Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Từ ngữ ẩm thực trong tiếng việt và cách chuyển dịch sang tiếng anh...

Tài liệu Từ ngữ ẩm thực trong tiếng việt và cách chuyển dịch sang tiếng anh

.PDF
165
2367
79

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------- NGUYỄN THỊ DUNG TỪ NGỮ ẨM THỰC TRONG TIẾNG VIỆT VÀ CÁCH CHUYỂN DỊCH SANG TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ MÃ SỐ: 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: VŨ THỊ THANH HƯƠNG HÀ NỘI - 11/2009 MỤC LỤC MỤC LỤC .............................................................................................................. 1 MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 3 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................ 3 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................................. 5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 5 4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 6 5. Kết cấu của luận văn ..................................................................................................... 7 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ...................................................................... 7 1.1. Vấn đề định danh trong ngôn ngữ ................................................................... 8 1.1.1. Định danh là gì? ...................................................................................................... 8 1.1.2. Các phương thức định danh trong ngôn ngữ........................................................ 11 1.2. Ngôn ngữ và văn hóa .................................................................................... 13 1.2.1. Văn hóa là gì? ........................................................................................................ 13 1.2.2. Quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa ....................................................................... 17 1.2.3. Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam ............................................................................ 21 1.3. Ẩm thực Việt Nam trong văn hoá Việt ......................................................... 24 1.3.1. Văn hóa ẩm thực .................................................................................................... 24 1.3.2. Văn hóa ẩm thực trong tiếng Việt .......................................................................... 28 Tiểu kết ................................................................................................................. 31 CHƯƠNG 2: TỪ NGỮ ẨM THỰC TRONG TIẾNG VIỆT .............................. 33 2.1. Đặc điểm về xuất xứ và cấu tạo .................................................................... 33 2.1.1. Đặc điểm về xuất xứ............................................................................................... 33 2.1.1.1. Xuất xứ món ăn có nguồn gốc Hán ................................................................. 34 2.1.1.2. Xuất xứ món ăn có gốc Ấn - Âu .................................................................... 35 2.1.2. Đặc điểm cấu tạo ................................................................................................... 37 2.2. Đặc điểm định danh ...................................................................................... 41 2.2.1. Đặc điểm định danh của thành tố trung tâm ......................................................... 41 2.2.2. Đặc điểm định danh của các thành tố phụ ............................................................ 42 2.2.3. Các yếu tố định danh ............................................................................................. 49 2.2.3.1. Nguyên liệu ..................................................................................................... 50 2.2.3.2. Gia liệu ........................................................................................................... 53 2.2.3.3 Phương thức chế biến ...................................................................................... 55 1 2.2.4. Các mô hình định danh xét theo ngữ nghĩa ........................................................... 59 2.2.4.1. Định danh món ăn theo loại thực phẩm và các yếu tố ngữ nghĩa khác ............................. 60 2.4.2. Định danh món ăn theo nguyên liệu và các yếu tố ngữ nghĩa khác..................................... 64 2.3. Đặc điểm văn hóa hàm chứa trong từ ngữ ẩm thực Việt .............................. 