MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN
SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ ....................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phạm vi, mối quan hệ và ý nghĩa về trách
nhiệm dân sự trong vụ án hình sự ...................................................................... 6
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về trách nhiệm dân sự trong vụ
án hình sự từ năm 1945 đến nay ...................................................................... 25
1.3. Quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự tại một
số nước trên thế giới ......................................................................................... 28
Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH
HẢI DƯƠNG ........................................................................................ ……..32
2.1. Quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự .................... 32
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình
sự tại tỉnh Hải Dương ....................................................................................... 40
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG
VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ ...................... 55
3.1. Yêu cầu áp dụng đúng về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự theo
tinh thần cải cách tư pháp................................................................................. 55
3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng về trách nhiệm dân sự trong vụ
án hình sự ......................................................................................................... 58
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 70
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
:
Bộ luật Hình sự
BLTTHS
:
Bộ luật Tố tụng hình sự
BLDS
:
Bộ luật Dân sự
TNHS
:
Trách nhiệm hình sự
TNDS
:
Trách nhiệm dân sự
TAND
:
Tòa án nhân dân
VKSND
:
Viện kiểm sát nhân dân
VAHS
:
Vụ án hình sự
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1: Số liệu về công tác giải quyết, xét xử sơ thẩm các loại án của
TAND tại tỉnh Hải Dương từ năm 2013 đến năm 2017........................... 41
Bảng 2.2: Tổng hợp số vụ án hình sự có giải quyết TNDS từ năm 2013
đến năm 2017 tại TAND tỉnh Hải Dương ................................................ 42
Bảng 2.3: Tổng hợp số vụ án hình sự có giải quyết TNDS bị kháng cáo,
kháng nghị phần dân sự từ năm 2013 đến năm 2017 tại TAND tỉnh
Hải Dương ................................................................................................ 42
Bảng 2.4: Số liệu thống kê kết quả thi hành án dân sự trong hình sự theo
đơn yêu cầu từ năm 2013 đến năm 2017.................................................. 44
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động xét xử là hoạt động có tính đặc thù và chỉ do Tòa án thực
hiện. Yêu cầu đặt ra cho công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện và đầy
đủ; xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không bỏ lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội. Đồng thời với việc giải quyết vụ án hình sự
(VAHS), pháp luật cho phép Tòa án giải quyết cả vấn đề trách nhiệm dân sự
(TNDS) liên quan đến tội phạm. Yêu cầu xét xử đối với VAHS không chỉ là
giải quyết tốt về mặt hình sự mà cần giải quyết tốt cả vấn đề dân sự có liên
quan.
Trong thực tế, việc giải quyết TNDS trong VAHS còn có những hạn
chế nhất định, thậm chí cách hiểu và áp dụng còn lúng túng từ các cơ quan
xét xử. Các Tòa án thường chú trọng đến phần hình sự mà ít chú trọng đến
phần dân sự có liên quan trong vụ án. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật
về TNDS trong VAHS còn những sai sót nhất định đòi hỏi phải được nghiên
cứu, tổng kết để đưa ra các biện pháp khắc phục. Trong khoa học luật tố tụng
hình sự Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu về nội dung TNDS trong VAHS
tuy đã có những bài viết, luận văn nghiên cứu về vấn đề này nhưng những
nghiên cứu đó chưa thật sự sâu sắc, đầy đủ, chủ yếu chỉ dừng lại ở các bài
báo hoặc trong công trình nghiên cứu về hoạt động xét xử của Tòa án. Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020" yêu cầu: “Hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với
các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan
nhà nước, nhất là toà án trong việc bảo vệ các quyền đó...”[15]. Hoàn thiện
các quy định pháp luật về TNDS trong VAHS cũng là một nội dung quan
trọng trong công tác hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự và thủ tục tố
tụng tư pháp. Trên tinh thần đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa
1
những vấn đề lý luận và đặc biệt là thực tiễn về TNDS trong VAHS là rất cần
thiết. Do đó, việc nghiên cứu, đánh giá từ thực tiễn áp dụng nguyên tắc này
