TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA THẨM PHÁN, CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NGÀNH TÒA ÁN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA THẨM
PHÁN, CÁN BỘ, CÔNG CHỨC NGÀNH TÒA ÁN
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của Cách mạng
Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Người đã để
lại cho chúng ta di sản tinh thần to lớn, những tư tưởng vô giá, những giá trị nhân
văn cao cả, đặc biệt là Tư tưởng đạo đức cách mạng sáng ngời. Cả cuộc đời và sự
nghiệp của Người là tấm gương sáng chói cho toàn Đảng, toàn dân ta nguyện phấn
đấu suốt đời học tập và noi theo.
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH
THÀNH
1. Nguồn gốc Tư tưởng Hồ Chí Minh
Nghiên cứu, tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta cần tìm hiểu về nguồn
gốc hình thành Tư tưởng của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh - Tư tưởng của một
Vĩ nhân, một Nhà hoạt động cách mạng, một danh nhân Văn hóa thế giới, một con
NGƯỜI được nhân loại viết hoa trong thế kỷ XX. Do đó, nghiên cứu Tư tưởng Hồ
Chí Minh, không thể không nghiên cứu quá trình sinh thành, học tập, hoạt động
thực tiễn, những yếu tố tác động để hình thành nên Tư tưởng của Người.
Theo tài liệu của Viện Nghiên cứu Lịch sử Đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh
(Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), nguồn gốc Tư tưởng Hồ
Chí Minh được hình thành bởi các yếu tố sau: Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, Tinh
hoa văn hóa nhân loại, Chủ nghĩa Mác - Lênin, nhân cách và quá trình hoạt động
thực tiễn của Người. Các yếu tố trên được hòa trộn, nhuần nhuyễn, củng cố, phát
triển và ngày càng hoàn thiện trong con người của Bác trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng của Người. Vậy, cụ thể các yếu tố đó tác động đến con người của
Bác ra sao?
1.1. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
Kế thừa và phát triển truyền thống yêu nước của dân tộc, Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý
báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi
nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (Hồ Chí Minh
toàn tập, t. 6, tr.171).
Sức mạnh của Chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã thúc đẩy Hồ Chí Minh ra
đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Chủ nghĩa yêu nước trở thành động lực chi phối
mạnh mẽ đến suy nghĩ, hành động của Người. Người đã lấy tên Nguyễn Ái Quốc
để khẳng định ý chí cứu nước và cổ vũ đồng bào đồng chí. Chủ nghĩa yêu nước là
cơ sở tư tưởng dẫn Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, như sau này
Người khẳng định: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ
nghĩa Cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thư Ba” (Sách đã dẫn,
t.10, tr.128).
Hồ Chí Minh khi tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin đã kế thừa truyền thống
yêu nước tốt đẹp của dân tộc, nhưng Người phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam lên một tầm cao mới : Gắn dân tộc với thời đại; chủ nghĩa yêu nước chân
chính gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giải phóng dân tộc
gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
1.2. Tinh hoa văn hóa của nhân loại
Tiếp thu những tinh hoa đạo đức Nho giáo, Hồ Chí Minh cũng đồng thời phê
phán và phủ nhận những quan điểm chính trị, đạo đức lạc hậu, Người viết: “
Những ông vua tôn sùng Khổng Tử không phải chỉ vì ông không phải là người
cách mạng, mà còn là vì ông tiến hành một cuộc tuyên truyền mạnh mẽ có lợi cho
họ. Họ khai thác Khổng giáo như bọn đế quốc đang khai thác Ki – tô giáo”. Với
cách nhìn cách mạng và khoa học, Hồ Chí Minh nêu phương châm tiếp nhận tinh
hoa văn hóa cho mình và cho đồng bào mình, rằng: “Còn những người An Nam
chúng ta, hãy tự hoàn thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của
Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin” (Sách đã dẫn,
t.2, tr.453,454).
Thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh không chỉ học chữ Nho, mà còn học chữ Pháp
trong các trường thời thuộc địa. Những tư tưởng tiến bộ của các cuộc cách mạng tư
sản phương Tây gây cho Người sự chú ý đặc biệt: “ Khi tôi độ mười ba tuổi, lần
đầu tiên được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái…tôi rất muốn làm quen
với nền văn minh Pháp, muốn tìm hiểu xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”
(S.đ.d, t.1, tr.477).
