau. Trong khi đó không phải tất cả những gì tác động vào giác
quan ta đều được ta tỏ thái độ - nghĩa là đều gây lên những xúc cảm, tình cảm,
mà chỉ có những sự vật, hiện tượng nào có liên quan đến sự thoả mãn hay không
thoả mãn một nhu cầu, động cơ nào đó của con người mới gây lên xúc, cảm tình
cảm mà thôi (T197-10).
Thứ ba, về phương thức phản ánh : nhận thức phản ánh hiện thực khách quan
dưới hình thức những hình ảnh, biểu tượng, khái niệm, còn tình cảm thì phản
ánh hiện thực khách quan dưới hình thức những rung cảm, những thể nghiệm
(T197-10).
Thứ tư, mức độ thể hiện tính chủ thể trong tình cảm cao hơn, đậm nét hơn so
với trong nhận thức (T197-10).
Thứ năm, quá trình hình thành tình cảm lâu dài hơn nhiều, phức tạp hơn nhiều
và được diễn ra theo những quy luật khác với quá trình hình thành tri thức
(T197-10).
4.2.
Mối quan hệ giữa nhận thức và thái độ.
Nhận thức là một trong ba thành tố cấu thành nên thái độ ( nhận thức -tình cảm hành vi). Giữa nhận thức và thái độ có mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ với
nhau.Thông thường nhận thức có trước thái độ, thái độ chịu sự chi phối của nhận
thức, nhưng cùng lúc đó thái độ lại tác động ngược trở lại nhận thức. Nhận thức
làm nảy sinh thái độ, tình cảm, nhận thức chỉ đạo thái độ, điều chỉnh thái độ. Thông
thường nếu nhận thức đúng đắn con người sẽ có thái độ tích cực, đúng đắn. Ngược
lại, khi con người có thái độ tích cực đối với một vấn đề cụ thể thì nhu cầu, hứng
thú, nhận thức của chủ thể sẽ được nâng lên (LA thạc sỹ Huỳnh Văn Sơn). Lẽ dĩ
nhiên, đây chỉ là sự tác động xuôi chiều vì nhiều khi con người nhận thức đúng
nhưng không hẳn đã có thái độ tích cực và ngựoc lại. Lý và tình là hai mặt của một
vấn đề nhân sinh quan thống nhất của con người.
4.3.
Mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi.
Trong mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi có thể nói rằng nhận thức có vai
trò rất quan trọng trong việc hình thành nên thái độ và thực hiện hành vi của con
người. Nhận thức là tiền đề, là sự định hướng và sự điều chỉnh hành vi của cá nhân
trong hoạt động thực tiễn. Giữa nhận thức và hành vi luôn luôn tồn tại một mối
quan hệ qua lại hai chiều.Thông thường khi con người nhận thức đúng về một vấn
đề, một sự vật, hiện tượng nào đó thì nó sẽ định hướng, điều chỉnh, thúc đẩy hành
động của con người theo hướng tích cực phù hợp với chuẩn mực xã hội.
Ngược lại, hành vi cũng có sự tác động trở lại nhận thức. Khi con người thực hiện
nhiều lần những hành vi đúng nó sẽ củng cố nhận thức của con người về vấn đề đó
một cách đầy đủ sâu sắc hơn.
2. Những vấn đề về HIV/AIDS.
2.1. Khái niệm về HIV
2.1.1.Định nghĩa
HIV là cụm từ viết tắt từ các chữ cái đầu từ của cụm từ tiếng Anh : Human
Immuno Deficience Virut, dịch ra tiếng Việt là virut gây suy giảm miễn dịch ở
người (T2-23). Đó là loại virut khi xâm nhập vào cơ thể người sẽ tấn công trực
tiếp hệ thống miễn dịch, làm cơ thể giảm sức đề kháng và dễ mắc các bệnh nhiễm
trùng cơ hội và ung thư.
2. 1.2.Phân loại : có hai loại HIV
HIV1: Giống một loại virut ở khỉ Chimpazel tại Gabong. HIV1 gây nhiễm trên
toàn cầu được tìm thấy vào năm 1983.
HIV1 : Giống một loại virut ở loài khỉ Sooty Mangabey tại Tây Phi. HIV2 gây
nhiễm chủ yếu ở khu vực Châu Phi được tìm thấy vào năm 1986.