tại tỉnh Hải Dương để đưa ra những kiến giải hoàn thiện pháp luật và các giải
pháp bảo đảm thực hiện các quy phạm về vấn đề này trong giai đoạn hiện nay
không những có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là
vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc học viên
được giao đề tài "Trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh
Hải Dương" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc giải quyết TNDS trong VAHS đã được nghiên cứu ở nhiều
phương diện, phạm vi khác nhau nhằm làm sáng tỏ các vấn đề mang tính chất
lý luận và thực tiễn được công bố trong các công trình khoa học, giáo trình
giảng dạy, bài viết, bài bình luận trên các tạp chí như:
Cấp độ luận văn thạc sĩ luật học có đề tài "Nguyên tắc giải quyết vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự" của Nguyễn Thị Thu Hương bảo vệ năm 2009 tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; đề tài “Giải quyết vấn đề dân sự trong
vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang” của Kim Sơn
Trúc bảo vệ năm 2015 tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Tại Học
viện Khoa học xã hội có các Luận văn nghiên cứu liên quan đề tài này, đó là:
Luận văn của tác giả Lê Mạnh Hùng với đề tài: "Khía cạnh dân sự trong vụ
án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam" bảo vệ năm 2011; đề tài: "Vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai" của
tác giả Nguyễn Minh Hào bảo vệ năm 2013; đề tài “Vấn đề dân sự trong
vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thanh
Tùng bảo vệ năm 2016; đề tài “Trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự từ
thực tiễn tỉnh Hưng Yên” của tác giả Nguyễn Hải Thanh bảo vệ năm 2017.
Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố các bài báo khoa học đề cập
đến vấn đề TNDS trong VAHS như: Đinh Văn Quế, "Vấn đề kháng nghị
2
giám đốc thẩm về "dân sự" trong vụ án hình sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, số
9, 2005; Đỗ Văn Đại, "Bàn về việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình
sự'', Tạp chí Kiểm sát, số 9, 2007; Nguyễn Xuân Đang, "Giải quyết trách
nhiệm dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21, 2005;
Nguyễn Văn Tuân, "Thủ tục giải quyết việc kiện dân sự trong vụ án hình sự",
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9, 2011; Hoàng Thị Sơn, "Việc giải quyết
vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Luật học, số 6, 1998; Trọng Tài,
"Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều xác định sai vấn đề dân
sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6, 2006; Nguyễn Ngọc
Chí: "Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp
chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 26, 2010 v.v...
Qua các công trình trên cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu về
TNDS trong thực tiễn giải quyết các VAHS phát sinh trên địa bàn tỉnh Hải
Dương. Do vậy, việc giải quyết TNDS trong VAHS trên địa bàn một tỉnh cụ
thể cần được quan tâm nghiên cứu để góp phần giải quyết tốt hơn vấn đề dân
sự trong các VAHS, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về TNDS trong
VAHS, phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật từ thực tiễn tỉnh Hải Dương, đề
xuất một số giải pháp đảm bảo áp dụng đúng đắn các quy định pháp luật về
TNDS trong VAHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về TNDS trong VAHS;
- Nghiên cứu các quy định về TNDS trong VAHS theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam; đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định này trên địa
3
bàn tỉnh Hải Dương;
- Từ thực tiễn của tỉnh Hải Dương, đề xuất một số yêu cầu và giải pháp
đảm bảo áp dụng đúng các quy định pháp luật về TNDS trong VAHS trong
thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về TNDS trong VAHS theo luật tố tụng hình sự
Việt Nam.
Phạm vi không gian: nghiên cứu TNDS trong VAHS từ thực tiễn của
tỉnh Hải Dương.
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu việc giải quyết TNDS trong
VAHS tại tỉnh Hải Dương trong 5 năm từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; vận dụng một số nguyên lý, quy
luật và cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong nghiên cứu nội
dung của luận văn.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn gồm:
phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương
pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội
học để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề
tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về thực tiễn
áp dụng pháp luật về TNDS trong VAHS tại tỉnh Hải Dương, góp phần làm
rõ hơn những căn cứ thực tiễn hoàn thiện chế định TNDS trong VAHS.
Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo
giúp các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết TNDS trong VAHS.