67 2.3.1. Phản ánh văn hóa nông nghiệp ............................................................................. 67 2.3.2. Phản ánh văn hóa vùng miền ................................................................................. 72 2.3.3. Phản ánh triết lý âm dương ................................................................................... 76 Tiểu kết ................................................................................................................. 80 CHƯƠNG 3: CÁC THỦ PHÁP CHUYỂN DỊCH TỪ NGỮ ẨM THỰC TIẾNG VIỆT SANG TIẾNG ANH ..................................................................... 82 3.1. Khái niệm tương đương dịch thuật ............................................................... 82 3.1.1. Các quan niệm về tương đương dịch thuật ............................................................ 82 3.1.2. Các kiểu tương đương dịch thuật .......................................................................... 85 3.2. Các khả năng tương đương của từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang tiếng Anh ............................................................................................................ 87 3.2.1 Tương đương hoàn toàn ......................................................................................... 87 3.2.2. Tương đương bộ phận............................................................................................ 89 3.2.3. Không tương đương ............................................................................................... 92 3.3. Các thủ pháp chuyển dịch từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang tiếng Anh ......................... 93 3.3.1. Trực dịch ................................................................................................................ 94 3.3.2. Phiên âm ................................................................................................................ 95 3.3.3. Dịch căn ke (sao phỏng) ........................................................................................ 96 3.3.4. Dịch tương đương văn hóa ................................................................................... 97 3.3.5. Dịch giải thích (dịch tương đương mô tả) ............................................................. 98 3.3.6. Dùng các từ ngữ có nghĩa rộng hơn .................................................................... 100 Tiểu kết ............................................................................................................... 101 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 103 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ăn uống của con người không chỉ là hoạt động mang tính sinh học để duy trì sự sống mà còn mang tính văn hóa, gắn với một cộng đồng người với những thói quen, tập tục. Ăn uống và tập tục ăn uống bảo lưu khá đậm nét những dấu ấn văn hóa tộc người. Thông qua những món ăn, chúng ta có thể hiểu được phần nào đặc điểm tâm lý tộc người; hiểu được tập quán, hiểu được cung cách ứng xử của con người với môi trường. Ẩm thực trong tiếng Việt từ trước tới nay đã được một số nhà nghiên cứu quan tâm ở nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau, từ các món ăn, cách thức ăn, tập tục ăn uống cho đến các triết lý trong món ăn. Trong cuốn “Nữ công thắng lãm” của Hải thượng Lãn ông Lê Hữu Trác (1971) đã giới thiệu cách chế biến hơn 100 món ăn, Phạm Đình Hổ, thế kỷ 18 có cuốn “Vũ trung tuỳ bút” (1972) nói tới tục uống trà, Trần Việt Ngọc, thế kỷ 19 có “Đại Nam hội điển sự lệ” (1993) giới thiệu gần 150 món ăn và các loại đặc sản. Sang thế kỷ 20, có nhiều học giả nghiên cứu về các món ăn ở nhiều góc độ hơn, về văn hoá, lịch sử, quan hệ giữa tập quán ăn uống với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, trong đó đáng chú ý là cuốn “Đất lề quê thói” của Nhất Thanh, Vũ Văn Khiếu (1970) giới thiệu những món ăn ở Bắc Bộ, và cuốn “Văn hoá ẩm thực Việt Nam” các món ăn miền Bắc, Trung, Nam của Vũ Bằng, Mai Khôi, Thượng Hồng, Băng Sơn (2006) giới thiệu các đặc sản, đặc trưng ẩm thực từng miền, và những nét văn hoá đặc trưng của mỗi vùng miền thể hiện trong mỗi món ăn. Tập tục ăn uống cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm như tác phẩm “Tập quán ăn uống của người Việt ở vùng Kinh Bắc xưa” của Vương Xuân Tình (1999), trong đó đề cập đến lịch sử ăn uống, mối liên hệ khá thú vị giữa điều kiện tự nhiên, xã hội và cách thức ăn của người Kinh Bắc. Tất cả những công trình nghiên cứu này hầu hết đều nghiên cứu sâu về văn hoá, chưa