2.1.3. HIV tồn tại trong cơ thể người.
- Trong máu tế bào Limphô T, tinh dịch
- Trong nước bọt, nước tiểu, nước mắt, mồ hôi, màng ối, dịch não tuỷ, sữa mẹ,
dịch âm đạo, dịch khớp.
- ở xác chết bệnh nhân AIDS trong vòng 24 giờ.
- Trong các giọt máu khô đọng ở kim tiêm 2- 7 ngày
2. 1.4. HIV tồn tại trong môi trường.
HIV tồn tại không lâu ở môi trường bên ngoài thậm chí dễ bị chết. Thời gian tồn
tại bên ngoài của HIV phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : bản thân HIV bài tiết ra
theo loại dịch gì và các yếu tố nhiệt độ ánh sáng như : HIV dễ bị chết ở nhiệt độ
cao, trong các hoá chất sát khuẩn thông thường như Javen 1%.
Luộc sôi các dụng cụ phẫu thuâth tiêm chích với thời gian 20 phút
1.5. Các con đường lây truyền nhiễm HIV.
HIV có thể tìm thấy trong máu và các sản phẩm của máu, tinh dịch, dịch âm đạo,
nước bọt, nước mắt, dịch não tuỷ, nước tiểu, sữa mẹ. Tuy nhiên chỉ có ba phương
thức lây được xác định là :
2.1.5.1.Lây truyền qua đường tình dục :
Là con đường lây truyền phổ khá phổ biến. Do HIV có nhiều trong tinh dịch, dịch
âm đạo và máu của người nhiễm HIV. Các kiểu quan hệ tình dục có xâm nhập dù
khác giới hay đồng giới đều có khả năng lây nhiễm HIV nêú một trong hai người bị
nhiễm virut này. Khi giao hợp có thể gây ra các xây xước nhỏ trên niêm mạc bộ
phận sinh dục ở cả nam và nữ. Chính các tổn thương đó là cửa ngõ để HIV xâm
nhập một cách dễ dàng vào cơ thể. Nếu giao hợp qua hậu môn thì khả năng gây
bệnh sẽ cao hơn bởi niêm mạc hậu môn trực tràng mỏng hơn nhiều so với âm đạo,
do đó dễ bị xây xát hơn. Càng giao hợp với nhiều người, xác suất gặp người nhiễm
HIV càng cao nên càng dễ có khả năng lây nhiễm. Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp
chỉ quan hệ một lần cũng bị mắc bệnh. Sự hiện diện của những thương tổn do bệnh
lây truyền qua đường tình dục thông thường gây nên ( như : giang mai, lậu...) virut
HIV sẽ dễ dàng đột nhập qua các vết loét, vết sây xước, tổ chức bị viêm tấy do
bệnh lây truyền qua đường tình dục gây ra. Hẹp bao khuy dương vật, do không làm
được vệ sinh sau khi tiểu hay giao hợp quy đầu dễ bị ngứa ngáy, sây xước, viêm
tấy, qua đó HIV có điều kiện xâm nhập gây bệnh. Có nhiều bạn tình thay đổi cùng
thơì gian sẽ tăng nguy cơ và xác suất bị lây nhiễm HIV. Khi giao hợp bằng miệng
( dương vật- miệng hay miệng- âm hộ) khả năng lây truyền nhiễm HIV thấp hơn so
với giao hợp qua âm đạo nhưng nếu trong miệng có vết lở xước hay có chảy máu
răng thì HIV có khả năng lây nhiễm.
2.1.5.2. Lây truyền qua đường máu :
HIV có trong máu nên khi một người nhiễm HIV qua đường tiêm chích máu có
chứa HIV sẽ đọng lại ở trên bơm kim tiêm. Nếu dụng cụ này không được xử lý
hoặc không được khử trùng đúng cách người khác dùng phải thì vi rut theo đường
tiêm xâm nhập vào cơ thể.
HIV cũng có thể lây truyền qua việc dùng chung các dụng y tế như : châm cứu,
dao kéo mổ, dùng chung các hoạt động hàng ngày có thể dính máu như : xăm mình,
xuyên lỗ tai dùng chung bàn chải đánh răng, chữa răng mà không được tiệt trùng
đúng cách...Tuy nhiên có tất ít trường hợp lây nhiễm qua những dụng cụ này.
Truyền máu hay các sản phẩm của máu hoặc ghép các bộ phận cơ thể của người bị
nhiễm HIV cho bệnh nhân.