4
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm dân sự trong vụ án
hình sự.
Chương 2: Quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình
sự và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng về trách nhiệm
dân sự trong vụ án hình sự.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phạm vi, mối quan hệ và
nghĩa về trách
nhiệm dân sự trong vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi
phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người
bị thiệt hại.
Dựa vào căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ mà các bên đã vi phạm, TNDS
được phân chia thành trách nhiệm ngoài hợp đồng và trách nhiệm do vi phạm
nghĩa vụ từ những cam kết, thỏa thuận.
Nếu nghĩa vụ được tạo lập do các bên cam kết, thỏa thuận mà người có
nghĩa vụ vi phạm thì trách nhiệm đó được coi là trách nhiệm theo hợp đồng.
Nếu nghĩa vụ được quy định bởi các quy định của pháp luật nói chung mà
người có nghĩa vụ vi phạm thì trách nhiệm đó được coi là trách nhiệm ngoài
hợp đồng.
Trách nhiệm dân sự bao gồm buộc xin lỗi, cải chính công khai, buộc
thực hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm [55].
Trong Bộ luật Dân sự không đưa ra định nghĩa về TNDS nhưng về mặt
khoa học pháp lý có thể hiểu TNDS là hậu quả bất lợi mà cơ quan nhà nước
có thẩm quyền áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật nói chung
và vi phạm nghĩa vụ nói riêng [29].
Trách nhiệm dân sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, phát sinh do vi
phạm nghĩa vụ dân sự. Người chịu TNDS nếu không thực hiện đầy đủ hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ đó thì phải chịu trách nhiệm đối với người bị
hại và trước pháp luật. TNDS là trách nhiệm bồi thường về vật chất và tinh
6
thần. Trong đó, trách nhiệm bồi thường về vật chất và tinh thần là trách nhiệm
bồi thường những tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi
phạm nghĩa vụ dân sự gây ra bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn
thiệt hại, thu nhập thực tế bị giảm sút. Người thiệt hại về tinh thần đối với
người khác do xâm phạm đến tính mạng sức khỏe, danh dự, uy tín của người
khác thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm còn phải bồi thường một khoản
tiền cho người bị hại.
Trách nhiệm dân sự có những đặc điểm sau: 1) Là một biện pháp cưỡng
chế của pháp luật được thể hiện dưới dạng trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân
sự và trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm đảm bảo quyền lợi cho bên bị
hại; 2) Cùng với các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ dân sự, TNDS sẽ
đem lại cho người thực hiện nghĩa vụ dân sự những hậu quả bất lợi; 3) TNDS
do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước thực thi theo trình tự và thủ tục
nhất định đối với những người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho
người khác.
Các yếu tố làm phát sinh TNDS gồm: 1) Có thiệt hại thực tế của bên bị
hại; 2) Có lỗi của người gây ra thiệt hại; 3) Có mối quan hệ nhân quả giữa lỗi
và thiệt hại thực tế. TNDS bao gồm TNDS trong hợp đồng và ngoài hợp
đồng. Bên cạnh một số điểm chung, TNDS trong hợp đồng và ngoài hợp đồng
còn có những điểm riêng. Nếu như TNDS theo hợp đồng phát sinh trên các cơ
sở những thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng thì TNDS ngoài hợp đồng
là các loại TNDS phát sinh bên ngoài, không phụ thuộc vào hợp đồng, việc
phát sinh TNDS thường là bất ngờ và không ai có thể lường trước được. Căn
cứ để xác định TNDS ngoài hợp đồng là hành vi vi phạm những quy định
pháp luật do Nhà nước ban hành dẫn đến thiệt hại, vì vậy đó có thể là hành vi
vi phạm những quy định pháp luật hình sự, hành chính. Đối với TNDS ngoài
hợp đồng thì về nguyên tắc bên gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ và kịp
thời, cả thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.