có tác phẩm nào nghiên cứu về 3 tên các món ăn. Tuy nhiên, đã có một bài nghiên cứu “Đặc điểm các loại bánh ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thu Hằng (2007) trong đó tác giả đã mô tả cách thức cấu tạo tên các loại bánh và đưa ra những nhận xét bước đầu về những đặc trưng văn hoá của người Việt. Việc tìm hiều nội dung hay cách cấu tạo của từ ngữ ẩm thực giúp chúng ta có một cách nhìn toàn diện hơn về lớp từ ngữ ẩm thực của Việt Nam. Cùng với lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam hàng ngàn năm, văn hoá được kết tinh ở nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có ẩm thực. Ẩm thực là những món ăn thông thường trong những bữa cơm gia đình, cũng có khi lại là mâm cao cỗ đầy trong những dịp quan trọng như giỗ chạp, lễ tết, hiếu hỷ…làm cho đời sống vật chất của người Việt trở nên phong phú. Mỗi vùng miền lại có những dấu ấn riêng, bản sắc riêng trong bản sắc chung của dân tộc Việt. Người miền Bắc, người miền Trung hay người miền Nam có những cách thể hiện món ăn, chế biến, trình bày theo vùng khí hậu, vùng văn hoá rất đặc trưng. Mỗi vùng lại có đại diện tiêu biểu, miền Bắc, có món ngon Hà Nội, miền Trung có đặc sắc ẩm thực Huế với cách ăn cầu kỳ theo lối cung đình, người miền Nam có Sài Gòn với sự dung hoà của rất nhiều lối ẩm thực khác nhau. Thông qua những tên gọi món ăn, chúng ta phần nào hiểu được nét văn hoá, nét sinh hoạt của người Việt, ẩn sâu trong đó là những triết lý cuộc đời mà người Việt ý nhị gửi vào tên đó. Xã hội ngày càng phát triển, sự giao thoa giữa các nền văn hoá gần hơn, không phải sang tận Mỹ, Pháp chúng ta mới thưởng thức được hương vị của bánh Hamberger, hay KFC - những đồ ăn nhanh nổi tiếng của phương Tây và ngược lại, cũng không nhất thiết phải ở Việt Nam mới có thể biết đến tô phở bò, phở gà, mà có thể ngồi ở Cali - Mỹ bạn vẫn biết phở Việt Nam thế nào. Với xu thế phát triển như vậy, tên các món ăn cũng cần được chuyển dịch sang một thứ tiếng khác, phổ biến hơn, toàn cầu hơn. Sự cần thiết để 4 chuyển dịch tên các món ăn Việt sang tiếng Anh là rất lớn, không chỉ đáp ứng nhu cầu xã hội trong các dịch vụ ăn uống, mà cũng là một cách chuyển tải một phần văn hoá đến với bạn bè quốc tế. Ăn không chỉ là ăn nữa, mà còn hiểu được cả cách thưởng thức món ăn của người Việt, thưởng thức cách nêm nấu món ăn của người Việt, và cả những dấu ấn lịch sử, văn hoá của người Việt. Trong quá trình chuyển dịch món ăn Việt, có nhiều tên gọi gần như mất hết nét nghĩa văn hoá bao hàm trong đó, ví dụ: bánh phu thê được chuyển dịch sang tiếng Anh là Wedding Cake, người phương Tây đều hình dung ra loại bánh gato nhiều tầng thường được cô dâu và chú rể cắt trong tiệc cưới, chứ không phải thứ bánh làm bằng bột nếp, đỗ xanh, đường kính với những hàm ý sâu xa từ một tích truyện. Việc nghiên cứu cụ thể các trường hợp như vậy trong lớp từ ẩm thực sẽ giúp chúng ta chỉ ra những bất cập khi chuyển dịch từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang tiếng Anh. Trên đây là những lý do thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài "Từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt và cách chuyển dịch sang tiếng Anh" để làm luận văn thạc sỹ. Với nghiên cứu này, chúng tôi mong muốn góp phần tìm hiểu lớp từ vựng ẩm thực trong tiếng Việt và những cách thường được sử dụng để chuyển dịch sang tiếng Anh. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt và một phần từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt được chuyển dịch sang tiếng Anh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn này là muốn khảo sát, thống kê, phân tích và miêu tả một cách chi tiết về từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt và cách thức chuyển dịch chúng sang tiếng Anh. 5 Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Xây dựng một cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt. - Phân tích, miêu tả các đặc điểm về nguồn gốc và cấu tạo của từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt. - Phân tích, mô tả các đặc điểm văn hóa của từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt. - Tìm hiểu các kiểu dịch từ ngữ ẩm thực từ tiếng Việt sang tiếng Anh. Thực hiện được nhiệm vụ trên, luận văn " TỪ NGỮ ẨM THỰC TRONG TIẾNG VIỆT VÀ CÁCH CHUYỂN DỊCH SANG TIẾNG ANH " hy vọng sẽ góp phần vào việc nghiên cứu từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt sâu hơn, góp phần làm rõ những cách thức chuyển dịch từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang tiếng Anh. Trong xu thế hội nhập hiện nay, quảng bá văn hóa trong đó có ẩm thực là việc làm cần thiết, do đó dịch từ ngữ ẩm thực sang tiếng Anh để người nước ngoài có thể hiểu được và cảm nhận được phần văn hóa của Việt Nam là rất cần.. 4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu Tư liệu luận văn được thống kê từ các nguồn trong Từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý), từ điển LacViệt Anh - Việt, Internet, Menu của một số nhà hàng tại Hà Nội có nhiều khách nước ngoài đến thưởng thức như Quán ngon, Hot Rock, Bếp Việt, Brother Cafe…, một số tạp chí như Món ngon, Heritage. 