Tỷ lệ người nhiễm HIV cao nhất qua đường máu là do sử dụng chung dụng cụ
tiêm chích chưa được khử trùng đúng cách để tiêm chích ma tuý vì họ tiêm thẳng
vào tĩnh mạch.
2.1.5.3. Lây truyền từ mẹ sang con
Mẹ bị nhiễm HIV truyền sang con không được hiểu là bệnh di truyền mà HIV lây
truyền từ mẹ sang con thông qua các con đường như :
- Qua quá trình cung cấp máu cho rau thai để nuôi dưỡng bào thai, khi đó HIV
có thể dễ dàng xâm nhập vào cơ thể bé.
- Qua quá trình đẻ, HIV có trong nước ối, dịch tử cung, dịch âm đạo của mẹ đã
lây truyền vào người bé qua vết sây xát hoặc niêm mạc miệng, mắt, mũi của
bé.
- Qua sữa mẹ khi mẹ cho trẻ bú nhất là khi núm vú bị sây xát, trẻ mọc răng
hoặc có tổn thương ở miệng. Tuy nhiên việc lây lan qua đường sữa mẹ
thường ít gặp vì số lượng HIV có trong sữa rất ít.
Phụ nữ nhiễm virut HIV nếu sinh con sẽ có khả năng khoảng 30% là con nhiễm
theo mẹ, có nghĩa là cứ 100 bà mẹ nhiễm HIV sinh con thì có khoảng 30 trẻ bị
nhiễm.Trẻ sơ sinh bị nhiễm HIV thường không sống được quá 3 năm, trẻ sẽ bị bệnh
và chết.
( Theo tài liệu của UNESCO,UNDCP và CSDS, 2002)
2.1.6. Đường không lây truyền HIV.
HIV tồn tại trong các dịch của cơ thể như dịch âm đạo, tinh dịch, nước mắt, nước ối
...Tuy nhiên người ta đã nghiên cứu và đưa ra kết luận rằng HIV truyền chủ yếu
qua ba đường đã nêu ở phần các con đường lây truyền, trên thực tế người ta chưa
phát hiện nhiễm HIV qua những tiếp xúc thông thường như:
- Bắt tay, xoa bóp, ôm ấp.
- Nói chuyện, hắt hơi, ho.
- Ngồi chung bàn ghế.
- Hôn xã giao ( trừ hôn sâu nếu một trong hai người nhiễm HIV và trong
miệng có vết loét, chảy máu ).
- Mặc chung quần áo, ăn chung bát đĩa, cốc chén ...
- Đi chung nhà vệ sinh, tắm chung bể bơi.
- Muỗi và côn trùng không thể làm lây truyền HIV: vì khi muỗi đốt người thì
máu từ cơ thẻ người đi vào cơ thể muỗi chứ không đi từ cơ thẻ muỗi sang cơ
thể người. HIV không tồn tại và sinh sản trong cơ thể người nên nó không có
trong nước bọt của muỗi do đó không đi vào cơ thể người.
2.1.7. Cách thức HIV xâm nhập và phát triển trong cơ thể người.
a. .Điều kiện HIV lây truyền.
Phải có mặt của virut HIV : virut HIV không tự sinh ra. Với môi trường người
không có virut HIV thì người đó có làm gì dính đến máu hay quan hệ tình dục
không dùng bao cao su thì người đó cũng không thể có trong mình virut HIV được.
Nhưng cái khó là người ta không biết đựơc người ta có bị nhiễm HIV hay không.
Phải có lượng HIV đủ lớn : HIV tồn tại trong rất nhiều dịch của cơ thể con người
nhưng có dịch không chứa HIVhoặc là chứa rất ít không đủ để có thể làm lây
nhiễm chẳng hạn như dịch nước bọt, nước mắt, nước tiểu, mồ hôi...HIV có nhiều
nhất ở trong máu và trong chất dịch sinh dục ( dịch âm đạo và tinh dịch). Đây làcon
đường làm lây nhiễm virut HIV cao nhất. Ngoài ra qua đường sữa mẹ cũng có khả
năng lây nhiễm HIV.