7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự
Trong VAHS, hành vi phạm tội xảy ra không chỉ xâm hại đến những
quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ mà còn xâm hại đến các quan
hệ dân sự, nên có hai loại trách nhiệm được đặt ra khi giải quyết VAHS, đó
là: TNHS và TNDS. Có nghĩa là, khi giải quyết VAHS mà tội phạm xâm hại
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản... của cá nhân, tổ chức
thì ngoài việc điều tra, truy tố, xét xử về hình sự, áp dụng, thi hành hình phạt
đối với người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh
và giải quyết phần TNDS trong vụ án một cách chính xác, khách quan, bảo vệ
các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Đây là vấn đề phức tạp trong lý luận và thực tiễn hiện nay có nhiều ý
kiến khác nhau. Ý kiến cho rằng, "trách nhiệm dân sự" trong VAHS chỉ bao
gồm những khoản tiền hoặc tài sản có liên quan đến việc trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 48 BLHS năm 2015
(sửa đổi, bổ sung năm 2017), hay nói cách khác là "trách nhiệm dân sự" trong
VAHS chỉ trong phạm vi "trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng"
theo tinh thần và nội dung Chương XX BLDS năm 2015. Trong khi đó, tác
giả Dương Văn Thắng cho rằng, vấn đề bồi thường thiệt hại trong VAHS
không phải là vấn đề dân sự thuần túy, mà vấn đề này có ảnh hưởng đến mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, thủ tục tố tụng về bồi thường trong
trường hợp này cũng có những đặc điểm riêng. Do vậy, vấn đề bồi thường
phải được quy định trong BLHS làm căn cứ cho việc giải quyết vấn đề dân sự
trong VAHS [28]. Tác giả Đinh Văn Quế lại cho rằng, "dân sự" trong VAHS
chỉ bao gồm những khoản tiền hoặc tài sản có liên quan đến việc trả lại tài
sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 42 BLHS năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009), hay nói cách khác là "dân sự" trong VAHS chỉ
trong phạm vi "trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" theo quy
định tại Chương V BLDS năm 1995 (nay là Chương XX BLDS năm 2015)
8
[14]. Đó là những quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh do tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của tổ chức, cá nhân bị tội phạm xâm hại.
Về vấn đề này, quan điểm của Tòa án nhân dân tối cao thể hiện trong Công
văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 về việc giải quyết vấn đề liên quan
đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong VAHS, thì phần dân sự trong VAHS
chỉ bao gồm việc đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt, đòi bồi thường giá trị tài sản
do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất, hoặc bị hủy hoại, buộc phải sửa
chữa tài sản bị hư hỏng, đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc
sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do
tài sản bị chiếm đoạt; đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Nói cách khác,
vấn đề dân sự trong VAHS chỉ được xác định trong phạm vi “Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.
Như vậy, TNDS trong VAHS được thể hiện bằng một quy định của
Điều 30 BLTTHS năm 2015 thông qua khái niệm "vấn đề dân sự trong vụ án
hình sự". Đây là một khái niệm rộng và khó xác định nội hàm. Vì Điều 30
BLTTHS năm 2015 không xác định rõ giải quyết "vấn đề dân sự" là giải
quyết những nội dung gì? Điều 30 BLTTHS có đoạn quy định: "... Trường
hợp VAHS phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có
điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết VAHS thì vấn
đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự" [16]. Do đó
có thể hiểu "vấn đề dân sự" trong VAHS gồm không chỉ là bồi thường mà cả
bồi hoàn. Theo tinh thần của Điều 30 BLTTHS thì "vấn đề dân sự" có thể
được giải quyết cùng VAHS và cũng có thể giải quyết riêng theo thủ tục tố
tụng dân sự. Về vấn đề này, tác giả Đinh Văn Quế cho rằng, "dân sự" trong
VAHS không phải là tất cả những gì có liên quan đến tiền hoặc tài sản mà
Tòa án xét xử và quyết định, vì trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan
tiến hành tố tụng còn áp dụng một số biện pháp tư pháp có liên quan đến tiền
9
hoặc tài sản như: tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; tịch
thu vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có;
tịch thu vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành; tịch thu hoặc trả lại vật, tiền bị
người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép; tịch thu hoặc trả lại vật,
tiền của người khác mà người phạm tội đã sử dụng vào việc thực hiện tội
phạm... Các quyết định này tuy có liên quan đến tài sản nhưng không phải là
quan hệ dân sự giữa những người tham gia tố tụng trong VAHS và được giải
quyết theo luật hình sự và tố tụng hình sự [14]. Vì vậy, "vấn đề dân sự"
không thể được quy định trong BLHS và không thể là căn cứ để giải quyết
vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra, mà nó phải
được quy định trong BLDS, bởi lẽ nó là "vấn đề dân sự" chứ không phải là
"vấn đề hình sự", mặc dù nó có quan hệ nhất định đến VAHS. Tuy nhiên
không phải tất cả những quy định của Chương XX BLDS năm 2015 về trách
nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng đều là "vấn đề dân sự" trong VAHS. Chỉ
có những thiệt hại nào do tội phạm gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
đó mới là "vấn đề dân sự" trong VAHS hay nói một cách chính xác hơn đây
là việc kiện dân sự đòi bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra. Căn cứ để xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm các yếu tố: Có tội phạm xảy
ra, có thiệt hại, có quan hệ nhân quả giữa tội phạm và thiệt hại.
Từ những phân tích trên, học viên đưa ra khái niệm TNDS trong
VAHS như sau: TNDS trong VAHS là việc bồi thường những thiệt hại do tội
phạm gây ra.
Từ khái niệm trên, có thể đưa ra những đặc điểm của TNDS trong
VAHS như sau:
Một là: Giải quyết TNDS trong VAHS là một nguyên tắc cơ bản của
luật tố tụng hình sự, thể hiện chính sách pháp luật của Nhà nước ta về việc
giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong VAHS. Về nguyên tắc, "phần dân
sự" thì đương sự có quyền tự định đoạt, do đó vấn đề dân sự trong VAHS
10
đương sự có quyền có thể khởi kiện vụ án dân sự riêng biệt với VAHS tại
Tòa dân sự. Tuy nhiên, phần dân sự của vụ án sẽ chưa được xét xử chừng nào
phần hình sự của vụ án chưa được xét xử xong. Nếu đã khởi tố hình sự, tức là
một khi cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố VAHS thì phải xem xét giải
quyết xong vấn đề hình sự rồi mới xem xét TNDS. Do đó, để thể hiện tính
nhân đạo trong pháp luật của nhà nước ta, BLTTHS năm 2015 xác định việc
giải quyết TNDS được tiến hành cùng với việc giải quyết VAHS. Nếu trong
VAHS phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều
kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết VAHS thì vấn đề
dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hai là: Giải quyết TNDS trong VAHS chỉ có phạm vi áp dụng đối với
những quan hệ về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh do việc
thực hiện tội phạm. Trên thực tế, có nhiều vấn đề dân sự phát sinh do việc
thực hiện tội phạm gây thiệt hại cho các quan hệ dân sự, bao gồm: Hành vi
phạm tội xâm hại đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tài sản thì
ngoài việc làm phát sinh TNHS còn làm phát sinh TNDS của những người
tham gia tố tụng. Hoặc những vấn đề có liên quan đến tiền và tài sản như:
tang vật, án phí, tịch thu vật, tiền hoặc tài sản do phạm tội mà có, đòi lại tài
sản, đòi bồi thường thiệt hại... Tuy nhiên, không phải tất cả vấn đề dân sự nào
liên quan đến tiền hoặc tài sản mà cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết cũng
đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của quy định tại Điều 30 BLTTHS. Bởi lẽ,
việc Tòa án áp dụng việc trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại
theo quy định tại Điều 48 BLHS và xử lý vật chứng theo quy định tại Điều
106 BLTTHS tuy có liên quan đến tài sản nhưng không phải là quan hệ dân
sự giữa những người tham gia tố tụng trong VAHS và được giải quyết theo
luật hình sự, tố tụng hình sự và trách nhiệm giải quyết thuộc về cơ quan tiến
hành tố tụng. Nói cách khác, TNDS trong VAHS bao gồm không chỉ vấn đề
bồi thường mà cả bồi hoàn và được xác định trong phạm vi "trách nhiệm bồi
11
thường thiệt hại ngoài hợp đồng" theo quy định tại Chương XX BLDS năm
2015 và đó là những quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh do tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của tổ chức, cá nhân bị tội phạm
xâm hại.
Ba là: Trách nhiệm dân sự trong VAHS được giải quyết cùng với việc
giải quyết vấn đề hình sự sau khi khởi tố VAHS. Quyết định khởi tố VAHS là
văn bản pháp lý xác định có sự việc phạm tội, làm cơ sở cho các hoạt động
điều tra. Do đó, khi VAHS có vấn đề dân sự phát sinh do việc thực hiện tội
phạm bị khởi tố thì việc dân sự đó được xem xét và giải quyết mà không cần
phải khởi kiện riêng bằng một thủ tục khác nữa. Theo thủ tục tố tụng dân sự
thì vụ án dân sự chỉ được đặt ra và xem xét giải quyết khi có đơn khởi kiện
của cá nhân, tổ chức. Trong VAHS, khi VAHS đã khởi tố vụ án mà có vấn đề
dân sự liên quan đến việc thực hiện tội phạm thì các cơ quan tiến hành tố tụng
sẽ xem xét giải quyết TNDS, chứng minh có thiệt hại về vật chất, tài sản... là
việc giải quyết phần hình sự của vụ án đồng thời cũng chính là việc chứng
minh mức độ thiệt hại, giá trị tài sản cần được bồi thường cho người bị hại.
Còn đối với trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây
ra được xác định là nguyên đơn dân sự trong VAHS thì trong quá trình giải
quyết VAHS người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân
theo nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, đó là việc
nguyên đơn có quyền yêu cầu hoặc không yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp này, BLTTHS năm 2015 quy định vấn đề dân sự chỉ được
giải quyết cùng VAHS khi họ có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bốn là: Quá trình giải quyết TNDS trong VAHS có sự tham gia của cơ
quan tiến hành tố tụng trong việc chứng minh, xác định mức độ thiệt hại do
hành vi phạm tội gây ra. Trong vụ án dân sự bình thường, về nguyên tắc thì
nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình thuộc trách nhiệm của đương sự,
trách nhiệm của bên đi kiện. Việc giải quyết TNDS trong VAHS cũng không
12
phải ngoại lệ. Tuy nhiên, trong trường hợp TNDS được giải quyết trong
VAHS, ở đây được hiểu là giải quyết việc tranh tụng dân sự trong VAHS và
do Tòa hình sự giải quyết, về nguyên tắc vì là được giải quyết bởi Tòa hình
sự nên khi xem xét giải quyết vụ án Tòa án phải áp dụng các quy định, trình
tự, thủ tục của luật tố tụng hình sự để giải quyết. Tuy nhiên, việc giải quyết
TNDS trong cùng VAHS về bản chất vẫn là giải quyết mối quan hệ dân sự,
do đó không thể áp dụng thủ tục hình sự để giải quyết TNDS mà phải áp
dụng thủ tục tố tụng dân sự để giải quyết. Hay nói cách khác, TNDS trong
VAHS phải được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự nằm trong thủ tục tố
tụng hình sự nói chung. Nếu vấn đề TNDS trong VAHS được tách ra để giải
quyết theo thủ tục tố tụng dân sự thông thường thì quá trình giải quyết vụ
việc đương nhiên áp dụng thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, việc giải quyết
đó chỉ được tiến hành khi đã có bản án hình sự.
Năm là: Trong quá trình giải quyết TNDS trong VAHS, Tòa án không
bắt buộc phải mở các phiên hòa giải giữa các đương sự như trong tố tụng dân
sự. Thủ tục mở phiên hòa giải không phải là thủ tục bắt buộc mà Tòa án phải
thực hiện khi chuẩn bị xét xử phiên tòa sơ thẩm TNDS trong VAHS. Tại
phiên tòa, Hội đồng xét xử cũng không bắt buộc phải tiến hành hòa giải giữa
các đương sự. Trong thực tiễn xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn tạo
điều kiện cho các bên tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết TNDS trong
VAHS. Trường hợp các đương sự tự nguyện thỏa thuận được với nhau thì
Tòa án công nhận việc thỏa thuận này. Tuy nhiên, Tòa án không ra quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự mà chỉ ghi nhận sự thỏa thuận này
vào phần quyết định của bản án hình sự. Đây là điểm khác biệt lớn so với tố
tụng dân sự vì trong tố tụng dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm bắt buộc phải tiến hành
mở các phiên hòa giải giữa các đương sự và việc hòa giải được tiến hành trước
và tại phiên tòa. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau thì Tòa án ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận của đương sự.
