PHẦN MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam ta đang ngày một tiến lên
sánh vai cùng các cường quốc năm châu trên thế giới, đang dần khẳng định vị
thế của mình với các nước bạn về một nền độc lập, tự do, dân chủ.
Để đạt được thành quả này là cả một quá trình đấu tranh gian khổ với
những hy sinh mất mát không thể bù đắp được của bao thế hệ cha ông chúng ta.
Và cũng để có và giữ được nền độc lập dân chủ của nước nhà thì ngoài sự cống
hiến, hy sinh của cả một dân tộc, trong đó có những người con “kiệt xuất” với
phẩm chất anh dũng, kiên cường, không sợ khó, sợ khổ, sẵn sàng hy sinh cho tổ
quốc. Người thanh niên tên Nguyễn Tất Thành đã một mình bôn ba khắp năm
châu bốn bể để tìm ra con đường mang lại độ lập tự do cho tổ quốc mình. Nhắc
tới người là nhắc tới một vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hoá của nhân
loại, một vị lãnh tụ tài ba và đặc biệt là người cha già kình yêu của dân tộc. Học
tập ở người là học tập cả một kho tàng kiến thức quý giá mà không một sách vở
nào có thể dạy nổi.
Thật may mắn cho chúng ta vì được sinh ra, lớn lên và hưởng trọn những
thành quả mà cả đời người đã cống hiến, Qua thời gian học tập, nghiên cứu, tìm
tòi trên sách vở, báo chí, đặc biệt là sự chỉ dạy tận tình của Thầy cô giúp chúng
ta tiếp cận với hệ thống tư tưởng của người, cho chúng ta hiểu được tầm quan
trọng của hệ thống tư tưởng này trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.
Hơn nữa đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn thế nào là độc lập, tự do, dân chủ. Chính
vì tầm quan trọng này và mong muốn được tìm hiểu, học hỏi cũng như chia sẻ
những hiểu biết nhỏ bé của mình mà nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ”.
Để hoàn thành bài viết của mình, chúng tôi đã sử dụng một số phương
pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, phương pháp phân tích, so
sánh, diễn dịch, quy nạp kết hợp với phương pháo tổng hợp để làm rõ vấn đề
của bài viết. để hiểu rõ vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ” xin kính
mời Thầy và các bạn cùng đi vào phần nội dung chi tiết.
1
PHẦN NỘI DUNG
I. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1. Dân chủ là gì?
Theo định nghĩa trong từ điển, Dân chủ “là chính phủ được thành lập bởi
nhân dân trong đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện
bởi nhân dân hoặc bởi các đại diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử tự do”.
Theo Abrham Lincoln, dân chủ là một chính phủ “của dân, do dân và vì dân”.
2. Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Có lẽ không có cách gì tìm hiểu về tư tưởng một con người tốt hơn là qua
bài viết của người đó ở những thời kì lịch sử khác nhau. Xuyên suốt các thời kì
lịch sử, có lẽ nguyện vọng lớn nhất của cụ Hồ là xây dựng một Việt Nam “ Dân
chủ mới “, một nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa như các nước văn minh trên
thế giới.
Giở lại lịch sử, ngay khi đất nước còn đang chìm trong đêm trường nô lệ,
tại nước Pháp, chàng thanh niên Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức được những
quyền lợi căn bản mà một con người, một công dân trong xã hội phải có, vì đó là
“ những quyền không ai có thể xâm phạm được “ (Tuyên ngôn độc lập). Tại đại
hội Tours năm 1920 của đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã phát biểu như
sau:
Người Việt Nam bị phân biệt đối xử, họ không có những sự bảo đảm như
người châu Âu hoặc có quốc tịch châu Âu. Chúng tôi không có quyền tự do báo
chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có.
Việc nhận thức được thế nào là nhân quyền, dân quyền có lẽ là một bước
phát triển rất lớn trong tư tưởng của người thanh niên Nguyễn Ái Quốc. Với
nhận thức rằng chính phủ sinh ra là để phục vụ dân chứ không phải để cai trị
dân, chính phủ không có quyền ngăn cấm công dân phát biểu và hội họp với
nhau. Do vậy, chính phủ thực dân Pháp đã xử sự hoàn toàn sai trái khi ngăn cấm
và hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp của người Việt Nam.
2
Dù vậy, thực dân Pháp vẫn huênh hoang là họ có công “khai hóa” cho
nhân dân Việt Nam. Thực dân Pháp đã tổ chức những cuộc vui chơi, thể dục thể
thao, âm nhạc, thậm chí cho bầu cử giả hiệu để thanh niên Việt Nam lãng quên
nghĩa vụ giải phóng đất nước. Nhìn bề ngoài không ai có thể nghĩ rằng người
dân Việt Nam cần độc lập, tự do, dân chủ nhưng với con mắt nhìn xa trông rộng,
cụ Hồ đã nhìn thấy điều khác hẳn.
Nói rằng Đông Dương gồm hai mươi triệu người bị bóc lột, hiện nay đã
chín muồi cho một cuộc cách mạng là sai, nhưng nói rằng Đông Dương không
muốn cách mạng và bằng lòng với chế độ bây giờ như các ông chủ của chúng ta
thường vẫn nghĩ như thế, thì lại càng sai hơn nữa. Sự thật là người Đông Dương
không có một phương tiện hành động và học tập nào hết. Báo chí, hội họp, lập
hội, đi lại đều bị cấm… Việc có những báo hoặc tạp chí mang tư tưởng tiến bộ
một chút hoặc có một tờ báo của giai cấp công nhân Pháp là một tội nặng.
Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang
sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến. Bộ phận
ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến.