Thời kỳ 1911-1920 (Tìm đường cứu nước), trước khi đến với chủ nghĩa
Lênin, Hồ Chí Minh đã dày công nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản ở các
nước Mỹ, Anh, Pháp; nghiên cứu các tác phẩm của các nhà tư tưởng cách mạng
dân chủ tư sản như Rút-xô, Mông-tex-ki-ơ… Người tiếp nhận có phê phán những
tư tưởng tiến bộ của nền văn hóa phương Tây, đồng thời vạch rõ những bất công
trong xã hội tư bản.
Tựu trung, những hiểu biết của Người về Khổng Tử, về văn hóa phương Tây,
Tôn Trung Sơn… đã góp phần quan trọng vào việc hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh.
1.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin
Tháng 7/1920, Hồ Chí Minh tiếp cận, nghiên cứu bản “Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I Lênin. Người tìm thấy ở
Bản sơ thảo này con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo lập trường của giai
cấp vô sản.
Tháng 12/1920, Người tham gia Đại hội Tua của Đảng xã hội Pháp, bỏ
phiếu tán thành Quốc tế thứ Ba và trở thành một trong những người sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp. Đây là dấu mốc quan trọng, đánh dấu bước ngoặt căn bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đóng vai trò quyết định hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Bắt đầu từ đây, Người dựa trên nền tảng triết học
mácxit để xem xét thế giới, đứng trên lập trường chính trị của giai cấp vô sản để
vạch ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Sau này, Người khẳng định: “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ
nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa
Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng
đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu
được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra những đường lối,
phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình
hình nước ta” (Sách đã dẫn, t.8, tr.494).
Hồ Chí Minh đề cao lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác- Lênin;
coi học thuyết đó như “Cẩm nang thần kỳ” trên quan điểm, tinh thần biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn, đem lại thắng
lợi cho cách mạng. Người nhấn mạnh và đòi hỏi phải tổng kết thực tiễn để bổ sung
và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin: “Dù sao cũng không thể cấm bổ sung
“cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà
Mác ở thời mình không thể có được” (Sách đã dẫn t.1, tr.465). Theo Người, Chủ
nghĩa Mác-Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh.
Chúng ta hiểu rằng, Hồ Chí Minh vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam một
cách sáng tạo, thích hợp với tình hình thực tế của đất nước. Nhìn lại lịch sử những
năm năm mươi, sáu mươi của thế kỷ trước, chúng ta càng thấy rõ quan điểm của
Bác là hoàn toàn đúng đắn, có tầm nhìn xa trông rộng; một số đồng chí có biểu hiện
vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin một cách máy móc, dập khuôn vào thực tiễn nước
ta đã gặp phải khó khăn, thậm chí thất bại.
1.4. Nhân cách và quá trình hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh
Tư tưởng là sản phẩm của tư duy con người, do con người tổng kết từ những
hoạt động thực tiễn. Mọi người bình thường đều có hoạt động tư duy và hoạt động
thực tiễn, nhưng không phải mọi người đều trở thành nhà tư tưởng. Bởi ngoài
những yếu tố khách quan, còn phụ thuộc vào một yếu tố chủ quan có ý nghĩa quyết
định là: Nhân cách và quá trình hoạt động thực tiễn phong phú của từng cá nhân.
Hồ Chí Minh là một Nhà tư tưởng, như nhân loại tiến bộ đã khẳng định:
“Đồng chí Hồ Chí Minh là một lãnh tụ và một nhà tư tưởng mácxit – lêninnit vĩ đại
của thế giới” (Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới, Nxb Sự thật 1979,
tr.143). Bên cạnh những yếu tố nguồn gốc như đã trình bày ở trên, còn có một yếu
tố quan trọng, giữ vai trò quyết định là: Nhân cách và quá trình hoạt động thực
tiễn phong phú của Người.
Ngay từ thời trẻ tuổi, Hồ Chí Minh đã nuôi trong mình hoài bão được cống
hiến đời mình cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Trong thời gian hoạt động ở nước
ngoài, Người tiếp thu tư tưởng tiến bộ, xác định mục đích cuối cùng của những
người dấn thân đi làm cách mạng là: Giải phóng con người.
Do vậy, Người đã nói: “…Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” (S.đ.d, t.4, tr.161).
Hoài bão lớn lao đó của Người được thực hiện bởi một ý chí mãnh liệt, một
nghị lực phi thường để vượt qua những thử thách khắc nghiệt của lịch sử. Đồng
thời, Hồ Chí Minh còn là Con Người đầy lòng nhân ái, bao dung, khiêm tốn, giản
dị trong cuộc sống. Người có tư chất thông minh, tư duy độc lập và sáng tạo, nhạy
bén với cái mới, có tầm nhìn xa trông rộng.