13
1.1.3. Phạm vi giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự
Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là một trong những
nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự và được ghi nhận trong Hiến pháp.
Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm" [35]. Nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ trong hoạt động tố tụng
hình sự, luôn đề cao và tôn trọng quyền con người. Cùng với nhiệm vụ đấu
tranh chống tội phạm, không để lọt tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng
còn bảo đảm các quyền cơ bản của công dân không bị xâm phạm, không vì
mục đích tìm ra tội phạm mà có những hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến
quyền của con người.
Điều 48 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định các
loại biện pháp tư pháp liên quan với thiệt hại mà tội phạm gây ra, đó là: biện
pháp tư pháp trả lại tài sản; biện pháp tư pháp sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại và biện pháp tư pháp buộc công khai xin lỗi. Việc quy định các biện pháp
tư pháp này là nhằm bảo vệ quyền sở hữu cũng như quyền bất khả xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người đã được Hiến pháp
quy định.
Khi một hành vi phạm tội xảy ra, đồng thời với quan hệ pháp luật hình
sự phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội thì cũng phát sinh quan hệ dân
sự giữa người phạm tội và người bị hại. Vì vậy, song song với việc giải quyết
vấn đề TNHS của người phạm tội thì việc giải quyết vấn đề TNDS, để khắc
phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra cũng được BLHS quy định. Việc
quy định các biện pháp tư pháp trả lại tài sản, sửa chữa, bồi thường thiệt hại;
buộc công khai xin lỗi là để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Khoản 1 Điều 48 BLHS quy định các nghĩa vụ của người phạm tội liên
quan đến thiệt hại về vật chất, đó là các nghĩa vụ sau:
- Trả lại tài sản chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp
14
pháp: Người phạm tội phải trả lại vật, tiền đã chiếm đoạt cho chủ tài sản hoặc
người quản lý hợp pháp, khi vật, tiền đó còn nguyên và được thu giữ, quản lý
trong quá trình điều tra hoặc người phạm tội đang cất giữ và không thuộc loại
Nhà nước cấm tàng trữ, sử dụng, lưu hành.
- Sửa chữa thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây
ra: Trong trường hợp tài sản của chủ tài sản bị hư hỏng do người phạm tội
gây ra thì họ phải sửa chữa thiệt hại gây ra khi có thể sửa chữa được. Việc
sửa chữa thiệt hại có thể bằng cách người phạm tội sửa chữa trước khi trả lại
hoặc thỏa thuận trả tiền chi phí sửa chữa cho chủ tài sản hoặc người quản lý
hợp pháp tài sản để họ tự mình hoặc thuê người sửa chữa.
- Bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội
gây ra: Đây là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nếu tài sản bị hủy hoại
hoặc hư hỏng đến mức không thể sửa chữa được hoặc việc hoàn trả lại tài sản
không thể thực hiện được do tài sản đã bị mất, bị tiêu dùng... thì người
phạm tội phải bồi thường thiệt hại vật chất đã gây ra. Thiệt hại vật chất do
hành vi phạm tội gây ra theo quy định tại Điều 589 BLDS, bao gồm: Tài sản
bị mất, bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng; lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai
thác tài sản bị mất, bị giảm sút; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc
phục thiệt hại; thiệt hại khác do luật quy định.
Nếu thiệt hại gây ra là thiệt hại về sức khỏe thì người phạm tội phải bồi
thường toàn bộ chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và
chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất
hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; chi phí phần thu nhập thực tế bị mất
của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị
thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc
thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
thiệt hại khác do luật quy định. Ngoài ra, người phạm tội phải bồi thường một
khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị hại gánh chịu
15
(Điều 590 BLDS).