Để phục vụ cho chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914-1918, chế độ thực
dân đã tranh thủ và huy động sự tham gia của người dân sống ở các nước thuộc
địa tham gia giải phóng “ Mẫu quốc “, với vô số lời hứa hẹn sẽ ban bố quyền “
tự do, dân chủ “ cho người dân. Thế nhưng, khi cuộc chiến kết thúc, tất cả chỉ là
những lời hứa suông. Người thanh niên Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ điều đó,
không chỉ cho người dân Việt Nam mà toàn thể nhân loại đang sống ở chế độ
thuộc địa. (trích bài Đông Dương của Nguyễn Ái Quốc, đăng trên tạp chí Cộng
sản Pháp, số 14, năm 1921).
Nhưng khi cơn bão táp đã qua, thì cũng vẫn như trước, anh em phải sống
trong chế độ bản xứ, với những điều luật đặc biệt, thiếu hẳn các quyền lợi gắn
liền với phẩm giá con người như quyền tự do lập hội và hội họp, tự do báo chí,
tự do đi lại ngay cả trong nước. Đó là về mặt chính trị.Nói tóm lại, người ta hứa
hẹn đủ thứ, nhưng giờ đây mọi người đều thấy toàn là những lời lừa dối. Chỉ có
3
bản thân nỗ lực đấu tranh thì mới mong có giải phóng được.(Tuyên ngôn của hội
“ Liên hiệp thuộc địa”)
Khi các nước thắng trận như Mỹ, Anh, Pháp họp ở Versailles ngày 18
tháng 1 năm 1919, nhiều đoàn đại biểu các nước bị áp bức đã đến hội nghị này
để đưa nguyện vọng của mình. Nguyễn Ái Quốc đã nhân danh “ một nhóm
người Việt Nam yêu nước “ ở Pháp đã gửi bản “ Những yêu sách của nhân dân
Việt Nam “ cho nghị viện Pháp và tất cả những đoàn đại biểu ở hội nghị này.
Bản yêu sách đã thể hiện tư tưởng ngời sáng của cụ Hồ, thể hiện sự tiếp
nhận sâu sắc tư tưởng nhân quyền, dân quyền của cụ Phan Châu Trinh. Tư tưởng
này đã khởi đầu cho nhận thức về một đất nước Việt Nam trong đó quyền tự do
của người dân được bảo đảm, một thể chế dân chủ, pháp trị chứ không phải hoạt
động dựa trên “ chỉ thị “ hay “ sắc lệnh “ của một nhóm người cai trị nào.
- Ân xá toàn thể chính trị phạm Việt Nam.
- Cải cách nền pháp lý Đông Dương, cho người Việt Nam cũng được bảo
đảm về mặt pháp lý như người Âu, bỏ hẳn tòa án đặc biệt, công cụ để khủng bố
Tự do báo chí và tự do tư tưởng.
- Tự do lập hội và tự do hội họp.
- Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương.
- Tự do học tập và mở các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người
bản xứ ở khắp các tỉnh.
- Thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ đạo luật.
- Phải có đại biểu thường trực người Việt Nam do người bản xứ bầu ra, ở
bên cạnh nghị viện Pháp để trình bày nguyện vọng của người bản xứ. (Nguyễn
Ái Quốc - Những yêu sách của nhân dân Việt Nam)
Không chỉ giác ngộ cách mạng cho tầng lớp công nhân và nông dân, cụ
Hồ còn chủ trương giúp đỡ các tầng lớp khác trong xã hội thành lập đảng đại
diện cho nguyện vọng của họ. Có lẽ cụ đã vượt trước thời đại rất xa khi thấu
hiểu sự cần thiết của nhiều đảng phái trong xã hội để nói lên tiếng nói của nhiều
tầng lớp. Ngay trong báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai
của đảng Lao Động Việt Nam (sau đổi tên thành đảng Cộng Sản), cụ Hồ đã phát
4
biểu “Đảng Lao Động lại giúp những anh em trí thức tiến bộ thành lập đảng Dân
Chủ Việt Nam để thu hút những thanh niên trí thức và công chức Việt Nam”.
Không chỉ vậy, đảng Lao Động còn học hỏi những điều tốt đẹp của các
đảng phái khác. Trong lời kêu gọi thi đua ái quốc ngày 11/06/1948, chủ tịch Hồ
Chí minh đã nêu ra chủ trương của Việt Nam Quốc Dân Đảng để toàn dân
hướng vào, đó là chủ thuyết Tam Dân mà tác giả là Tôn Trung Sơn, người cha
của nền Cộng hòa Trung Quốc: “Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh
hạnh phúc”. Ba chữ “Độc lập”, “Tự do”, “Hạnh phúc” đã trở thành ba mục tiêu
lớn nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và bây giờ là nước Cộng Hòa
XHCN Việt Nam.
Đến tận những năm cuối đời, cụ Hồ vẫn căn dặn những lời hết sức hợp
tình hợp lý. Trong di chúc, cụ mong muốn xây dựng một Việt Nam “Hòa bình,
độc lập, thống nhất, dân chủ, và giàu mạnh”. Nếu ai đọc được các văn bản do cụ
Hồ viết qua từng thời kì, sẽ hiểu ngay đường lối chiến lược này của cụ.
“Hòa bình” nghĩa là các bên tham gia chiến tranh phải ngưng bắn để bước
vào bàn đàm phán.
Tiếp theo, “độc lập” nghĩa là nước ngoài không được can thiệp vào nội bộ
Việt Nam, cụ thể là Mỹ phải rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam vô điều kiện.
Rồi đến “thống nhất”, nghĩa là hai miền Nam Bắc sẽ tổ chức bầu cử tự do
và công bằng để bầu ra chính phủ thống nhất trên toàn quốc.