Thực tiễn đấu tranh gian khổ và phong phú của Người được tích lũy, sàng lọc
và phát triển thành hệ thống những luận điểm khoa học và cách mạng - Tư tưởng
Hồ Chí Minh.
2. Sơ lược quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Từ thời thơ ấu đến khi trưởng thành (1890-1911)
Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) sinh ra và lớn lên
trong một gia đình có truyền thống Nho học trong hoàn cảnh đất nước dưới ách nô
lệ của thực dân Pháp. Thực tiễn bi hùng của đất nước, cùng với sự giáo dục của gia
đình về truyền thống đấu tranh anh dũng, truyền thống đạo lý nhân ái của dân tộc
đã hình thành nên nhân cách lớn ở người thanh niên Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn
Tất Thành. Thời kỳ này, Người được trang bị những tinh hoa của văn hóa Phương
Đông, những kiến thức về nhân sinh, vũ trụ, đạo đức phương Đông trở thành vốn
tư tưởng phong phú của Người.
Đây cũng là thời kỳ Người bước đầu tiếp cận với văn minh phương Tây. Khẩu
hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” cùng những tác phẩm văn học Pháp mà Người
tiếp cận ở nhà trường, đã khơi dậy lòng ham hiểu biết, hướng sang phương Tây để
tìm hiểu sự thật ẩn giấu đằng sau những mỹ từ ấy.
2.2. Thời kỳ tìm đường cứu nước (1911-1920)
Tháng 6/1911, Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Người
sang Pháp, vòng quanh Châu Phi, dừng ở Mỹ một năm (1912-1913), sang Luân
Đôn sống từ 1914-1917. Cuối năm 1917 Người trở lại Pháp.
Quá trình lao động cơ cực để kiếm sống, đã tạo điều kiện cho Người được tiếp
xúc với những người lao động ở các nước, hiểu được nỗi khổ cực của họ và thấu
hiểu rằng: Dù ở đất nước nào, các dân tộc bị áp bức cũng có nỗi khổ như nhau, đều
có kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân đế quốc.
Người trực tiếp chứng kiến thành công của cách mạng Tháng mười Nga
(1917); Chiến tranh thế giới kết thúc, các nước thắng trận họp Hội nghị Véc-xây để
chia lại thị trường thế giới; Thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Người đã
gửi đến Hội nghị này Bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi thừa nhận quyền
tự do, bình đẳng, dân chủ của nhân dân ta nhưng không được chấp nhận. Người đã
rút ra kết luận: Chủ nghĩa Uyn Sơn chỉ là một trò bịp lớn, các dân tộc bị áp bức
muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức lực của chính mình.
Tháng 7-1920, qua nghiên cứu “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin, Người đã tìm thấy con đường cứu
nước, Người đã thốt lên: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết
cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”
Tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội XVIII của Đảng xã hội
Pháp. Người từ bỏ Đảng xã hội và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở
thành Người cộng sản. Đây là bước ngoặt quan trọng, quyết định trong quá trình
hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh - từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng
sản, trở thành người cộng sản.
2.3. Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (1920-1930)
Thời kỳ này (1920-1929), Bác tham gia Đảng cộng sản Pháp và Quốc tế
cộng sản. Người chuyển tài liệu về nước, truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và viết
nhiều bài báo tố cáo chủ nghĩa thực dân bóc lột thuộc địa. Trên cơ sở đó, Bác
viết cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925). Tác phẩm này được đánh giá
là “…đã thực sự mở ra một giai đoạn mới trong những lý luận về vấn đề dân tộc
và thuộc địa” (Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới, 1979, tr.90).
Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Bác đã nêu bật luận điểm về
vấn đề dân tộc và thuộc địa, có 2 vấn đề cơ bản là: 1- Quan hệ biện chứng giữa
cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa; 2- Chiến lược, sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc (mục tiêu, nhiệm
vụ, lực lượng, phương pháp, đối tượng cách mạng, quan hệ giữa cách mạng Việt
Nam và cách mạng thế giới…).
Năm 1924, Bác về Quảng Châu (Trung Quốc). Người thành lập Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên, tổ chức tiền thân của Đảng (6-1925). Năm 1927,
Người mở lớp huấn luyện cán bộ cách mạng với tập bài giảng được xuất bản
thành sách “Đường Cách mệnh”.