Nếu thiệt hại gây ra là thiệt hại về tính mạng thì người phạm tội phải
bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm như nêu trên; chi phí hợp lý
cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có
nghĩa vụ cấp dưỡng. Ngoài ra, người phạm tội phải bồi thường một khoản
tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại hoặc người mà người bị thiệt hại
đã trực tiếp nuôi dưỡng hoặc người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại
(Điều 591 BLDS).
Khoản 2 Điều 48 BLHS quy định biện pháp buộc công khai xin lỗi.
Theo điều luật, người phạm tội gây thiệt hại về tinh thần có nghĩa vụ bồi
thường về vật chất và phải công khai xin lỗi người bị hại. Để đảm bảo thật sự
phát huy tác dụng của biện pháp này, thì việc công khai xin lỗi được thực
hiện tại phiên tòa trước sự chứng kiến của hội đồng xét xử và những người
tham dự phiên tòa và được ghi trong biên bản phiên tòa.
Biện pháp tư pháp buộc công khai xin lỗi thường được áp dụng đối với
người phạm các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người [26].
Như vậy, TNDS có liên quan đến tội phạm đã được quy định, đề cập
đến trong cả BLHS và BLDS.
Trong tố tụng hình sự, luật pháp cho phép khi xét xử VAHS thì giải
quyết luôn cả vấn đề dân sự. Việc xác định mức độ thiệt hại do tội phạm gây
ra có ý nghĩa không chỉ trong việc giải quyết TNDS mà còn có ý nghĩa trong
cả giải quyết vấn đề hình sự, vì trong nhiều trường hợp mức độ thiệt hại đó là
tình tiết để định tội, xác định mức độ lỗi và mức hình phạt cho bị cáo. Vì vậy,
xem xét vấn đề dân sự trong VAHS có tác dụng làm cho việc xét xử vụ án về
mặt hình sự cũng như về mặt dân sự được đầy đủ, toàn diện. Mặt khác, xem
xét vấn đề dân sự trong VAHS tiết kiệm thời gian và chi phí cho việc xét xử
vụ án, bởi vì cùng một vụ việc không phải tiến hành giải quyết hai lần: lần
16
thứ nhất buộc tội bị cáo, lần thứ hai liên quan đến TNDS. Đồng thời, giải
quyết TNDS trong VAHS tạo điều kiện cho người bị hại chứng minh là có
thiệt hại và mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra. Người bị thiệt hại có nhiều
điều kiện thuận lợi hơn cho việc bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, việc
bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra sẽ giải quyết như thế nào, phạm vi
đến đâu và theo thủ tục nào thì Điều 30 BLTTHS chưa quy định rõ.
Như ở phần trên đã phân tích, chỉ có những thiệt hại nào do tội phạm
gây ra và có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó mới là "trách nhiệm dân sự"
trong VAHS hay nói một cách chính xác hơn, giải quyết TNDS trong VAHS
là việc kiện dân sự đòi bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra. Căn cứ để xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm các yếu tố: Có tội phạm xảy
ra, có thiệt hại, có quan hệ nhân quả giữa tội phạm và thiệt hại.
Theo Công văn số 121/2003/KHXX thì chỉ được tách để giải quyết phần
hay một phần dân sự trong VAHS khi có yêu cầu, nếu phần dân sự được tách ra
không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng
nặng, giảm nhẹ TNHS của bị cáo và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(i) Chưa tìm được, chưa xác định được người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự.
(ii) Người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu.
(iii) Người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự đã có yêu cầu, nhưng không
cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ chứng cứ chứng minh theo yêu cầu của
cơ quan tiến hành tố tụng nói chung hoặc Tòa án nói riêng.
(iv) Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên
tòa và sự vắng mặt của họ thật sự trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự.
Vấn đề đặt ra là khái niệm "phần dân sự" có liên quan hoặc không liên
quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng, giảm
nhẹ TNHS của bị can, bị cáo.
Về "phần dân sự" có liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm
của bị can, bị cáo, Công văn số 121/2003/KHXX có đưa ra ví dụ sau:
17
- Xem thêm -