Ngay sau đó, chính phủ thống nhất cần thực hiện ngay thể chế “dân chủ”,
chấm dứt tình trạng phải hạn chế nhân quyền, dân quyền do yêu cầu của thời
chiến ở cả hai miền.
Một khi đã có nền tảng dân chủ vững chắc, chúng ta mới có thể xây dựng
đất nước “giàu mạnh”, và giàu mạnh một cách bền vững.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh từ đầu đến cuối vẫn là đấu tranh để trả lại
những quyền căn bản cho người dân, thực hiện thể chế dân chủ để bảo đảm
những quyền tự do của người dân được thực thi như quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí, tự do lập hội và hội họp, tự do ứng cử và tự do bầu cử…
5
Ngay trong bài viết “Thực hành tiết kiệm và chống tham ô, lãng phí,
chống bệnh quan liêu” năm 1952, cụ Hồ đã viết “Dân chủ là dựa vào lực lượng
quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng”. Để làm được như vậy thì ý dân cần
phải được thể hiện qua báo chí tự do và bầu cử công bằng.
II. DÂN CHỦ QUA CÁC THỜI KỲ TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM
Vấn đề dân chủ trong truyền thống Việt Nam đã được đặt ra trong giới
nghiên cứu của chúng ta từ hơn một thập kỷ nay. Qua những bài viết được công
bố và những lời phát biểu trong các cuộc hội thảo khoa học, đã hình thành hai
quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về vấn đề này.
Một số người khẳng định và nêu cao truyền thống dân chủ, coi như một
trong những truyền thống ưu việt của nhân dân được tạo nên trong quá trình
dựng nước và giữ nước, và là một cơ sở thuận lợi để xây dựng chế độ làm chủ
tập thể, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Một số người khác, nhất là
trong thời gian gần đây, lại tỏ ý hoài nghi hoặc phủ nhận hoàn toàn về sự xuất
hiện và tồn tại của một truyền thống dân chủ trong điều kiện của chế độ quân
chủ chuyên chế ở Việt Nam và phương Đông nói chung. Cả hai quan điểm trái
ngược đó lại gần như thống nhất về mặt phương pháp : sử dụng một số ca dao,
tục ngữ, tập quán trong kho tàng văn hoá dân gian hay một số tư liệu về mối
quan hệ vua - quan - dân rút từ trong thư tịch cổ, để chứng minh cho nhận định
của mình. Đó là phương pháp chọn lọc một số tư liệu, chứ không phải là sự khái
quát khoa học dựa trên cơ sở phân tích và tổng hợp mọi tư liệu có liên quan và
lý giải nguồn gốc của nó trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Đấy cũng là biểu
hiện của phương pháp minh họa mang nặng tính chủ quan đã một thời chi phối
công tác nghiên cứu sử học của chúng ta.
Sau một thời kỳ phát triển lâu dài của chế độ công xã nguyên thủy với
những quan hệ cộng đồng-dân chủ nguyên thủy, lịch sử Việt Nam cũng như các
nước khác trên thế giới, bước vào thời kỳ phân hoá xã hội với cuộc đấu tranh
triền miên diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau giữa người lao
động bị áp bức, bóc lột với kẻ thống trị áp bức, bóc lột. Trong cuộc đấu tranh xã
6
hội đó thường xuất hiện những tư tưởng dân chủ nhất định phản ánh khát vọng
và ước mơ của quần chúng lao khổ chống lại các bất công và bất bình đẳng xã
hội. Nội dung và mức độ phát triển của những tư tưởng dân chủ đó tùy thuộc
vào tính chất của hình thái kinh tế - xã hội thống trị, vào mức độ phân hoá và
đấu tranh xã hội, vào vị trí kinh tế - xã hội của giai cấp bị áp bức, bóc lột. Những
tư tưởng dân chủ như vậy đã từng xuất hiện trong xã hội chiếm hữu nô lệ, trong
xã hội phong kiến và được phản ánh trong tư tưởng của một số nhà hiền triết,
trong đạo Cơ Đốc sơ kỳ, đạo Phật sơ kỳ, trong cải cách tôn giáo, trong chiến
tranh nông dân… Tuy nhiên ta có thể ghi nhận một đặc điểm quan trọng là trong
xã hội đó, quan hệ bóc lột nô lệ không phát triển bao nhiêu và chỉ dưới dạng chế
độ nô lệ gia trưởng (ta thường gọi là chế độ nô tỳ), lực lượng sản xuất chủ yếu là
thành viên công xã nông thôn.
Tiếp theo đó, lịch sử Việt Nam có trải qua chế độ phong kiến hay không
cũng là một vấn đề gần đây được nêu lên như một vấn đề tranh luận mà một xu
hướng đang phát triển ở phương Tây gần đây là hoài nghi hoặc phủ nhận sự tồn
tại của chế độ phong kiến ở Việt Nam và thậm chí cả phương Đông nói chung.
Chế độ phong kiến Việt Nam hình thành và phát triển trên cơ sở một mặt là bảo
tồn và phong kiến hoá kết cấu kinh tế xã hội của công xã nông thôn, mặt khác là
sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất. Chế độ sở hữu ruộng đất của công xã
chuyển hoá thành chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất, và do đó quan hệ giữa
vua và thần dân bao gồm cả quan hệ bóc lột địa tô của một địa chủ lớn (vua) đối
với nông dân tá điền (thành viên công xã). Cùng với sự ra đời và phát triển của
chế độ tư hữu ruộng đất, trong xã hội lại xuất hiện một tầng lớp địa chủ tư hữu
(bao gồm địa chủ, quý tộc và một số quan lại) phát canh thu tô bóc lột trực tiếp
nông dân tá điền, và một tầng lớp nông dân tư hữu có ít nhiều ruộng đất tư. Giai
cấp nông dân Việt Nam như thế là bao gồm một số nông dân tự canh có ruộng
đất tư hữu, số đông là nông dân tá điền không có hoặc không có bao nhiêu ruộng
đất tư nên phải cày ruộng của nhà vua và địa chủ theo quan hệ địa chủ - tá điền,
và một số nông dân nghèo khổ phải đi làm thuê, đi ở, thân phận gần như nô tỳ
và thường dễ rơi xuống thân phận nô tỳ.
7
Như vậy là quần chúng lao động đông đảo trong xã hội Việt Nam cổ
truyền là nông dân công xã và nông dân tá điền, có kinh tế riêng nhưng hầu như
không có quyền sở hữu ruộng đất. Đặc điểm kinh tế xã hội đó ảnh hưởng sâu sắc
đến cuộc đấu tranh xã hội của nông dân và quá trình nẩy sinh, phát triển cũng
như nội dung tư tưởng dân chủ của nông dân Việt Nam. Về mặt chính trị, tư
tưởng dân chủ cao nhất của nông dân là bạo động chống lại chế độ chuyên chế,
lật đổ bọn bạo chúa.
Đến giai đoạn cuối của chế độ phong kiến, trong cuộc chiến tranh nông
dân thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX tư tưởng dân chủ nông dân được phát
triển lên trình độ mới với khẩu hiệu "lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo", phản
ánh yêu cầu bình đẳng tài sản và tâm lý bình quân chủ nghĩa của những người
tiểu nông trong điều kiện kinh tế hàng hoá đã phát triển. Như vậy là trong đấu
tranh xã hội, tư tưởng dân chủ của nông dân Việt Nam chỉ dừng lại ở yêu cầu
bình đẳng xã hội, bình đẳng tài sản mà mức độ phát triển cao nhất là chủ nghĩa
bình quân về kinh tế - xã hội và tư tưởng bạo động về mặt chính trị. Tư tưởng đó
gắn liền với tâm lý người nông dân công xã, người sản xuất nhỏ, nó có mặt
chính đáng và tích cực của nó trong cuộc đấu tranh chống chế độ chuyên chế,
chống những bất công của xã hội phong kiến, nhưng cũng bộc lộ mặt không
tưởng và bất lực của người nông dân trong sự nghiệp tự giải phóng mình.
Một đặc điểm quan trọng của xã hội Việt Nam cổ truyền là sự tồn tại và bảo lưu
lâu dài tàn dư của công xã nông thôn. Đặc điểm cơ bản của nó là quyền sở hữu
công xã về toàn bộ ruộng đất và công xã đem phân chia ruộng đất đó cho các gia
đình thành viên cày cấy. Bộ máy quản lý công xã do các thành viên cử ra mà
đứng đầu là một Già làng.
Về sau chế độ tư hữu ruộng đất phát triển thu hẹp dần chế độ ruộng đất
công của làng xã và sự phân hoá xã hội bên trong cũng càng ngày càng nâng
cao. Quá trình đó diễn ra cùng với quá trình phong kiến hoá công xã nông thôn.
Nhưng nói chung, tàn dư của công xã nông thôn ở những mức độ tồn tại khác
nhau tùy từng lúc và từng nơi, vẫn được bảo lưu lâu dài trong xã hội Việt Nam
8
cổ truyền. Tất nhiên ở đây có sự khác biệt giữa làng xã miền Bắc và miền Nam
do nhiều hoàn cảnh và điều kiện lịch sử quy định.
Trên cơ sở quan hệ cộng đồng công xã đó, hình thành và bảo tồn một loạt
phong tục tập quán gọi chung là "lệ làng" ít nhiều phản ánh tính chất dân chủ
công xã. Nó được biểu thị trong mối quan hệ tương đối bình đẳng giữa các thành
viên trong việc chia ruộng đất công và trong các sinh hoạt cộng đồng, trong sự
tôn trọng người già bất cứ thuộc đẳng cấp nào, trong việc thừa nhận vai trò to
lớn của người mẹ và người phụ nữ trong đời sống gia đình và làng xã.
Tư tưởng dân chủ công xã có mặt tích cực của nó trong đời sống xã hội lúc bấy
giờ, nhưng cũng gắn liền với tính cục bộ, địa phương của công xã và những hẹp
hòi của các hình thức dân chủ công xã. Công xã chỉ thừa nhận quyền bình đẳng
và dân chủ giữa các thành viên khi họ là thành viên của công xã, là bộ phận tạo
thành của cộng đồng, nhưng hoàn toàn không công nhận quyền của cá nhân, của
con người với tư cách là một thực thể độc lập. Dân chủ công xã không dựa trên
sự giải phóng con người và tôn trọng quyền của con người, mà trói chặt con
người trong quan hệ cộng đồng và chỉ bảo đảm quyền lợi bình đẳng của con
người với tư cách là thành viên của cộng đồng.
Việt Nam trước cách mạng chưa hề trải qua một hình thức tồn tại của nền
cộng hoà dân chủ, mà chỉ có một chính thể duy nhất là chế độ quân chủ.
Cho đến trước thế kỷ XV, nhất là trong thời Lý, Trần, chế độ quân chủ tập quyền
đã được xác lập vững vàng, nhưng chưa mang tính chất chuyên chế quan liêu
nặng nề.
Nhưng từ thế kỷ XV trở đi, chế độ quân chủ chuyển sang mô hình Nho
giáo với tính chất chuyên chế quan liêu càng ngày càng nặng nề. Và cũng từ đó,
mối quan hệ giữa vua quan và dân càng ngày càng tách rời và đối lập, những
chủ trương và hình thức dân chủ của các vương triều trước không còn được kế
tục nữa.