Chính từ những hoạt động của Bác, truyền bá tư tưởng Mác-xít về trong nước,
tính chất cuộc đấu tranh của công - nông, nhân dân ta trong nước đã thay đổi về
tính chất: Từ tự phát chuyển lên tự giác; các tiền đề về tư tưởng, chính trị, tổ chức
cho việc thành lập Đảng đã chín muồi. Ngày 3/2/1930, Nguyễn Ái Quốc đã đại
diện Quốc tế cộng sản triệu tập Hội nghị hợp nhất 03 tổ chức cộng sản (Đông
Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản liên
đoàn) thành lập một Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Hội nghị này, đã thông qua các văn kiện quan trọng do Bác soạn thảo:
“Chánh cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt”, “Chương trình vắn tắt’, “Điều lệ vắn
tắt’ và “Lời kêu gọi”. Các văn kiện này được xem là Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng ta.
Với “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường cách mệnh” cùng các văn
kiện quan trọng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
(3/2/1930), Tư tưởng Hồ Chí Minh đã hình thành về cơ bản.
2.4. Thời kỳ kiên trì giữ vững quan điểm cách mạng trước thử thách cam
go (1930-1940)
Nguyễn Ái Quốc bị thực dân Anh bắt giam ở Hồng Kông (6-1931), thực dân
Anh - Pháp câu kết đàn áp những người cộng sản. Với sự giúp đỡ của Quốc tế cứu
tế đỏ và Luật sư Lô-Dơ-Bai, Bác được trắng án và trở lại Liên Xô đầu năm 1934.
Thời kỳ này, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế chịu ảnh hưởng tác
động của sai lầm “tả” khuynh nghiêm trọng về chính trị, tư tưởng. Do không nhận
thức rõ tình hình Việt Nam và đường lối chính trị của Nguyễn Ái Quốc, những
người cộng sản “tả” khuynh đã phê phán Nguyễn Ái Quốc mắc sai lầm chính trị
“hữu khuynh”, “Dân tộc chủ nghĩa”.
Nguyễn Ái Quốc không hề nao núng, vì không chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân,
với tầm nhìn xa trông rộng, Người vẫn kiên trì quan điểm cách mạng của mình.
Tiếp đó, Người học tập tại Trường đại học quốc tế mang tên Lênin, học nghiên cứu
sinh ở Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Quốc tế cộng sản.
Đại hội VII Quốc tế cộng sản (1935) đã phê phán những quan điểm sai lầm
“tả” khuynh trong phong trào cộng sản, quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
đối với cách mạng thế giới. Thực tiễn đó đã chứng minh tính đúng đắn của Tư tưởng
Hồ Chí Minh.
2.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, phát triển thành hệ thống lý
luận hoàn chỉnh (1941-1969)
Tháng 1-1941, Bác từ nước ngoài về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Tháng 5-1941, Bác triệu tập Hội nghị Trung ương 8, chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược và khẳng định: Tạm gác khẩu hiệu “Người cày có ruộng”, đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp lực
lượng rộng rãi toàn dân. Với đường lối cứu nước đúng đắn của Đảng và Bác (kết
hợp đấu tranh chính trị với vũ trang), Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thắng
lợi (Ngày 2/9/1945 Bác đọc tuyên ngôn khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa).
Với tư tưởng và đường lối chính trị đúng đắn của Đảng và Bác, Dân tộc
ta đã kiên quyết chống lại thù trong giặc ngoài (1945-1946); tiến hành cuộc
kháng chiến chống lại thực dân Pháp xâm lược (1946-1954); Xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa kháng chiến chống Mỹ vừa giải phóng miền Nam
(1954-1969)…
Bác đã tiếp tục bổ sung, phát triển tư tưởng với hàng loạt những vấn đề cơ
bản về lý luận cách mạng (Con đường cách mạng Việt Nam; Vấn đề xây dựng
Đảng; Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; đường lối quân sự và chiến
tranh nhân dân; chiến lược Đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; xây dựng nền
văn hóa mới, con người mới, nền đạo đức mới; phương pháp Cách mạng.vv...).
Với cả cuộc đời hoạt động, cống hiến cho dân, cho nước, với sự sáng tạo và
biện chứng cả trong lý luận và thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng
ta, dân tộc ta di sản tinh thần hết sức quý báu, một hệ thống luận điểm toàn diện và
sâu sắc: Tư tưởng Hồ Chí Minh.
II. ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG - BỘ PHẬN CẤU THÀNH CƠ BẢN, CHỦ
YẾU CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống luận điểm, lý luận khoa học, toàn diện
về nhiều lĩnh vực của cách mạng được hình thành đúc kết trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng lâu dài, gian khổ của Người. Cho đến nay, những nhà nghiên cứu
về lịch sử Đảng, về tư tưởng Hồ Chí Minh đã đúc rút, tổng kết những vấn đề,
những yếu tố cấu thành Tư tưởng của Người, bao gồm:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Quân sự;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Văn hóa;
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đạo đức, nhân văn.v.v...