Virut phải đi vào trong cơ thể : Lớp da bình thường bên ngoài cơ thể là một vỏ
bọc chắc chắn, nếu không bị sây xát gì thì HIV không đi qua được. Virut HIV đi
được vào cơ thể theo kim tiêm đi vào đường máu. Nó cũng có thể đi vào cơ thể qua
vết xước da. Ngoài ra nó còn đi qua được lớp niêm mạc (da mỏng) trong âm đạo,
trong lỗ dương vật, bên trong hậu môn để vào máu.
b.Cách thức xâm nhập và phát triển của HIV trong cơ thể.
Hệ miễn dịch với thành phần chủ lực là bạch cầu, là lực lượng bảo vệ cơ thể
chống lại sự tấn công của các loại mầm bệnh. Bạch cầu theo máu đi tuần tra khắp
cơ thể chúng được ví như những chiến sĩ bảo vệ cơ thể chống lại các mầm bệnh
nhiễm trùng xâm nhập từ bên ngoài hoặc mầm bệnh ung thư phát sinh từ một số tế
bào bên trong cơ thể.
Khi HIV xâm nhập cơ thể nó tấn công ngay bạch cầu, đặc biệt là Limphô T4 – là
thành phần quan trọng nhất trong hàng ngũ bạch cầu, đóng vai trò như một tổng chỉ
huy có nhiệm vụ điều phối, huy động, kìm hãm toàn bộ hệ miễn dịch của cơ thể.
HIV sử dụng chính chất liệu di truyền của bạch cầu để sinh sôi nảy nở, biến bạch
cầu thành kẻ tòng phạm. Chính vì vậy mà khi cơ thể bị virut tấn công hệ miễn dịch
càng huy động nhiều bạch cầu đến để kháng cự thì HIV lại càng sinh sôi lên gấp
bội. Cuối cùng hệ miễn dịch bị vô hiệu hoá và cơ thể không còn được bảo vệ nữa,
mọi mầm bệnh mặc sức hoành hành gây nên nhiều chứng bệnh nguy hiểm dẫn đến
tử vong.
c.Thời gian ủ bệnh.
Cũng giống như một số bệnh thông thường khác, HIV khi vào cơ thể cũng trải qua
thời gian ủ bệnh rồi mới sinh ra bệnh AIDS. Thời gian ủ bệnh của HIV khá dài. Kể
từ khi phát hiện ra người đầu tiên bị AIDS vào năm 1981, người ta quan sát vô số
trường hợp và kết luận rằng : thời gian để virut HIV làm sinh ra bệnh là khoảng từ
2- 10 năm. Trong thời gian ủ bệnh này người nhiễm HIV vẫn sống khoẻ mạnh bình
thường, nếu không xét nghiệm thì cũng không biết mình có mang mầm bệnh.
2.188. Những hành vi có nguy cơ lây nhiễm HIV.
Mỗi chúng ta hầu như ai cũng đã từng nghe nói đến vi rut HIV và bệnh AIDS. Song
vẫn còn nhiều người tin rằng căn bệnh này xa vời lắm chỉ có những người nào đó
mới bị mắc chứ không có liên quan gì đền mình. Điều đó là hoàn toàn sai lệch. Khi
mới được phát hiện HIV tồn tại ở những người nghiện chích ma tuý và gái mại dâm
nên người ta cho rằng đó chỉ là bệnh của những nhóm người này và gọi đó là các
nhóm “có nguy cơ cao”. Trên thực tế không phải tất cả những người thuộc nhóm
này đều bị nhiễm HIV, hay nói một cách khác không phải ma tuý gây bệnh AIDS
mà là do hành vi dùng chung kim tiêm không được khử trùng đúng cách. Còn
những người mại dâm là do có hành vi quan hệ tình dục không an toàn như : không
dùng bao cao su, quan hệ với nhiều người trong đó có người bị nhiễm HIV.
Như vậy, đối tượng bị nhiễm có thể là bất cứ ai có hành vi nguy cơ lây, thiếu hiểu
biết, lơ là thiếu cảnh giác đối với căn bệnh này. Ngoài ra cũng có những hành vi vô
ý của ngành y tế làm lây như không khử trùng dụng cụ có dính máu. Trẻ em có thể
bị lây nếu mẹ chúng bị lây khi mang thai chúng.
2.2.Khái niệm AIDS.
2.2.1.Định nghĩa.
AIDS còn gọi là SIDA là căn bệnh nghiêm trọng của thế kỷ mà y học chưa tìm
được thuốc phòng, thuốc chữa. AIDS viết tắt của cụm từ tiếng Anh : Acquired
Immuno Defsciency Syndrone.
- Xem thêm -