Qua sự phân tích những cơ sở kinh tế, xã hội, chính trị đã từng làm nẩy
sinh và bảo tồn, phát triển trong mức độ nào đó những tư tưởng và hình thức dân
chủ trong xã hội Việt Nam cổ truyền, chúng ta có thể rút ra mấy nhận xét:
9
+ Không thể phủ nhận được sự tồn tại của một số tư tưởng và hình thức
dân chủ nào đó trong đời sống xã hội và trong truyền thống Việt Nam.
+ Những tư tưởng và hình thức dân chủ đó thực chất là dân chủ nông dân
nẩy sinh trong cuộc đấu tranh xã hội của những người sản xuất nhỏ mà đỉnh phát
triển cao nhất là chủ nghĩa bình quân, là dân chủ công xã dựa trên sự bảo tồn
quan hệ cộng đồng công xã và một số biện pháp thân dân của các vương triều
tiến bộ trong điều kiện phân hoá giai cấp chưa gay gắt và trước yêu cầu bức thiết
của nhiệm vụ giữ nước.
+ Có thể coi đó là những yếu tố dân chủ và xã hội chủ nghĩa như cách
nói của V. I. Lênin, và cần trân trọng nó khi nghiên cứu và đánh giá di sản văn
hoá truyền thống. Nhưng từ đó khuếch đại lên thành một truyền thống dân chủ
mạnh mẽ của nhân dân ta thì không phản ánh đúng sự thật lịch sử và dễ đánh
lừa, ru ngủ chúng ta một cách nguy hiểm trước thực tế chúng ta đang ra sức
khắc phục tình trạng mất dân chủ hiện nay và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
+ Những yếu tố dân chủ trong truyền thống Việt Nam còn quá thấp và
quá yếu so với yêu cầu xây dựng nền dân chủ hiện nay. Hơn nữa trong truyền
thống Việt Nam, dân chủ nông dân với tư tưởng bình quân chủ nghĩa và dân chủ
công xã lấy quan hệ cộng đồng để trói buộc con người còn có mặt di hại cho nền
dân chủ hiện nay và là cội nguồn tư tưởng của một số mặt tiêu cực trong xã hội
đang diễn ra hàng ngày.
Công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước hôm nay phải xuất phát từ di
sản lịch sử và văn hoá của quá khứ để lại, trong đó có những mặt mạnh và ưu
việt cần được kế thừa và phát huy, những mặt yếu và lỗi thời cần được khắc
phục để vươn lên tiếp nhận những xu thế và thành tựu của thời đại. Nền dân chủ
chúng ta đang xây dựng hiện nay có kế thừa một số yếu tố dân chủ của di sản
truyền thống, nhưng cũng phải khắc phục nhiều hạn chế và di hại của quá khứ.
Quá trình dân chủ hoá là một quá trình mới mẻ trong lịch sử Việt Nam do đó đòi
hỏi chúng ta phải có những bước đi thích hợp và khẩn trương nhằm xây dựng
10
một nền dân chủ Việt Nam vừa phù hợp với văn hoá và truyền thống Việt Nam,
vừa bắt kịp sự tiến hoá của thời đại
III. DÂN CHỦ TRONG CÁC LĨNH VỰC CỦA ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Dân chủ thể hiện ở việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân. Dân
chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội… Trong đó dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị lá quan
trọng nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của nhà
nước, bởi vì quyền lực của nhân dân được thể hiện trong hoât động của nhà
nước với tư cách nhân dân có quyềnlực tối cao. Hồ Chí Minh khẳng định cả trên
quan điểm lẫn trên thực tế việc khi có nhà nước mới – nhà Nước Việt nam Dân
Chủ Cộng Hoà – nhân dân cử ra, tổ chức nên bộ máy nhà nước cũng như toàn
bộ hệ thống chính trị.
Quan niệm dân chủ, theo Hồ Chí minh còn biểu hiện ở phương thức xã
hội. Khẳng định một chế độ dân chủ ở nước ta là “ bao nhiêu lợi ích cũng vì
dân”, “ quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, đồng thời Người cũng chỉ ra
phương thức tổ chức, hoạt động của xã hội nước ta muốn khẳng định là một
nước dân chủ thì phải có cấu tạo quyền lực xã hội mà ở đó người dân, cả trực
tiếp, cả gián tiếp qua dân chủ đại diện, một hệ thống chính trị do “dân cử ra” và
“do dân tổ chức nên”. Để hiểu rõ về vấn đề dân chủ trong các lĩnh vực trên
chúng ta cùng tìm hiểu nội dung chi tiết.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của
nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân
trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng thân dân truyền thống ở
phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học
thuyết Mác- Lênin. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực
tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang
tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
11
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên
tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện
nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa
chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ
bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do
hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ luật pháp cho
phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương, làm chủ cơ
quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các đoàn thể, các
tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như Hồ Chí Minh
nói: "Mọi quyền hạn đều của dân". Cán bộ từ Trung ương đến cán bộ ở các cấp
các ngành đều là "đầy tớ" của dân, do dân cử ra và do dân bãi miễn.
Vì sao dân có quyền hạn to lớn như vậy? Người giải thích: dân là gốc của
nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân
đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước.
Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng
của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng,
đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước,
cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước.
Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do
vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với
Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy.
Tóm lại, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là lực lượng hợp
thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền làm
chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Làm thế nào để dân thực hiện được quyền làm chủ của mình? Đây là vấn
đề được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, từ xưa đến nay,
nhân dân bao giờ cũng là lực lượng chính trong tất cả các xã hội, trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng trước Cách mạng Tháng Mười Nga,
12
trước học thuyết Mác- Lênin, chưa có cuộc cách mạng nào giải phóng triệt để
cho nhân dân, chưa có học thuyết nào đánh giá đúng đắn về nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ
được giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng,
đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt, bản
thân người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn thể phải giúp
đỡ họ, động viên khuyến khích họ. "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và nếu
nhân dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể
thực hiện được vai trò làm chủ.
Người dân chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế
bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà
nước của dân, do dân, vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền lợi
của dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực chính trị
Có lẽ, không cần nhiều bằng chứng để chứng minh dân chủ hóa là tất
yếu, một phần bởi dân chủ hóa đang ngày càng trở thành khuynh hướng chính
trị chủ đạo của toàn thế giới. Đây là quá trình không thể trì hoãn, bởi nếu một
nhà nước không tự dân chủ hóa mình thì thế giới, hay nói đúng hơn là những đòi
hỏi chính trị toàn cầu, sẽ buộc nhà nước đó phải tiến hành dân chủ hoá. Và như
thế có nghĩa là thay đổi do sức ép từ bên ngoài chứ không phải tự thân. Nếu
không làm như vậy, nhà nước đó sẽ trở thành một bộ phận biệt lập trong mọi
tiến trình quốc tế và không còn cơ hội tồn tại. Mặt khác, chỉ có các thể chế dân
chủ mới phát huy được quyền tự do của con người và chỉ khi nào có tự do thì
con người mới phát huy được năng lực sáng tạo. Chính sáng tạo làm cho tất cả
các cộng đồng người có sức cạnh tranh và để mỗi con người tìm thấy sức mạnh
của chính nó.
Cùng với thời gian, dân chủ hóa không phải là đòi hỏi chính trị nữa mà là
đòi hỏi phát triển. Những đòi hỏi phát triển không phải là ý muốn chủ quan rằng
13
phát triển hay không phát triển mà nếu không phát triển là không còn cơ h ội tồn
tại.
Trong thời đại của chúng ta, con người là một tài nguyên, thậm chí là loại
tài nguyên đặc biệt. Chính vì thế có thể nói, các nước đang phát triển với lợi thế
về nguồn nhân lực là những dân tộc có ưu thế. Nếu không phát huy được năng
lực của loại tài nguyên đặc biệt này thì các nước thế giới thứ ba không những
không phát triển mà thậm chí không tồn tại được. Tuy nhiên, cũng đã đến lúc
các nước này phải nhận ra rằng, sự đông dân, đồng thời, là một con dao hai lưỡi.
Không có một chế độ lãnh đạo hợp lý thì sự đông dân là một gánh nặng. Nước
CHND Trung Hoa là một ví dụ. Hơn một tỷ nhân dân Trung Quốc đã từng là
gánh nặng của nhà nước và đến nay vẫn thế; nhưng sau hơn 20 năm đổi mới thì
sự đông dân ấy đang trở thành một lợi thế. Chế độ chính trị giữ một vai trò cực
kỳ quan trọng trong việc giải quyết bài toán nhân lực này. Việt Nam cũng vậy.
Do đó, nếu không xây dựng chế độ dân chủ để tự do trở thành cảm hứng cơ bản
khích lệ con người tham gia một cách hiệu quả vào quá trình cạnh tranh toàn cầu
thì không thể phát triển được.
Trong thời đại ngày nay, chúng ta phải trở thành thị trường vì chỉ có như
vậy mới có thể phát triển và làm tăng cả năng lực lẫn thu nhập của con người.
Thu nhập không tăng lên thì sức mua của cộng đồng không tăng và sức mua
không tăng thì chúng ta sẽ không có thị trường nào khác ngoài thị trường lao
động đơn giản. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ
thuật, những ngành sản xuất đòi hỏi lao động giản đơn ít đi và thị trường lao
động đơn giản sẽ mất dần giá trị. Muốn nâng cao chất lượng của thị trường lao
động thì phải đầu tư vào giáo dục - đào tạo. Mặt khác, không thể tiếp tục chỉ vay
mượn hay sử dụng đầu tư nước ngoài để phát triển những nguồn nội lực. Những
nhà nước phi dân chủ không thể trốn tránh quá trình dân chủ hóa xã hội. Người
ta vẫn tưởng rằng, nhân dân đang ủng hộ nhà nước bằng lao động của mình
nhưng đến một lúc nào đấy, các nhà nước phi dân chủ sẽ phải đối mặt với những
cuộc cách mạng hay sự cướp bóc dưới hình thức cách mạng. Những năm cuối
thế kỷ XX, chúng ta đã chứng kiến sự sụp đổ của các chế độ độc tài như
14
Mohamed Suharto, Joseph Estrada, Saddam Hussein... Rõ ràng, những phương
pháp chuyên chính có thể kéo dài tuổi thọ các thể chế chính trị độc tài nhưng
không thể nào giúp nó tránh khỏi sự sụp đổ.
3. Tư tưởng hồ chí minh về dân chủ trong lĩnh vực kinh tế
Lãnh đạo chính quyền thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội theo nghị quyết đại hội của đảng bộ, chi bộ xã và của cấp trên; phát
triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tạo thêm
việc làm mới cho người lao động; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước;
xây dựng nông thôn giàu đẹp, văn minh.
Thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, quản lý và sử dụng đất hợp lý,
tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích; thực hiện
nhiệm vụ xây dựng cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm...) theo phương
châm Nhà nước và nhân dân cùng làm; quản lý và sử dụng tốt các nguồn vốn
vay, vốn nhân dân đóng góp và các nguồn vốn khác; phát triển sự nghiệp văn
hoá, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, thực hiện tốt các chính sách xã hội, xoá
đói, giảm nghèo
4. Tư tưởng hồ chí minh về dân chủ trong lĩnh vực văn hoá - xã hội
a) Về văn hoá:
Tiếp tục mở rộng các hoạt động văn hoá, nhằm nâng cao đời sống văn hoá
vui tươi lành mạnh và trình độ văn hoá của nhân dân để phục vụ nhiệm vụ củng
cố miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Tăng cường công tác xuất bản;
chú trọng xây dựng cơ sở đầu tiên cho nền điện ảnh Việt Nam; phát triển vững
chắc ngành sân khấu và ca vũ; lập thêm tủ sách và nhà văn hoá, câu lạc bộ ở các
cơ sở và tăng cường lãnh đạo sinh hoạt văn nghệ, văn hoá của quần chúng; đẩy
mạnh và lãnh đạo phong trào thể dục thể thao. Đồng thời phải nâng cao chất
lượng của nền văn học, nghệ thuật; đào tạo bồi dưỡng thêm nhiều tài năng mới,
15
chú trọng khai thác hơn nữa vốn cũ văn hoá dân tộc và tăng cường trao đổi văn
hoá với các nước; học tập kinh nghiệm các nước tiên tiến.
b) Về giáo dục:
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thanh toán nạn mù chữ, đặc biệt chú trọng
giậy văn hoá cho các cán bộ cơ sở, có kế hoạch mở rộng phong trào học tập
trong các cơ quan, xí nghiệp, quân đội.
Đối với giáo dục phổ thông, chủ yếu là phát triển tuỳ theo khả năng, và
nâng cao chất lượng cấp 2 và 3, chú ý đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng
cường số lượng và chất lượng các sách giáo khoa, ban hành chính sách cụ thể
đối với các trường dân lập và tư thục, tăng cường lãnh đạo giáo dục miền núi,
súc tiến việc nghiên cứu đặt chữ viết cho các dân tộc thiểu số, và có kế hoạch
hướng dẫn các lớp vỡ lòng.
Về đại học và chuyên nghiệp, cần củng cố những cơ sở đã có và phát triển
từng bước. Tăng cường việc giáo dục chính trị và tư tưởng chủ nghĩa Mác Lênin, ra sức bồi dưỡng và đào tạo giáo sư, chú ý rút kinh nghiệm cải tiến
chương trình. Xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học. Cải tiến việc bổ túc văn hoá
cho cán bộ công nông để đưa vào các trường đại học, chuyên nghiệp.
c) Về y tế:
Mở rộng phong trào vệ sinh phòng bệnh, nâng cao chất lượng các cơ sở
chữa bệnh, kiện toàn việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ các cấp, cải tiến và tăng
cường việc sản xuất, nhập nội thuốc và sử dụng nguyên liệu trong nước. Đặc
biệt chú ý công tác y tế và vệ sinh ở miền núi, công tác bảo vệ sản phụ và hài
nhi. Y tế công trường, nông trường, xí nghiệp, cơ quan cần chú trọng để làm tốt
hơn nữa nhiệm vụ bảo vệ và bồi dưỡng sức khoẻ cho công nhân và cán bộ, nhất
là phụ nữ. Việc nghiên cứu đông y và sử dụng hợp lý, theo khả năng lực lượng
đông y cũng như học tập kinh nghiệm y học tiên tiến của các nước bạn và thế
giới, cần được tổ chức tích cực và chu đáo hơn, để xây dựng và phát triển nền y
tế nhân dân.
d) Về công tác thương binh:
16
Phổ biến sâu rộng trong nhân dân chính sách đối với thương binh, bệnh
binh và gia đình liệt sĩ, chú ý thương binh, bệnh binh về xã, nhất là thương binh,
bệnh binh miền Nam tập kết.
e) Về cứu tế xã hội:
Nghiên cứu kế hoạch giải quyết lâu dài nạn thiếu ăn của nhân dân các
vùng úng thuỷ, đồng cao, dẻo cao, men bể; tích cực cải tạo các trẻ lưu manh, gái
điếm; tìm hiểu tình hình các trẻ mồ côi do chiến tranh gây ra, để nghiên cứu
cách giải quyết.
Để thúc đẩy công tác văn hoá xã hội tiến mạnh hơn nữa, Quốc hội nhận
thấy cần phổ biến cho nhân dân và cán bộ vai trò quan trọng của công tác văn
hoá, xã hội, trong sự nghiệp kiết thiết quốc gia, cần thi hành những chủ trương,
đảm bảo việc đoàn kết, giáo dục, sử dụng mọi khả năng của trí thức, đãi ngộ trí
thức đúng với cống hiến và tài năng.
Hiện nay công tác văn hoá xã hội đã đạt được một cơ sở tương đối vững
chắc. Với sức sống mạnh mẽ của nhân dân ta, với việc hoàn thành khôi phục
kinh tế năm 1957, với sự cố gắng của cán bộ, Quốc hội tin tưởng rằng: công tác
văn hoá xã hội sẽ góp phần đắc lực vào công cuộc củng cố miền Bắc và đấu
tranh thống nhất nước nhà.
f) Về lĩnh vực tôn giáo
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên
quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Tư
tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân
tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống
chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ khi mới thành lập
Đảng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có quan
điểm, thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: "Tín ngưỡng, tôn
17
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình
đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi,
thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng
tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã
hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân". Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ: "Tín ngưỡng, tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách
tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín
ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân".
Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh
rằng Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người,
là một trong những quyền công dân, quyền chính đáng của con người. Vì vậy,
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín ngưỡng,
tôn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo nào cũng như
quyền không theo tôn giáo nào, mong muốn cho người dân theo tôn giáo được
"phần hồn thong dong, phần xác ấm no".
Cả nước có 56.125 chức sắc, nhà tu hành, chưa kể hàng vạn người hoạt
động bán chuyên nghiệp của các tổ chức tôn giáo, trong đó Phật giáo có 33.066
tăng ni; Thiên chúa giáo có 42 giám mục, 2.700 linh mục và 11.282 tu sĩ, Tin
lành có 492 mục sư, giảng sư và truyền đạo; Cao Đài có 8.340 chức sắc, chức
việc; Phật giáo Hoà hảo có 982 chức việc và Hồi giáo có 699 chức sắc; 3 học
viện Phật giáo với trên 1.000 tăng ni sinh, 30 trường trung cấp Phật học, 4
trường cao đẳng phật học với 3.940 tăng ni sinh theo học. Giáo hội Thiên chúa
giáo có 6 Đại chủng viện với 1.085 chủng sinh và 1.712 chủng sinh dự bị. Viện
Thánh kinh thần học của Tổng liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền
Nam) đã chiêu sinh hai khoá với 150 học sinh. Hiện có hàng trăm người của các
tôn giáo đang theo học thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước trên thế giới.
Cả nước hiện có 22.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở được xây
dựng mới, xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ. Đó là bằng chứng sinh động về
18
đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giaó là nguyên tắc hàng đầu và nhất quán của
Đảng và Nhà nước Việt Nam vì cuộc sống tinh thần của hàng triệu tín đồ các tôn
giáo và cũng là những công dân của Việt Nam.
Đánh giá sự trưởng thành và những đóng góp của Ban Tôn giáo Chính
phủ, năm 2002, Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất và để
khẳng định truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo và xác lập cơ
chế quản lý theo ngành - một ngành vốn có nhiều nét đặc thù, nhạy cảm, ngày
27-5-2005, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 445/QĐ-TTg lấy ngày 2-8
hằng năm là Ngày truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo. Đây là
phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước dành cho các thế hệ làm công tác
tôn giáo trong cả nước.
(Nguồn tư liệu: Ban Tôn giáo Chính phủ, TTXVN và Công báo)
IV. THỰC HÀNH DÂN CHỦ
1. Xây dựng và hoàn thiện các chế độ dân chủ rộng rãi
Ngay từ năm 1941, trong chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh (Việt Minh), Hồ Chí Minh đã “thiết kế” một chế độ dân chủ cộng
hoàcho nước ta sau khi cuộc cách mạng do nhân dân thực hiện thắng lợi. đó là
chương trình thực hiện mục tiêu dân chủ, xác định rõ quyền và trách nhiệm của
nhân dân trước vận mệnh của nước nhà; gắn độc lập, tự do của tổ quốc với
quyền lợi của từng người dân. Chương trình Việt Minh đã khơi dậy sức mạnh vô
biên của nhân dân giành chính quyền về tay mình.Với thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, một tuyên bố về chế độ dân chủ ở Việt Nam đã được Hồ
Chí Minh nêu trong bảnTuyên ngôn độ lập khia sinh nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà ngày 2-9-1945, trong đó các giá trị về dân chủ được gắn liền với đất
nước độ lập, tự do, hạnh phúc.
Dân chủ ở nuớc Việt Nam mới được thể hiện và mới được đảm bảo trong
đạo luật cơ bản nhất là các Hiến pháp do Hồ Chí Monh chủ trì xây dựng và được
Quốc hội thông qua. Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà, thể hiện rõ nhất và thấm đậm nhất tư tưởng dân chủ
19
của Hồ Chí minh. Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực
hiện quyền lực của nhân dân.
Với trách nhiệm chủ trì việc soạn thảo hiến pháp năm 1959, Hồ Chí Minh
lại một lần nữa khẳng định quan niệm đảm bảo dân chủ trong việc xác lập quyền
lực của nhân dân trong hiến pháp. Cơ chế thực hiện quyền lực của nhân dân
trong bản Hiến pháp năm 1959 được phát triển, cụ thể hoá thêm. Điều đó thể
hiện rõ ở các điều về quyền lực của nhân dân (Điều 4); vấn đề đại biểu của nhân
dân trong Quốc hội và hội đồng nhân dân (Điều 5) và đặc biệt ở điều 6 ghi rõ:
“Tất cả các cơ quan nhà nước đầu phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát củ nhân dân. Tất cả các nhân
viên cơ quan nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ của nhân dân,
tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”.
Hồ Chí Minh chú trọng đảm bảo quyền lực của giai cấp, tầng lớp, các
cộng đồng dân tộc trong thể chế chính trị nước ta. Đối với giai cấp công nhân,
Hồ Chí Minh khẳng định rằng, công nhân có quyền thực sự trong xí nghiệp, và
từ làm chủ về tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ trong việc quản lý, làm chủ
trong việc phân phối sản phẩm lao động. Đối với nông dân, Hồ Chí Minh cho
rằng, bao giờ ở nông thôn người dân thực sự nắm chính quyền, nông dân phải
được giải phóng, thì mới có dân chủ thực sự. Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò
của tầng lớp trí thức trong tiến trình dân chủ hoá ở Việt Nam và cho rằng lao
động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
Người đặc biệt quan tâm giải phóng phụ nữ để phụ nữ bình đẳng với nam giới,
thực sự tham gia tích cực vào các công việc xã hội. Người cũng đề cao vai trò
làm chủ đất nước của thanh, thiếu niên. Đối với một quốc gia đa dân tộc như ở
Việt nam, Hồ Chí Minh quan tâm đấn việc đảm bảo quyền làm chủ của tất cả
nhân dân các dân tộc và cho rằng, phải làm cho các dân tộc làm chủ đất nước,
mau chóng phát triển kinh tế, văn hoá, thực hiện các dân tộc bình đẳng về mọi
mặt.
20
- Xem thêm -