1553 đơn vị từ ngữ ẩm thực tiếng Việt và 678 đơn vị từ ngữ ẩm thực đã được chuyển dịch sang tiếng Anh đã được thu thập và phân tích trong luận văn này. Những phương pháp chúng tôi sử dụng trong luận văn này là những phương pháp thông dụng dùng trong nghiên cứu ngôn ngữ như: 6 Phương pháp phân tích, mô tả cấu trúc và ngữ nghĩa. Phương pháp thống kê ngôn ngữ học. Phương pháp đối chiếu từ vựng. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm 3 chương với các nội dung như sau: Chương 1: Trình bày các vấn đề lý thuyết liên quan như: Vấn đề định danh, văn hóa ẩm thực, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, ẩm thực trong ngôn ngữ và ẩm thực trong tiếng Việt. Đây là chương lý thuyết làm cơ sở cho những nghiên cứu của chương 2 và chương 3. Chương 2: Tập trung phân tích các đặc điểm về nguồn gốc, cấu tạo, định danh, ngữ nghĩa và yếu tố văn hóa của từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt. Chương 3: Chương cuối của luận văn, ngoài trình bày một số lý thuyết về dịch thuật, vấn đề tương đương trong dịch thuật, luận văn chủ yếu tập trung vào phân tích các cách thức chuyển dịch từ ngữ ẩm thực tiếng Việt sang tiếng Anh. Ngoài phần nội dung, luận văn còn có các phụ lục về từ ngữ ẩm thực trong tiếng Việt và từ ngữ ẩm thực tiếng Việt được chuyển dịch sang tiếng Anh. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT Để có cơ sở lý thuyết làm nền tảng cho những vấn đề cần giải quyết của luận văn, chúng tôi đã cố gắng tiếp cận những tư tưởng, ý kiến có giá trị của các nhà nghiên cứu. Chương này, chúng tôi trình bày một số vấn đề lý 7 thuyết liên quan đến nội dung của luận văn như vấn đề định danh trong ngôn ngữ, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, ẩm thực Việt Nam trong văn hóa Việt Nam. 1.1. Vấn đề định danh trong ngôn ngữ 1.1.1. Định danh là gì? Khái niệm này được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, theo tác giả Vũ Thế Thạch (1996), định danh là sự cấu tạo các đơn vị ngôn ngữ có chức năng dùng gọi tên, chia tách các đoạn của hiện thực khách quan và trên cơ sở đó hình thành những khái niệm tương ứng về chúng dưới dạng các từ, cụm từ, ngữ và câu. Khi bàn về bản chất của quá trình định danh ngôn ngữ, tác giả Hoàng Lai (1970) đã trích dẫn ý kiến của Viện sĩ hàn lâm khoa học Nga B. A Serebrenikov về những nhân tố để tạo ra những đơn vị định danh. Đó là: - Những tri thức lịch sử, xã hội, văn hoá cho phép nhận ra những đặc điểm của sự vật, hiện tượng, chức năng của chúng, cần thiết phải phân biệt chúng với những sự vật, hiện tượng khác bằng cách cho chúng những tên gọi riêng. - Cá nhân cũng giữ vai trò quan trọng vì chính cá nhân đã sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng để tạo ra các đơn vị định danh mới. - Tổ hợp âm, từ, từ tổ là phương tiện làm tên gọi cho sự vật, hiện tượng. Theo triết học Mac - Lenin, các sự vật phân biệt nhau chính là ở “chất” của nó. Chất là “sự thống nhất hữu cơ những thuọc tính, những đặc trưng phân biệt sự vật hay hiện tượng với sự vật hay hiện tượng khác” (Hoàng Lai, hiệu đính bản dịch Ngôn ngữ học đại cương, Matxcơva, 1970). 8 Một nhân tố quan trọng khác ảnh hưởng tới số phận của các đơn vị định danh mới là đơn vị định danh đó được xã hội chấp nhận hay không. Dầu sao cộng đồng xã hội cũng là nhân tố quyết định trong việc tạo đơn vị định danh mới. Và một nhân tố không kém phần quan trọng trong quá trình định danh là đặc điểm cấu trúc ngôn ngữ hay nói rộng hơn là loại hình ngôn ngữ. Chẳng hạn tiếng Việt, sử dụng các loại từ khác nhau như cái, cục, con, chiếc theo tuỳ theo sự phạm trù hoá. Theo đó thì từ được nghiên cứu từ quan điểm của mối liên hệ sự vật của nó với thế giới khách quan ngoài ngôn ngữ. Còn bình diện ngữ nghĩa của việc nghiên cứu từ xem xét nội dung của các đơn vị từ vựng từ quan điểm của mối liên hệ bên trong hệ thống, bên trong từ. Việc nghiên cứu những đặc trưng của sự biểu hiện bằng các đơn vị ngôn ngữ trước hết gắn liền với việc nghiên cứu từ trong mối quan hệ của nó với đối tượng, sự vật xung quanh. Trong các ngôn ngữ khác nhau, các phương pháp định danh cũng khác nhau, định danh theo từ căn, định danh từ phái sinh, định danh tổ hợp từ, định danh gián tiếp trên cơ sở các ý nghĩa liên hệ của từ. Bằng các đơn vị, ngôn ngữ phản ánh hai phạm vi thực tế khách quan có quan hệ chặt chẽ với nhau: phạm vi sự vật, hiện tượng (danh từ) và phạm vi các thuộc tính, các quan hệ của sự vật hiện tượng đó (động từ, tính từ, trạng từ). Danh từ thường biều hiện sự vật, hiện tượng ấy. Một số nhà nghiên cứu của Việt Nam cũng đưa ra những nhận đinh về vấn đề định danh như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Văn Tu, Lý Toàn Thắng… Theo nhà nghiên cứu Lý Toàn Thắng (2002), chức năng định danh của tín hiệu ngôn ngữ được thể hiện trong chức năng giao tiếp và chức năng làm công cụ của tư duy. Cũng theo đó, các tên gọi là sản phẩm của tư duy trừu 9 tượng, chúng xuất hiện do nhu cầu phân biệt, cần nhận thức các sự vật, đối tượng và nói lên những kinh nghiệm, hiểu biết của con người về các sự vật, đối tượng đó. Quá trình định danh sự vật phải tuân thủ các nguyên tắc tâm lí ngôn ngữ có tính phổ quát vốn chi phối: - Cách thức phân loại các sự vật; - Cách thức phạm trù hoá các sự vật; Còn theo tác giả Đỗ Hữu Châu (1983), chức năng định danh chỉ là một dạng của chức năng biểu vật. Từ đã có chức năng định danh thì có chức năng biểu vật. Nhờ các tên gọi mà sự vật, hiện tượng thực tế khách quan tồn tại trong lý trí của chúng ta, phân biệt được với các sự vật, hiện tượng khác cùng loại và khác loại. Vì các tên gọi làm cho tư duy trở nên rành mạch sáng sủa, cho nên một sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan chỉ thực sự trở thành một sự vật được nhận thức, một sự vật của tư duy khi nó đã có một tên gọi trong ngôn ngữ. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Tồn (2002) nhấn mạnh đến đặc trưng văn hoá dân tộc trong vấn đề định danh. Đặc trưng văn hoá dân tộc của định danh ngôn ngữ được biểu hiện trước hết ở việc lựa chọn đặc trưng của đối tượng để làm cơ sở cho tên gọi của nó. Trong quá trình tạo ra các từ, có ý nghĩa lớn lao là vấn đề lựa chọn đặc trưng để lấy làm đối tượng để là cơ sở cho tên gọi đối tượng. Vai trò của việc lựa chọn này bị quy định bởi một loạt nhân tố, trong đó một phần thuộc về những đặc điểm sinh lý của con người, một phần thuộc về cơ chế của lời nói. Mỗi khách thể ở thế giới khách quan có một hệ thống những thuộc tính và mối liên hệ khác nhau. Quá trình con người nhận thức được đặc tính, hay đặc trưng nào đó là tiêu biểu, để nó chính là nó và để khu biệt nó với những đối tượng khác thì những đặc trưng ấy cũng có tên gọi trong ngôn ngữ. Vấn 10 đề này có liên quan tới việc sử dụng đối tượng nào đó trong thực tiễn và phụ thuộc vào nhu cầu, mục đích của một cộng đồng ngôn ngữ nhất định. Đó là lí do mà mỗi dân tộc chọn đặc điểm để định danh theo cách riêng của mình, và cùng một đối tượng trong các ngôn ngữ khác nhau sẽ được gọi tên theo các cách khác nhau. Cùng một đối tượng có thể được gọi tên trong các ngôn ngữ theo cách khác nhau phụ thuộc vào đối lập kiểu nào về tâm lí, lịch sử, dân tộc và xã hội đã làm cơ sở cho sự định danh. Quan điểm trên hoàn toàn hợp lý, hiển nhiên, sự đối lập làm cơ sở cho sự định danh ấy phụ thuộc vào chủ thể định danh. Việc tách chọn đặc trưng của các khách thể khi gọi tên chúng cũng làm nên đặc trưng văn hoá - dân tộc của từ vựng trong một ngôn ngữ nhất định. Chính việc chọn đặc trưng làm cơ sở cho tên gọi đối tượng đã quy định hình thái bên trong của từ. Đó là đặc trưng định danh được biểu thị bằng từ và tham gia với tư cách một thành tố đặc biệt vào thành phần ý nghĩa từ vựng của từ. Như vậy có thể nói, việc tìm hiểu một lớp từ nào đó trong vốn từ vựng của mỗi tộc người sẽ giúp chúng ta hiểu biết thêm về cách tư duy, cách lựa chọn đặc điểm để mỗi sự vật “có tên”, và cả lối sống, văn hoá của cư dân, tộc người đó. Và vì vậy, có thể nói thông qua nghiên cứu lớp từ ẩm thực tiếng Việt chúng ta sẽ có thể hiểu biết về nếp sinh hoạt mà biểu hiện cụ thể là các món ăn trong đời sống, hiểu về “văn hoá ứng xử với môi trường”, hiểu về nếp sinh hoạt của cư dân lúa nước, về các món ăn các vùng làm nên những nét đặc trưng văn hóa ở người Việt. 1.1.2. Các phương thức định danh trong ngôn ngữ Trong bài nghiên cứu của Vũ Thế Thạch (1996) có chỉ ra rằng khi định danh một khái niệm mới, chủ thể định danh có thể sử dụng một trong ba cách sau: 11 - Sử dụng một đơn vị từ vựng đã có sẵn trong ngôn ngữ và chuyển nghĩa