Trong đó, bộ phận cấu thành cơ bản, có ý nghĩa quan trọng của tư tưởng Hồ
chí Minh chính là: Đạo đức cách mạng (có thể hiểu là Đạo đức của Người cán bộ
cách mạng, vì Bác đã từng dạy rằng: “Đạo đức là cái gốc của người cán bộ cách
mạng”, “Cán bộ nào, phong trào nấy”. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải xây
dựng con người chủ nghĩa xã hội”…).
1. Đạo đức là cái gốc của người cán bộ cách mạng
Muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn được dân tin yêu, mến phục, người cán bộ
cách mạng phải có đủ cả tài và đức. Tài và đức đều quan trọng, không thể thiếu
mặt nào ở người cán bộ. Đảng ta và Bác Hồ luôn coi trọng cả tài và đức. Song,
trong mối quan hệ đó, tài hay đức giữ vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của
người cán bộ Đảng viên?
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức là cái “gốc” của người cách mạng.
Người khẳng định: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có
đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân” (Sách đã dẫn, t.5, tr.252-253).
Tư tưởng đạo đức của Người được thể hiện trong các tác phẩm “Đường cách
mệnh” (1927), “Sửa đổi lối làm việc” (1947), “Cần, kiệm, liêm, chính” (1949),
“Đạo đức cách mạng” (1958), “Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa
cá nhân” (1969) và “Di chúc” (1965-1969). Người cán bộ cách mạng có đạo đức
thì khi gặp khó khăn, gian khổ cũng không chùn bước; khi thuận lợi, thành công
cũng không tự mãn, kiêu ngạo. Đối với Đảng ta, một Đảng cầm quyền, đạo đức
cách mạng là nền tảng tinh thần của Đảng, giúp Đảng thêm trong sạch, vững mạnh,
xứng đáng là người lãnh đạo tin cậy của toàn dân, toàn xã hội.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, người cán bộ cách mạng cần phải có
những chuẩn mực đạo đức cơ bản sau: a) Trung với nước, hiếu với dân; b) Cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; c) Nhân, nghĩa, trí, dũng, tín.
1.1. Trung với nước, hiếu với dân
Thời Phong kiến quan niệm rằng: Trung là trung thành với cá nhân Vua Chúa;
Hiếu là hiếu với cha mẹ. Theo Bác, Trung là trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với
Đảng, với nhân dân; Hiếu không những chỉ hiếu với cha mẹ, mà còn là hiếu với
nhân dân, tuyệt đối trung thành phục vụ nhân dân, lấy “dân làm gốc”, vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đầy tớ, công bộc của dân. Người yêu cầu cán bộ cách mạng
phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, như vậy mới được dân tin yêu, mến
phục, do đó mà hoàn thành nhiệm vụ cách mạng của mình.
1.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Hồ Chí Minh khái quát những phẩm chất đạo đức cơ bản của người cán bộ
Đảng viên trong 8 chữ: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Người chỉ ra rằng:
Để xây dựng một bộ máy Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh, không có hiện
tượng tham ô, lãng phí đòi hỏi mỗi cán bộ Đảng viên phải triệt để thực hiện cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Người nói:
Trời có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa không thành trời
Thiếu một phương không thành đất
Thiếu một đức không thành người. (S.đ.d, t.5, tr.631)
Người đã viết hẳn một cuốn sách giải thích 4 chữ cần, kiệm, liêm, chính với
bút danh Lê Quyết Thắng (1949). Riêng chữ Cần , Người phân tích cả nghĩa rộng
và hẹp: Cần không chỉ là cần cù siêng năng, mà còn phải biết làm việc có kế
hoạch, có sự phân công, tính toán khoa học, lao động có năng suất cao, cải tiến kỹ
thuật, sáng tạo, đạt hiệu quả tốt nhất. Kiệm là không xa xỉ, hoang phí cả tiền của
lẫn thời gian. Liêm là trong sạch, không tham lam, không tham tiền của, địa vị,
danh lợi; Chính là không dối trá, tà ý, lòng dạ ngay thẳng, đứng đắn.
Chí công vô tư theo quan điểm của Bác là: hết sức, hết lòng lo cho công việc
chung của tập thể, của Đảng, của dân; hết sức vì sự công bằng, đặt lợi ích của tập
thể, của Đảng lên trên lợi ích cá nhân, riêng tư.
Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”
Người nhấn mạnh: Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm của đạo đức cách mạng
và chủ nghĩa xã hội, “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Cho nên, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi
của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.
Tuy nhiên, ta cần phân biệt rõ các khái niệm “chủ nghĩa cá nhân”, “ lợi ích cá
nhân”, và “cá nhân” để tránh sự nhầm lẫn, tránh sa vào âm mưu xuyên tạc bản chất
của chế độ ta của các thế lực thù địch. Hồ Chí Minh là người có lòng yêu nước
thương dân sâu sắc, Người hết sức tôn trọng cá nhân, các lợi ích, các quyền chân
chính của mỗi cá nhân con người. Người từng khẳng định: Đấu tranh chống chủ
nghĩa cá nhân không phải là dày xéo lên lợi ích cá nhân. Nếu những lợi ích cá nhân
đó không trái với lợi ích của tập thể thì không có gì là xấu cả. Ngày nay, Đảng và
Nhà nước ta tiếp tục khẳng định rõ thêm: Mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước đều phải làm sao thỏa mãn được những lợi ích cá nhân chính đáng của người
lao động, trước hết là lợi ích vật chất. Coi đó là một trong những động lực cơ bản
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
1.3. Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Tín
Theo Bác, Nhân - có nghĩa là phải giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu đồng bào
đồng chí, hết lòng giúp đỡ mọi người, kiên quyết chống lại những gì có hại cho
Đảng, cho dân, cho nước.
Nghĩa - là làm việc chính, đúng đắn, trung thành với lý tưởng của Đảng, của
dân tộc với tinh thần “trước sau như một”, không giấu giếm tổ chức Đảng và tập
thể. Người có Nghĩa là người biết ăn ở trước sau, không hai mặt, không phản bội,
không làm điều gì mờ ám, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với đồng
chí đồng bào.
Trí - là trí tuệ, đầu óc phải minh mẫn, sáng suốt, không vì lợi riêng mà mờ
mắt; phải thường xuyên bổ sung, nâng cao kiến thức, trình độ lý luận chính trị khoa học để giải quyết đúng đắn những vấn đề cách mạng giao (Biết xét người,
biết xét việc, trọng dụng người tài, giải quyết công việc có hiệu quả cao).
Dũng - là dũng cảm, kiên định, không sợ khó khăn, gian khổ, hiểm nguy; nếu
cần cũng phải sẵn sàng hy sinh cả tính mạng cho Đảng, cho Tổ quốc.
Tín - Là lòng tin, là uy tín, danh dự. Nói phải đi đôi với làm, lý thuyết phải
gắn liền với hành động. Mất lòng tin, nhân dân sẽ không tin vào cán bộ cách mạng,
cán bộ cũng không lãnh đạo được nhân dân.
2. Đạo đức người cán bộ Tòa án theo lời dạy của Bác
2.1. Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư
Tháng 02/1948, Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức tại
Việt Bắc. Dù bận rộn trăm công nghìn việc, lo chỉ đạo kháng chiến, nhưng Bác vẫn
quan tâm gửi thư tới Hội nghị. Bác dặn dò trong thư rằng: “Tư pháp là một cơ
quan trọng yếu của Chính quyền, cho nên càng phải tinh thành đoàn kết, hợp tác
chặt chẽ với các cơ quan khác, để tránh những mối xích mích lẫn nhau, nó có thể
vì quyền lợi nhỏ mà hại đến quyền lợi to và chung, cho cả tư pháp và hành chính.
Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn
cần phải nêu cao cái gương “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” cho nhân
dân noi theo” (Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, 1958, t.1, tr.235).
Từ năm 2008 cho tới nay, Ngành Tòa án nhân dân luôn nhắc tới lời dạy của
Bác “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” trong các văn bản và trong các phong
trào thi đua yêu nước, xem đó là một tiêu chuẩn đạo đức cho mỗi cán bộ, Thẩm
phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án noi theo để rèn luyện trong công tác. Nhưng
để hiểu tường tận, chuẩn xác về ý nghĩa của những lời Bác dạy, không phải ai cũng
hiểu đầy đủ, chính xác.
Phụng công, thủ pháp - là những từ gốc Hán - Việt, vào những năm 1948 nhân
dân ta thường dùng. Phụng - là phụng sự, là phục vụ vô điều kiện. Phụng công là
phụng sự vô điều kiện đối với việc công, việc nước, việc dân. Thủ - là tuân thủ,
phục tùng nghiêm ngặt. Thủ pháp là tuân thủ nghiêm công pháp, pháp luật.
Ý nghĩa câu này là hết lòng phục vụ công việc của Nhà nước, của quốc gia,
của nhân dân với tinh thần “thượng tôn pháp luật”; trong hoạt động nghiệp vụ phải
đặt lợi ích của Nhà nước, của nhân dân lên trên hết, bất luận lý do gì cũng phải
tuân theo các quy định của pháp luật, không được làm trái quy định pháp luật.
Đối với người cán bộ Tòa án, “Phụng công, thủ pháp” ngày nay đã được cụ
thể hóa tại khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân
(Pháp lệnh năm 2002, sửa đổi bổ sung năm 2011): “Trung thành với Tổ quốc và
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt,
liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”
và tại Điều 13 của Pháp lệnh: “Thẩm phán phải gương mẫu trong việc chấp hành
Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt
cộng đồng, tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật.”
2.2. Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân
Tại Hội nghị Học tập của cán bộ Ngành Tư pháp (1950), Bác đã trực tiếp đến
dự Hội nghị và chỉ giáo nhiều điều quý báu đối với cán bộ Tòa án. Bác đã dành
nhiều thời gian để phân tích về những điều khác biệt giữa luật pháp của phong
kiến, đế quốc và luật pháp của chế độ cách mạng Việt Nam dân chủ cộng hòa. Về
đạo đức của người cán bộ Tòa án trong hoạt động xét xử, Bác nói: “…Trong công
tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không
thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung Tòa án. Phải gần dân, hiểu
dân, giúp dân, học dân. Giúp dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm
công bằng. Thêm nữa là phải luôn luôn cố gắng học tập lý luận, học tập đường
lối chính sách của Chính phủ… Tóm lại, các chú phải công bằng, liêm khiết,
trong sạch, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”(Nhà nước và Pháp luật, Nxb
Lao động, 1971, t.III, tr.138-142).
Từ thời xa xưa, trên quan điểm lấy dân làm gốc, Nguyễn Trãi đã từng nói:
“Dân là người đẩy thuyền, dân cũng là người lật thuyền”. Lê Nin cũng đưa ra luận
điểm bất hủ: “Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Kế thừa những
tinh hoa đó, Hồ Chí Minh đã nói: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/khó vạn lần
dân liệu cũng xong”. Người chỉ giáo rằng: “Người cách mạng cần biết đem tài dân,
sức dân, của dân làm lợi cho dân” (Hồ Chí Minh toàn tập, t.5. tr.65). Tư tưởng nhất
quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là vì nhân dân: “Trong
bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang
bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân” (Hồ chí Minh toàn tập, t.7. tr.544).
Tại khoản 1,2 Điều 2 của Hiến pháp năm 2013 đã chỉ rõ:
“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.”.
Để đảm bảo thực hiện được mục tiêu tốt đẹp này, khoản 2 Điều 8 của Hiến
pháp hiện hành còn quy định:“ 2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên
chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa
quyền”. Trong bài Dân vận (1949), Hồ Chí Minh đã viết: “Cán bộ Chính quyền
phải là người trước hết phải làm công tác dân vận”.
Trở lại lời dạy của Người đối với cán bộ Tòa án “Phải gần dân, hiểu dân,
giúp dân, học dân”, chúng ta thấy tính nhất quán trong tư tưởng vì nhân dân của
Bác. Cán bộ Nhà nước nói chung, Cán bộ Tòa án nói riêng nếu xa dân, không hiểu
dân, không giúp dân thì chẳng những không hoàn thành nhiệm vụ chính trị được
giao, mà còn không xứng đáng với lòng tin của Đảng, của nhân dân đã giao phó
cho mình trọng trách, nhiệm vụ thay mặt nhân dân để làm công tác Nhà nước (đặc
biệt đối với cán bộ Tòa án, những người thay mặt Nhà nước, “Nhân danh nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để tuyên những bản án, giữ nghiêm kỷ
cương, pháp luật). Mặt khác, nếu xa dân, quan liêu hách dịch, nhũng nhiễu là đi
ngược lại với quy luật của đấu tranh cách mạng, trở thành những “ông quan”
phong kiến trong mắt nhân dân, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối
với bản chất tốt đẹp của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Lời dạy “Phụng công, thủ pháp” của Người đối với cán bộ Tòa án thật sáng
suốt, chí lý. Cụ thể hóa những tinh thần chỉ giáo của Người, để đảm bảo cho việc
thực hiện lời dạy đó của Bác, Điều 13 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án
nhân dân hiện hành (năm 2002, sửa đổi bổ sung năm 2011) quy định rõ: “Thẩm
phán phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến Pháp, pháp luật”; Điều 15 còn
chỉ rõ những việc Thẩm phán không được làm:
“1) Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm;
2) Tư vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm
cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp
luật;
3) Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh
hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án;
4) Đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan, nếu không
vì nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền;
5) Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ
án mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định.”
Nếu Thẩm phán vi phạm những quy định nêu trên (Điều 15), tại Điều 30 của
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân hiện hành đã quy định các
hình thức xử lý như sau:
“…Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, Thẩm phán có thể bị cách chức
chức danh Thẩm phán khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Vi phạm trong công tác xét xử, giải quyết những việc thuộc thẩm quyền của
Tòa án;
b) Vi phạm quy định tại Điều 15 của Pháp lệnh này;
c) Bị kỷ luật bằng hình thức cách chức chức vụ quản lý đang đảm nhiệm theo
quy định của pháp luật về cán bộ, công chức;
d) Vi phạm về phẩm chất đạo đức;
đ) Có hành vi vi phạm pháp luật khác.”
Cụ thể hóa các quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân,
Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành “Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức
Ngành Tòa án nhân dân” (số 1253/2008/QĐ-TCCB ngày 18/09/2008).
Tại Điều 1 của Quy tắc này quy định:
- “Cán bộ, công chức Ngành Tòa án nhân dân phải thực sự “Phụng công, thủ
pháp, chí công vô tư” (khoản1);
- Thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước (khoản 2);
- Thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức theo
quy định của pháp luật; nghiêm chỉnh chấp hành và thực hiện đúng các quy chế,
quy định làm việc và nội quy cơ quan (khoản 3);
- Có quan hệ tốt với nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân (khoản 6);
- Không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện để nânh cao năng lực, phẩm chất
chính trị, đạo đức nghề nghiệp, ứng xử có văn hóa để hoàn thành nhiệm vụ, công
vụ được giao (khoản 4)”.
Đồng thời, bản “Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức Ngành Tòa án nhân
dân” còn quy định cụ thể các hành vi ứng xử, những việc phải làm và không được
làm của cán bộ, công chức Ngành Tòa án trong các lĩnh vực công tác, các mối
quan hệ trong và ngoài Ngành Tòa án: Ứng xử trong việc thực hiện nhiệm vụ giải
quyết, xét xử các loại vụ án; Ứng xử trong thực hiện tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo; ứng xử trong thực hiện nhiệm vụ phòng chống tham nhũng; Ứng
xử trong cơ quan, đơn vị; ứng xử tại nơi cư trú; ứng xử với các cơ quan, tổ chức
có liên quan và cơ quan thông tin báo chí; ứng xử với cơ quan, tổ chức, cá nhân
nước ngoài; Ứng xử trong gia đình; Ứng xử tại nơi công cộng…
Tư tưởng về Đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh đối với cán bộ, Đảng viên
nói chung, đối với cán bộ Ngành Tòa án nhân dân nói riêng (đặc biệt là lời dạy của
Người đối với cán bộ, công chức Ngành Tòa án) là kim chỉ Nam quý báu trong
việc rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao bản lĩnh chính trị của người cán bộ
Nhà nước, nhằm phục vụ Đảng, nhân dân ngày càng tốt hơn, xứng đáng là những
cán bộ “công bộc” của một Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân.
Những ý nghĩa, tinh thần từ Lời dạy của Bác không phải những gì cao xa, xa
lạ đối với mỗi chúng ta, mà chính là những quy định cụ thể, rõ ràng trong Hiến
pháp, Luật Cán bộ, công chức, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân
dân, trong các quy định của Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức Ngành Tòa án
nhân dân.
Học tập và làm theo tấm gương Đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi
cán bộ, Thẩm phán, công chức Ngành Tòa án nhân dân phải thấm nhuần ý nghĩa
nhân văn trong các lời dạy của Người, có kế hoạch tự giác rèn luyện phẩm chất
đạo đức, làm theo Người từ những việc nhỏ trong sinh hoạt và công tác, chấp
hành nghiêm túc mọi quy định của pháp luật và các quy định của Ngành, phấn
đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ chính trị được giao.
III. PHƯƠNG HƯỚNG RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CỦA THẨM PHÁN,
CÁN BỘ, CÔNG NGÀNH TÒA ÁN NHÂN DÂN
1. Việc tự giác rèn luyện phẩm chất đạo đức của mỗi cán bộ, công chức
Ngành Tòa án nhân dân
Việc hình thành nhân cách con người nói chung, rèn luyện phẩm chất đạo đức
của mỗi người nói riêng thường là kết quả của ba yếu tố: Môi trường học tập, công
tác; Sự quản lý, giáo dục của xã hội, cơ quan, nhà trường; Sự tự giác rèn luyện, cố
gắng phấn đấu bền bỉ, tinh thần nghị lực trong quá trình hoạt động lâu dài trong
- Xem thêm -