nó. Tên gọi được tạo ra bằng cách này chính là đơn vị định danh thứ sinh. - Tạo ra một đơn vị hoàn toàn mới. Đó là đơn vị định danh nguyên sinh. - Vay mượn từ ngôn ngữ khác. Trong các ngôn ngữ khác nhau, các phương thức định danh, các dạng định danh cũng khác nhau. Theo cấu trúc hình thái học có thể là: - Định danh từ phái sinh. - Định danh tổ hợp từ. - Định danh trên cơ sở nghĩa liên hệ của từ. Việc xác định các dạng định danh trong tiếng Việt liên quan tới việc xác định đặc điểm cấu tạo từ của nó. Trong tiếng Việt có một số lượng lớn một âm tiết. Đó là những đơn vị định danh cơ bản, định danh gốc, dạng định danh tạo từ như đất nước, đi lại, ăn chơi…; định danh tổ hợp từ như liên hợp quốc, nhà nghỉ… Tác giả Nguyễn Đức Tồn (2002) đã tổng hợp hai trường hợp về cách định danh. Theo ý kiến của các đại biểu thuộc trường phái ngôn ngữ học Pra-ha ta có: - Định danh bằng từ và từ tổ (đây là định danh từ vựng). - Định danh bằng câu (mệnh đề). - Định danh bằng văn bản. Cũng có ý kiến cho rằng có những cách định danh khác như: - Sử dụng tổ hợp ngữ âm biểu thị đặc trưng nào đó trong số các đặc trưng của đối tượng này. - Mô phỏng âm thanh. 12 - Phái sinh. - Ghép từ. - Cấu tạo các biểu ngữ đặc ngữ. - Sao phỏng - Vay mượn Theo quan điểm của tác giả cũng cần bổ sung thêm phương thức định danh rất phổ biến và quan trọng đó là sự chuyển nghĩa của từ. Cách định danh nay thường được gọi là định danh thứ sinh. Nhìn chung, mỗi dân tộc, mỗi loại hình ngôn ngữ khác nhau có những lựa chọn khác nhau để định danh. Tư duy, văn hóa của dân tộc có ảnh hưởng lớn đến việc định danh, đến việc lựa chọn yếu tố, tính chất nào của sự vật để định danh. So sánh giữa tiếng Anh và tiếng Việt, tiếng Anh thuộc loại hình ngôn ngữ biến hình, từ được cấu tạo bởi căn tố (yếu tố gốc) và phụ tố, trong khi tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập (từ ngữ được cấu tạo chủ yếu là ghép các thành tố). Đặc trưng văn hóa dân tộc bộc lộ rõ ràng ở phạm trù hóa hiện thực và bức tranh ngôn ngữ về thế giới. Chính vì vậy khi chuyển dịch văn bản Việt sang văn bản Anh hoặc ngược lại cũng sẽ có nhiều yếu tố không tương đương, một phần do văn hóa khác biệt - một phương Đông (kín đáo, thâm trầm, có xu thế hướng nội), một phương Tây (cởi mở, có xu thế hướng ngoại), một phần do hai loại hình ngôn ngữ khác nhau, cách thức định danh khác nhau. Do vậy, trong quá trình chuyển dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia tương đương hoàn toàn gần như không có. 1.2. Ngôn ngữ và văn hóa 1.2.1. Văn hóa là gì? 13 Có hàng trăm định nghĩa về văn hoá nhưng chưa có một định nghĩa thống nhất và mang đầy đủ ý nghĩa. Ở góc độ chung nhất, văn hoá thường được hiểu - đó là phẩm chất đặc hữu chỉ thấy ở con người, nó là cái để phân biệt giữa người và động vật. Như vậy, văn hoá là dấu ấn đặc trưng cho xã hội loài người, khác về cơ bản với tổ chức của xã hội động vật, nó là cái do học được mà có, không phải cái kế thừa theo con đường sinh học. Văn hoá gắn với ý niệm - thế giới tinh thần của con người, nó được truyền lại trong lịch sử xã hội loài người, bằng việc sử dụng các hình thái biểu tượng - ngôn ngữ. Nhà nghiên cứu triết học Phạm Duy Đức (2008) dẫn lời nhà triết học và cổ sinh học người Pháp - Viện sĩ Teilhard de Chardin (1881- 1955) đưa ra cách giải thích như sau về văn hóa: Trái đất hình thành và phát triển đến một giai đoạn nào đó thì xuất hiện sự sống, ông gọi đó là sinh quyển. Tiếp đó là sự ra đời của tri quyển - quyển về ý thức, tinh thần của con người. Theo ông, tri quyển là văn hóa. Như vậy, văn hóa thuộc bình diện ý thức tinh thần của con người. Theo Nhà văn hóa học Phan Ngọc (2001): Văn hóa không phải là kỹ thuật, không phải là hoạt động tinh thần hay hoạt động chính trị xã hội, cũng không phải là phong tục tập quán, mà “văn hóa là dấu ấn của một tập thể cộng đồng trên mọi hiện tượng tinh thần, vật chất, một sản phẩm của tập thể cộng từ tín ngưỡng, phong tục cho đến cả sản phẩm công nghiệp bán ra thị trường” Nhà sử học Trần Quốc Vượng (2000) khẳng định: “Văn hóa là sự thích nghi và biến đổi thiên nhiên, thiên nhiên đặt ra trước con người những thử thách, những thách đố. Văn hóa là sản phẩm của con người, là phản ứng, là sự trả lời của con người trước những thách đố của tự nhiên”. Văn hóa xét ở mỗi cá nhân cũng như ở mỗi cộng đồng còn là do lịch sử hun đúc nên. Những số phận, vận mệnh lịch sử khác nhau tạo nên những văn hóa khác nhau. Theo tác giả, văn hóa, theo nghĩa rộng, là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người, bao 14 hàm cả kỹ thuật, kinh tế… để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với một hệ thống những chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm… tạo nên phong cách diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người. Như vậy, thì phải xuát phát từ những điều kiện tự nhiên vốn là một sản phẩm của tự nhiên, là một phần của tự nhiên, đứng đối diện với tự nhiên mà tạo thành văn hóa rồi sau đó là những điều kiện lịch sử để nhìn nhận về cội nguồn và bản sắc của nền văn hóa Việt Nam. Tác giả Lê Quang Thiêm (1998) lại xem xét văn hóa từ quan điểm giá trị "văn hóa là giá trị bao chứa tính ổn định, bền vững nhất định. Nó được tích lũy và lũy và truyền đạt từ thế hệ này sang thế hệ khác, nó giúp cho lịch sử xã hội, vận động, phát triển, nối kết với truyền thống". Tác giả Trần Ngọc Thêm (1996) đã đưa nhận định phạm vi khái niệm và cấu trúc giữa văn hóa và văn minh. Theo ông, văn hóa chứa đựng cả các giá trị vật chất và tinh thần, mang tính dân tộc và có bề dày lịch sử. Tuy nhiên, văn hóa gắn bó nhiều hơn với nền nông nghiệp phương Đông. Còn văn minh chỉ một trình độ thiên về giá trị vật chất và kỹ thuật, có tính quốc tế và gắn bó nhiều hơn với sự phát triển của phương Tây đô thị. Nhà nghiên cứu Trần Đức Thảo (1996) dẫn ý kiến của Krobe và Kluckholm về văn hóa cho rằng, văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra, từ nếp ăn, nếp ở, những thói quen từ cuộc sống, lịch sử bao gồm tư tưởng, giá trị và con người tạo ra, là lịch sử bao gồm những tư tưởng, khuôn mẫu và giá trị, là sự lựa chọn, là sự học hỏi, cả sự lựa chọn, là sự học hỏi, văn hóa hình thành trên nền các biểu trưng dân tộc và văn hóa vừa là sự trừu tượng của hành vi vừa là sản phẩm của hành vi. Mọi nền văn hóa đều được hình thành chủ yếu dựa vào cách người ta ứng xử, cảm giác và phản ứng. 15 Nhìn chung thuật ngữ văn hóa hàm chỉ rất nhiều mặt, từ những tập tục lâu đời, từ những nghi lễ truyền thống, từ những nếp sinh hoạt rất đời thường đến cả lối sống hiện đại.. Văn hoá, nói theo một cách khác là tất cả những gì làm cho cộng đồng này khác biệt với các cộng đồng khác. Đã có rất nhiều định nghĩa về văn hoá, nhưng chúng ta có thể hiểu một cách tương đối đầy đủ về văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị, vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn và tương tác giữa con người với con người, với môi trường tự nhiên và xã hội. Chúng ta có thể xem xét văn hóa trong mối quan hệ gắn bó giữa cái ta với thế giới tự nhiên, môi trường xã hội trải dài trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của các cộng đồng tộc người và cuối cùng là giữa cái ta với chính cái ta. Vậy phải xem xét mối quan hệ và lối ứng xử giữa con người với thế giới tự nhiên để có cái nhìn toàn diện về văn hóa. Thế giới tự nhiên bao gồm tất cả những gì thiên nhiên dành cho con người. Thế giới tự nhiên có vai trò vô cùng quan trọng, mỗi cộng đồng tộc người sống trong môi trường tự nhiên khác nhau sẽ hình thành nên những lối sống khác nhau. Ví dụ như người đồng bằng Bắc Bộ ở Việt Nam, nhờ những con sông chứa đầy phù sa và khí hậu nhiệt đới nên họ đã sớm hình thành nền văn minh nông nghiệp lúa nước, còn những người ở vùng cao hơn họ lại trồng nương đốt rẫy, du canh du cư. Môi trường tự nhiên đó cũng hình thành nên các lối ứng xử khác nhau, các giá trị khác nhau được biểu hiện qua các biểu trưng văn hóa. Cách ăn, cách mặc mang những nét đặc trưng của từng tộc người. Chính môi trường tự nhiên cũng hình thành nên những thói quen ăn khác nhau trong cùng một đất nước, như người miền Trung Việt Nam thích ăn cay, người miền Nam lại thích ăn ngọt. 16 Quan hệ ứng xử giữa con người và môi trường xã hội là chỉ sự tương tác và các khuôn mẫu ứng xử giữa con người với con người bao gồm trong gia đình và ngoài xã hội. Đó chính là mối quan hệ và hành vi ứng xử giữa con người với các hình thức kinh tế, hình thái chính trị, hệ thống luật pháp, các hình phạt, các quy tắc ứng xử, các hệ thống giá trị, các chuẩn mực, phong tục tập quán… Văn hóa, nói một cách ngắn gọn, là tất cả những gì làm cho cộng đồng này khác biệt với cộng đồng khác. Xét về mặt thành phần, văn hóa là một hệ thống đa tầng, đa chiều đan xen biện chứng, cơ bản dựa trên các yếu tố nội sinh (bản địa, dân tộc) kết hợp với các yếu tố ngoại sinh (ngoại lai, quốc tế). Nhà nghiên cứu văn hóa Hữu Ngọc (2008) đã trích định nghĩa về văn hóa của UNESCO: Văn hóa là một tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối tư duy, cách ứng xử (người với thiên nhiên, người với người) và các mối quan hệ trong một cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng. 1.2.2. Quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa Văn hóa và ngôn ngữ có mối quan hệ khăng khít với nhau. Văn hóa là nội dung và ngôn ngữ là phương tiện truyền tải nội dung đó. Cùng với cách ăn, mặc, ở, đi lại của mỗi cộng đồng, ngôn ngữ cũng là một nhân tố rất quan trọng của văn hoá, ngôn ngữ không chỉ phản ánh về tư tưởng, tình cảm của người sử dụng ngôn ngữ đó mà còn là phương tiện lưu giữ tốt nhất nét văn hoá, truyền thống, phong tục tập quán, ứng xử với thiên nhiên và xã hội của một dân tộc. Do ngôn ngữ được sinh ra trong quá trình lao động, sáng tạo của con người nên ngôn ngữ gắn chặt với văn hoá, trực tiếp phản ánh cách tri giác và 17 tư duy thế giới của cộng đồng dân tộc, mà văn hoá dân tộc không thể không liên quan đến cách tri giác và tư duy ấy. Có nhiều nhà khoa học mô tả mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa và có nhiều ý kiến khác nhau song đều có điểm chung là văn hóa bao trùm ngôn ngữ và ngôn ngữ phản chiếu hình ảnh của văn hóa. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng việc các đặc trưng văn hóa dân tộc thể hiện ở việc định danh (gọi tên, chia tách các đoạn của hiện thực khách quan trên cơ sở đó hình thành những khái niệm tương ứng về chúng dưới dạng các từ, cụm từ, ngữ và câu) Về vấn đề mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá, ngôn ngữ là một lăng kính mà qua đó người bản ngữ tri giác thế giới, và do đó quy định cách tư duy của họ về hiện thực, thành thử có thể nói rằng mỗi ngôn ngữ cầm tù cái dân tộc sử dụng nó trong một thế giới riêng, và một bên là phổ quát luận của Chomsky, chủ trương mấy nghìn thứ tiếng được các ngôn ngữ sử dụng trên thế giới chẳng qua là những dị bản địa phương của một hệ thống ngôn ngữ duy nhất thể hiện những nguyên lý phổ quát chi phối cách khái niệm hoá thế giới của chúng ta. Những ảnh hưởng của các nhân tố văn hoá đối với cấu trúc của ngôn ngữ là điều khó có thể hồ nghi, tuy không phải bao giờ cũng dễ chứng minh. Và do đó, ít ra cũng có thể tìm thấy những sự kiện ngôn ngữ nào đó có thể cắt nghĩa được bằng những sự kiện thuộc về bản sắc ngôn ngữ của khối cộng đồng nói thứ tiếng đó, và đến lượt nó, các sự kiện ngôn ngữ lại có thể gợi cho ta những điều hữu ích về cách cảm nghĩ của người bản ngữ và từ đấy về nền văn hoá của họ. Nhìn chung, ngôn ngữ và văn hoá có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, chúng phát triển trong sự tác động qua lại lẫn nhau. Các phạm vi của 18 ngôn ngữ và văn hoá gắn bó lẫn nhau, nhưng thường thường, tuy nét quyết định sự tồn tại của nền văn hoá bằng ngôn ngữ, nhưng chính ngôn ngữ lại cũng là thành tố độc lập của nền văn hoá dân tộc. Việc xem ngôn ngữ như thành tố quan trọng nhất của văn hoá và chú ý tới chức năng xã hội của nó, nhấn mạnh mối quan hệ lẫn nhau giữa ngôn ngữ và linh hồn. Là một thành tố của nền văn hoá tinh thần, ngôn ngữ giữ vị trí đặc biệt trong nó. Bởi vì ngôn ngữ là phương tiện tất yếu và là điều kiện cho sự nảy sinh, phát triển và hoạt động của những thành tố khác trong văn hoá. Ngôn ngữ là một trong những thành tố đặc trưng nhất của bất cứ nền văn hoá dân tộc nào. Chính trong ngôn ngữ, đặc điểm của nền văn hoá dân tộc được lưu giữ lại rõ ràng nhất. Chính ngôn ngữ được một dân tộc sáng tạo ra và của riêng dân tộc này đã thực hiện chức năng đặc trưng dân tộc. Với tư cách là đặc điểm đặc thù của một nền văn hoá dân tộc, có thể xem ngôn ngữ theo hai hướng: “hướng nội” - khi đó ngôn ngữ đóng vai trò nhân tố chính thống nhất dân tộc và “hướng ngoại”- trong trường hợp này, ngôn ngữ là dấu hiệu cơ bản làm phân ly một dân tộc. Chính do ngôn ngữ có sự kết hợp biện chứng hai chức năng đối lập như vậy nên ngôn ngữ đã thực sự là phương tiện tự bảo toàn của một dân tộc, và đồng thời cũng là phương tiện tách biệt dân tộc này khỏi các nền văn hoá dân tộc khác. Tác giả Lý Toàn Thắng (2002) nhận xét về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá như sau: ngôn ngữ là thành tố cơ bản và quan trọng của văn hoá, chi phối nhiều thành tố văn hoá khác; là một công cụ có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của văn hoá. Nếu nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá bộc lộ ở ba phương diện: ngôn ngữ biểu hiện hiện thực văn hoá, ngôn ngữ là hiện thân của hiện thực văn hoá và ngôn ngữ biểu trưng hiện thực văn hoá. Đó là phạm vi không gian, thời gian, động thực vật, màu sắc, quan hệ họ hàng, bộ phận cơ thể con người… 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan