TUYỂN TẬP TÂM LÝ HỌC
TUYỂN TẬP TÂM LÝ HỌC
Tác giả: PHẠM MINH HẠC
TỂU SỬ TÁC GIẢ
Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc sinh ngày
26-10-1935 tại thôn Đông Phù, xã Đông Mỹ, huyện
Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội.
Học Đại học Văn khoa Hà Nội (1954-1955),
tốt nghiệp Đại học Tâm lý học (1962), Tiến sĩ Tâm lý
học (1971), Tiến sĩ Khoa học Tâm lý học (1977) tại
trường Đại học tổng hợpp Lômônôxôp, Nga, được
phong Giáo sư (1984), phong Viện sĩ Viện Hàn lâm
khoa học chính trị Nga (1999).
Uỷ viên Trung ương Đảng khoá VI, VII, VIII
(1986 - 2001), Đại biểu Quốc hội khoá VII, VIII (19811991), Viện phó rồi Viện trưởng Viện Khoa học giáo
dục (1980-1987), Thứ trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Giáo
dục (1985-1990), Thứ trưởng thứ nhất Bộ Giáo dục và
Đào tạo (1990-1996), Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Bảo vệ
và chăm sóc trẻ em Việt Nam (1989-1996), phó Chủ
tịch rồi ủy viên Uỷ ban UNESCO Việt Nam (1990 - đến
nay), Uỷ viên Uỷ ban dân số và kế hoạch hoá gia đình
(1990-1996), Chủ tịch Uỷ ban quốc gia chống mù chữ
(1989 - 2001), Phó trưởng ban thứ nhất Ban Khoa giáo
Trung ương (1996 - đến nay), Phó Chủ tịch Thường
trực rồi uỷ viên Hội đồng lý luận Trung ương (1996 đến nay), Chủ tịch Hội tâm lý - giáo dục học Việt Nam
(1990 - đến nay). Chủ tịch Hội đồng chức danh giáo
sư nhà nước (từ 2001) Viện trưởng Viện Nghiên cứu
con người (2000 - đến nay), Tổng biên tập Tạp chí
Nghiên cứu giáo dục (1983 - 1988), Tạp chí Thông tin
khoa học giáo dục (1983-1987), báo Dân trí (19972001), Tạp chí Nghiên cứu con người (từ 5 - 2002).
LỜI TỰA
Cuốn sách này bao gồm những công trình
khoa học tôi đã thực hiện trong 40 năm qua (19622002), từ ngày về công tác tại Tổ Tâm lý - Giáo dục
trường Đại học Sư phạm Hà Nội, sau khi tốt nghiệp
Phân khoa Tâm lý học thuộc Khoa Triết học Trường
Đại học Quốc gia Mátxcơva mang tên Lômônôxốp. Lúc
đó, tuy mới là bước đầu, nhưng tôi đã ấp ủ ý tưởng
phải góp phần xây dựng nền tâm lý học nước nhà, coi
đó là nhiệm vụ thiêng liêng của đời mình, cùng với ý
thức, tuy chưa sâu sắc rằng giảng dạy ở đại học muốn
tốt, phải nghiên cứu khoa học. Vì vậy, ngay từ năm dạy
học đầu tiên của tôi, tôi đã cùng với các bạn đồng
nghiệp trong Tổ tiến hành một công trình thực nghiệm
tâm lý học trí nhớ ở học sinh phổ thông cơ sở và phổ
thông trung học Yên Hoà, Từ Liêm, Hà Nội. Đây là
công trình nghiên cứu tâm lý học thực nghiệm đầu tiên
ở nước ta. Bên cạnh công trình này, tôi đã tiến hành
nghiên cứu lý luận, thể hiện qua việc phân tích một
cuốn sách giáo khoa xuất bản ở Sài Gòn.
Sau đó vài năm, với tư cách là tổ trưởng Tổ
Tâm lý học của Khoa Tâm lý - giáo dục, tôi đã cùng với
anh chị em trong tổ xây dựng một giáo trình tâm lý học.
Vừa soạn vừa dạy thử và rút kinh nghiệm, mặc dù
trong những điều kiện sơ tán cực kỳ khó khăn, khi ở
trên rừng Đại Từ, Thái Nguyên, khi ở Phủ Cừ, Hưng
Yên. Chúng tôi đã lao động không mệt mỏi, say sưa
lên lớp, thảo luận sửa giáo trình rất sôi nổi, cẩn thận,
lao động miệt mài... Năm 1969, trước khi được Tổ cử
đi học nghiên cứu sinh, bộ giáo trình đã được hoàn
thành và được Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản vào
năm 1970. Cuốn sách này đến nay vẫn được nhiều
giảng viên, sinh viên sử dụng.
Về nước sau khi bảo vệ xong luận án phó tiến
sĩ tại Hội đồng khoa học Khoa Tâm lý học Trường Đại
học quốc gia Lômônôxốp, Mátxcơva, với tư cách là Phó
trưởng ban Tâm lý học Viện Khoa học giáo dục, tôi đã
đi sâu vào tâm lý học sư phạm. Công trình nghiên cứu
tâm lý học đáng kể trong thời kỳ này do tôi chỉ đạo là
nghiên cứu nhiều mặt của hoạt động tâm lý của học
sinh Bắc Lý, Hà Nam. Toàn thể các cán bộ Ban Tâm lý
học đã tập trung gần hai tháng sống tại Bắc Lý, hàng
ngày tiến hành thực nghiệm nghiên cứu trí nhớ, tư duy,
chú ý, nhân cách... học sinh cấp II (nay gọi là trung học
cơ sở) Bắc Lý, chiều tối thăm và tìm hiểu hoàn cảnh
gia đình, cuộc sống thực của các em. Số liệu thu thập
được đã được tính toán rất cẩn thận, phân tích lý luận
khá chu đáo trong mấy tháng tại Phùng Thượng, Sơn
Tây (nay thuộc Hà Tây), địa điểm sơ tán của Viện. Rất
tiếc, nay mới chỉ tìm thấy một bài do tôi viết và được
đưa vào tập sách này. Đây là một công trình thực
nghiệm đầu tiên về tâm lý lứa tuổi và sư phạm ở nước
ta.
Sau 18 tháng công tác tại Ban Tâm lý học
Viện Khoa học giáo dục, tháng 12 năm 1972 tôi được
cử đi làm thực tập sinh cao cấp để viết luận án tiến sĩ
(nay ở ta gọi là tiến sĩ khoa học). Đánh giá luận án phó
tiến sĩ, Hội đồng khoa học Khoa Tâm lý học Trường
Đại học Quốc gia Mátxcơva đã đề nghị cho tôi tiếp tục
đề tài nghiên cứu tâm lý học thần kinh về trí nhớ để
làm luận án tiến sĩ khoa học, nhưng các đồng chí lãnh
đạo giáo dục nước nhà lúc đó lại giao nhiệm vụ cho tôi
khi làm luận án tiến sĩ khoa học, phải làm "một đề tài
nào đó rộng hơn một phòng thí nghiệm". Tới Mátxcơva,
sau ba tháng đọc sách, trao đổi với các giáo sư, nhất
là với Giáo sư, Viện sĩ N. Lêônchiép, tôi đã hoàn thành
đề cương nghiên cứu theo hướng tìm tòi con đường
xây dựng và phát triển khoa học tâm lý. Được Hội đồng
khoa học Khoa Tâm lý học thông qua đề cương
nghiên cứu, tôi bắt tay vào triển khai đề tài với sự tư
vấn của GS.VS Lêônchiép, cuối cùng đặt tên cho luận
án là Hành vi và hoạt động và bảo vệ thành công vào
mùa hè năm 1977.
Lần này (7-1977) về nước, tôi được phân
công làm Trưởng ban Ban Tâm lý học Viện Khoa học
giáo dục. Bên cạnh công tác quản lý và giảng dạy
trong mấy năm này (1977-1980) tôi chủ trì đề tài
nghiên cứu học sinh trường phổ thông - công nông
nghiệp của Bộ Công an đặt tại Thủy Nguyên, Hải
Phòng. Tôi đã trực tiếp tiến hành thực nghiệm và tổng
kết tập trung vào vấn đề nhân cách. Có thể coi đây là
một trong các công trình mở đầu những thực nghiệm
tâm lý học nhân cách ở nước ta. Sản phẩm giảng dạy
trong thời kỳ này - tác phẩm Nhập môn tâm lý học
được Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1980, nay
các bạn có thể đọc trong Tuyển tập này.
Những năm tiếp theo (1981-1987), mặc dù
tuy quá bận rộn với công tác quản lý tôi vẫn kiên trì
dành một số thời gian nhất định vào công tác nghiên
cứu khoa học. Theo sự đề xuất của tôi, được lãnh đạo
Viện thông qua, tôi tập trung chỉ đạo triển khai một đề
tài lớn: "Nghiên cứu hoạt động dạy - học từ cấp độ
nhân cách đến cấp độ toàn xã hội" - đề tài của toàn
Viện, trong đó tôi trực tiếp cùng với anh chị em Ban
Tâm lý học tiến hành thực nghiệm ở Trường phổ
thông cơ sở Ngô Sĩ Liên, Hà Nội, thực hiện đề tài cụ
thể "Nghiên cứu hoạt động chủ đạo của học sinh cấp II
(nay là THCS)". Rất tiếc vì tôi phải thuyên chuyển công
tác nên đề tài của Viện không tổng kết được. Còn sản
phẩm của đề tài của Ban Tâm lý học mãi đến năm
2001 mới tập hợp lại được thành một tập kỷ yếu và
được Viện Khoa học giáo dục cho xuất bản vào dịp kỷ
niệm 40 năm thành lập Viện Khoa học giáo dục. Bài
của tôi trong tập kỷ yếu đó cũng được tuyển vào tập
sách này. Đây là một trong những vận dụng những
điều tôi học tập được và đã phản ánh trong tập sách
Hành vi và hoạt động trong việc xây dựng nền tâm lý
học nước nhà.
Cũng từ hai đề tài kể ở đây, đồng thời với
cương vị công tác quản lý mới, tôi đã dành một phần
thời gian và trí tuệ vào việc nghiên cứu lý luận và thực
tiễn giáo dục nước nhà. Kết quả nghiên cứu theo
hướng này bắt đầu từ 1981, tức là từ khi tôi được cử
làm Viện trưởng Viện Khoa học giáo dục và một phần
kết quả nghiên cứu đã được phản ánh trong tác phẩm
Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI (NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, tái bản 2002). Sau
đó, từ 1991, các kết quả nghiên cứu tâm lý học mà tôi
đã thu được theo hướng nhân học văn hóa - xã hội,
được đúc kết trong tác phẩm Nghiên cứu con người và
nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện
đại hóa (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001). Các
công trình trong Tuyển tập này đã cung cấp cơ sở lý
luận cho hai tác phẩm trên cùng với hai hướng nghiên
cứu tương ứng, sau đó tôi đã tiếp tục nghiên cứu
phương pháp luận, lý luận tâm lý học và phổ biến
khoa học tâm lý trên một số các bài báo và chúng
được tập hợp để đưa vào phần cuối của Tuyển tập.
Viết mấy dòng tựa đề tập sách, trước hết tôi
xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Đảng, Nhà nước
đã đào tạo tôi thành một cán bộ khoa học và sự cảm
ơn to lớn đối với các bạn đồng nghiệp, các tập thể
khoa học mà tôi đã có dịp cùng công tác về sự hợp tác
hết sức quý báu, vì không có sự hợp tác đó của các
bạn chắc chắn không thể có được tập sách này, cũng
như các công trình khác của tôi. Đặc biệt, tôi muốn
được gửi lời cảm ơn trân trọng tới Nhà xuất bản Giáo
dục, nơi đỡ đầu cho các tác phẩm của tôi ra đời phục
vụ bạn đọc trong suốt mấy chục năm qua.
Tập sách chắc chắn không tránh khỏi thiếu
sót. Mong được sự chỉ giáo của bạn đọc gần xa.
Ngọc Hà, Tết Nhâm Ngọ 2002
TÁC GIẢ
Nhập đề. TÂM LÝ HỌC VÀ CUỘC SỐNG BƯỚC ĐẦU
XÂY DỰNG TÂM LÝ HỌC VIỆT NAM
Quyển I. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
Quyển II. HÀNH VI VÀ HOẠT ĐỘNG
Quyển III. NHẬP MÔN TÂM LÝ HỌC
Quyển IV. TÂM LÝ HỌC VƯGỐTXKI
SÁCH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
Created by AM Word2CHM
Nhập đề. TÂM LÝ HỌC VÀ CUỘC SỐNG
BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG TÂM LÝ HỌC VIỆT
NAM
TUYỂN TẬP TÂM LÝ HỌC
Nền khoa học của nước ta là một trong
những thành tựu tốt đẹp nhất của Cách mạng tháng
Tám. Trong nền khoa học ấy, tâm lý học là một trong
những ngành khoa học mới ra đời trong kháng chiến
chống thực dân Pháp và trưởng thành trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, rồi tiếp tục phát triển
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngay từ lúc còn trứng nước và trong suốt quá
trình phát triển, Tâm lý học của chúng ta luôn luôn gắn
bó với cuộc sống. Bài giảng tâm lý học ở đại học đã
mau chóng chuyển thành bài nói chuyện phổ thông
cho nông dân, công nhân, bộ đội và bà con công
thương... Từ chỗ mới nghiên cứu tâm lý học đại
cương, chúng ta đã sớm đi vào nghiên cứu tâm lý học
sư phạm và lứa tuổi, tiếp đó đã mở ra các hướng
nghiên cứu tâm lý học quân sự, tâm lý học tư pháp,
tâm lý học y học, tâm lý học thể thao, tâm lý học dân
tộc, tâm lý học quản lý, tâm lý học nghệ thuật, và gần
đây là tâm lý học điện ảnh, tâm lý học phụ nữ, tâm lý
học công dân, tâm lý học thương nghiệp, v.v...
Như vậy, tâm lý học cũng như các ngành
khoa học khác, đã từ cuộc sống mà ra và gắn bó với
cuộc sống, phục vụ yêu cầu của cách mạng, của đất
nước. Nhờ vậy đội ngũ những người nghiên cứu tâm
lý học ngày càng phát triển.
Tâm lý học gắn liền với cuộc sống là phương
châm và nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ hoạt động của
từng cơ sở nghiên cứu và giảng dạy tâm lý học. Đó
cũng là lẽ tồn tại của khoa học nói chung và của tâm lý
học nói riêng. Bởi vì, cuộc sống của con người và xã
hội loài người có một chất lượng đặc trưng, một thành
tố không thể thiếu - đó là tâm lý.
Từ thế kỷ IV trước Công nguyên, Arixtốt đã có ý
nói tới ba loại tâm hồn tương ứng với ba cuộc sống:
cuộc sống thực vật, cuộc sống động vật và cuộc sống
của con người. Con người đã được nuôi dưỡng và
sinh nở; con người không thể thiếu cảm thụ, ước
mong và vận động; con người bao giờ cũng là con
người có biểu tượng, thích tưởng tượng, biết lập luận
và lý giải. Tất cả các chức năng đó ở con người (nuôi
dưỡng và sinh nở, cảm thụ và vận động, ước mong và
biểu tượng, tưởng tượng và lý giải...) hợp thành cuộc
sống tâm lý. Có thể phân biệt cuộc sống tâm lý với
cuộc sống sinh vật, tựa như cuộc sống tinh thần với
cuộc sống cơ thể. Có người còn nói tới cái chết tâm lý
khác với cái chết cơ thể của họ.
Trình bày những điều trên đây là nhằm khẳng
định lại một lần nữa chân lý đơn giản về vai trò của
tâm lý trong đời sống cũng như xác định lại vị trí của
tâm lý học trong cuộc sống. Vị trí ấy chỉ có thể có được
với điều kiện những người nghiên cứu tâm lý học thực
thi được vai trò ấy.
Chính vì vậy, nếu có một bảng phân loại các
khoa học ở Việt Nam hiện nay thì đương nhiên trong
đó có tâm lý học. Có thể coi đây là một thành tựu quý
báu của đội ngũ cán bộ tâm lý học Việt Nam. Ở bảng
phân loại này, tâm lý học là khoa học hạt nhân trong
nhóm khoa học đào tạo con người; nhóm khoa học
này giữ vị trí chủ chốt trong cả nhóm các khoa học về
con người.
Cuộc sống của con người là một dòng hoạt
động bao gồm dòng tính tích cực, dòng ý thức, dòng tư
duy. Dòng hoạt động ấy nhằm vào một đối tượng cụ
thể để thay đổi đối tượng hoặc lĩnh hội nội dung phản
ánh nhận thức về đối tượng đó. Đấy là việc khách thể
hóa hoạt động ra bên ngoài đối tượng, hoặc tách vật
thể biến thành hoạt động bên trong.
Nghiên cứu mối liên quan giữa hoạt động và
thực tiễn là mối quan tâm thường xuyên của các nhà
triết học, các nhà tâm lý học. Thực tiễn của loài người
là thực tiễn do các thế hệ nối tiếp nhau tạo ra; do đó,
hoạt động của loài người được gọi là thực tiễn xã hội lịch sử. Trong triết học cũng như trong tâm lý học, từ
hoạt động đi liền với từ thực tiễn, cũng như với từ đối
tượng. Phạm trù hoạt động với tính cách là một
phương pháp tiếp cận, bao hàm nội dung của cả thuật
ngữ hoạt động thực tiễn hay hoạt động đối tượng.
Tâm lý học vận dụng phương pháp tiếp cận
hoạt động đã đem lại những kết quả to lớn mở ra triển
vọng tốt đẹp đưa tâm lý học vào cuộc sống. Đồng thời,
nền tâm lý học này ngày càng có tác dụng tích cực và
thiết thực cho cuộc sống: một mặt, nghiên cứu cơ chế
khách thể hóa hoạt động, tức cơ chế tạo ra sản phẩm;
mặt khác, đi vào nghiên cứu cơ chế tách khỏi vật thể
biến thành lực lượng bản chất của chủ thể, tức là cơ
chế hình thành và phát triển nhân cách. Đó là lô gích
của đối tượng khoa học. Còn trong cuộc sống, quá
trình cải tạo biến đổi, sáng tạo thế giới bên ngoài cũng
là quá trình cải biến, sáng tạo thế giới bên trong của
chủ thể quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Thực tiễn đổi mới của đất nước đòi hỏi phân
bố lại cho đúng sức lao động, tức là làm cho mọi
người tích cực hoạt động trong lĩnh vực được phân
công, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có ích (sản phẩm
vật chất, sản phẩm tinh thần, sản phẩm tự tiêu dùng,
sản phẩm hàng hóa). Tâm lý học có thể và phải đóng
góp vào việc đẩy mạnh hoạt động của xã hội nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của từng
con người. Đồng thời rất cần chú ý tới động cơ vì sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì lợi ích của
người lao động và lợi ích của mọi người. Đó chính là
động cơ của hoạt động. Đó cũng là yêu cầu đối với
nạn giáo dục đang đổi mới trong việc giáo dục thế hệ
trẻ nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài.
Như vậy, nói hoạt động là nói tới hoạt động
thực tiễn, hoạt động đối tượng. Đó là hoạt động của
chủ thể. Trong quá trình hoạt động, chủ thể trở thành
nhân cách và hoặc hoàn thiện, hoặc ngược lại, suy
thoái nhân cách. Nói đến nhân cách là nói đến một hệ
thống thái độ: chủ thể - khách thể, chủ thể - chủ thể,
chủ thể - bản thân. Do đó, phạm trù hoạt động đòi hỏi
phải đi liền với phạm trù nhân cách; tương tự như vậy,
phương pháp tiếp cận hoạt động nhân cách không thể
tách rời phạm trù giao lưu (giao tiếp).
Trong cuộc sống cũng như trong khoa học,
với tư cách là sự phản ánh một cách khái quát, một
cách trừu tượng lô gích của cuộc sống, giao lưu là
điều kiện của hoạt động, là một trong những con
đường cực kỳ quan trọng đối với sự hình thành, phát
triển và hoàn thiện (hoặc suy thoái) nhân cách. Trong
những điều kiện nhất định, giao lưu có sự thể hiện và
vận hành đặc thù, và lúc đó, giao lưu xuất hiện như
một dạng hoạt động thực tiễn của con người.
Những năm qua, nhất là trong năm 1985, giới
tâm lý học ở nhiều nước đã sôi nổi tranh luận vấn đề
này. Có ý kiến cho rằng, về lý luận, cần có sự gắn bó
hoạt động với giao lưu. Được như vậy thì có thể giải
quyết được một số khó khăn mà lý luận tâm lý học đại
cương về hoạt động đang gặp phải và mở ra triển vọng
cho lý luận này. Năm 1982, tại Hội nghị tâm lý học
toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã đề xuất phương
hướng lý luận giải quyết thỏa đáng vấn đề này. Trong
thời gian qua, có một số công trình nghiên cứu của
Ban Tâm lý học Viện Khoa học giáo dục và một số đơn
vị khác đã thu được kết quả bước đầu và đã góp phần
khẳng định phương hướng lý luận đó thông qua tác
động nâng cao hiệu quả giảng dạy và giáo dục.
Sự ra đời và phát triển của tâm lý học ở Việt
Nam gắn bó hữu cơ với thời đại quang vinh nhất trong
lịch sử dân tộc, mở đầu từ Cách mạng tháng Tám.
Lúc đầu, tâm lý học xuất hiện với tính cách là
một môn học ở trường cao đẳng sư phạm và các
trường lítxê (PTTH thời Pháp thuộc). Giáo trình và sách
giáo khoa dùng trong các trường đó viết phỏng theo
tâm lý học của Phunquiê (Pháp), giới thiệu cho học
sinh, sinh viên Việt Nam nền tâm lý học nhị nguyên
duy tâm nội quan. Tinh thần ấy tiếp tục trong chương
trình và sách giáo khoa tâm lý học xuất bản ở miền
Nam Việt Nam (1954-1960). Có một điều khác biệt là
họ bổ sung tâm lý học nhân vị.
Nhưng bên cạnh đó, có những tư tưởng,
quan niệm về thế giới, đạo lý, con người,... bắt nguồn
từ cuộc sống chân chính của người lao động, từ sức
mạnh của dân tộc có nền văn hóa lâu đời, phát triển
trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Những tư tưởng quan niệm ấy nói riêng, nền văn minh
của dân tộc ta nói chung đã ghi lại trong thơ ca dân
gian, sử sách, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác,
thành tinh thần Việt Nam bất diệt. Nghiên cứu thơ ca,
một số tác giả (Nguyễn Hồng Phong, v.v...) đã đi đến
một số nhận xét khái quát về tâm lý dân tộc: cần cù,
dũng cảm, yêu độc lập tự do, giàu tính sáng tạo, v.v...
Những phẩm chất tiến bộ ấy mang thêm một
chất lượng mới nhờ ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lênin do Chủ tịch Hồ Chí Minh - người cộng sản Việt
Nam đầu tiên đem lại.
Đề cương văn hóa của Đảng Cộng sản Việt
Nam đề ra năm 1943 được thực hiện và thu được kết
quả ngay trong những năm kháng chiến cực kỳ gian
khổ, cũng như trong những năm khôi phục kinh tế, xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Cũng như các khoa học khác, tâm lý học
được Đảng và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quan tâm và
tạo mọi điều kiện để xây dựng từ nền tảng. Cùng với
việc thành lập Trường ĐHSP Hà Nội (1958), Tổ Tâm lý
học và Giáo dục học ra đời, một số người được phân
công tìm hiểu học tập và giảng dạy tâm lý học. Để xây
dựng chương trình giáo trình bộ môn này, họ đã tập
trung sức vào nghiên cứu sách giáo khoa tâm lý học
Xô-viết. Kết quả đầu tiên của công việc này là Nguyễn
Đức Minh, Phạm Cốc, Đỗ Thị Xuân cùng với dịch giả
Chu Quý đã biên soạn được một cuốn sách giáo khoa
tâm lý học. Lần đầu tiên một số thành tựu của tâm lý
học mác-xít, mà đại biểu là tâm lý học Xô-viết, được
giới thiệu có hệ thống với sinh viên và bạn đọc Việt
Nam.
Những người làm công tác tâm lý học ở Việt
Nam lúc đó đề ra cho mình nhiệm vụ hàng đầu là học
tập các cơ sở của tâm lý học mác-xít. Nhờ những công
trình của các nhà tâm lý học xô-viết, những người đầu
tiên phát hiện ra chủ nghĩa Mác cho tâm lý học, đã biết
được rằng, có một nền tâm lý học dựa trên cơ sở
phương pháp luận mác-xít. Theo đường lối phát triển
khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam, những người
làm công tác tâm lý học ngay từ đầu đã khẳng định
cho mình rằng, nền tâm lý học mà họ bắt tay vào xây
dựng là nền tâm lý học mác-xít.
Năm 1955, lần đầu tiên trong số sinh viên
được Chính phủ gửi đi học ở nước ngoài, có sinh viên
đi Liên Xô học Tâm lý học và Giáo dục học.
Một lớp học được tổ chức kéo dài hai năm
(1959-1961) cho cán bộ giảng dạy tâm lý học và giáo
dục học Trường ĐHSP Hà Nội. Hai chuyên gia Liên Xô
là P.A Praxétxki và P.I Xamaucốp được mời giảng bài
về tâm lý học và giáo dục học, vận dụng vào nhiều mặt
công tác thực tiễn của trường sư phạm và tập dượt
phương pháp nghiên cứu của các khoa học này. Có
thể nói, đây là một trong những viên gạch đầu tiên của
nền tâm lý học và giáo dục học mới ở nước ta.
Đội ngũ những người làm công tác tâm lý học
ngày một đông đảo, các tổ chức nghiên cứu tâm lý học
xuất hiện trong Viện Khoa học giáo dục (1961), Viện
Triết học (1966), v.v... Cùng với các tổ chức ấy, các tổ
bộ môn Tâm lý - Giáo dục học trong các trường sư
phạm lần lượt được thành lập. Đồng thời, nhiều ngành
(quân đội, công an, thể dục thể thao và các tổ chức
quần chúng) cũng có những bộ phận nghiên cứu,
giảng dạy bộ môn khoa học này.
Một trong những vấn đề đặt ra cho các nhà
tâm lý học ngay từ năm 1962 và cũng là sự quan tâm
hàng đầu của các cơ quan phụ trách bộ môn này là
đồng thời với việc học tập lý luận chung, phương pháp
luận mác-xít, phải làm sao cho ngày càng có đông đảo
cán bộ công tác trong lĩnh vực này nắm được các
phương pháp cụ thể, nghiên cứu các hiện tượng tâm
lý ở con người Việt Nam. Đó là cách đúng nhất để
chuyển tâm lý học, với tư cách là một bộ môn trong các
trường chuyên nghiệp, thành khoa tâm lý học, với tư
cách là một bộ phận của nền khoa học dân tộc.
Trong năm 1964, lần đầu tiên trên báo chí
xuất hiện bài giới thiệu một công trình thực nghiệm về
trí nhớ của học sinh Việt Nam. Đó là kết quả nghiên
cứu của tất cả cán bộ giảng dạy Tổ Tâm lý học Trường
ĐHSP Hà Nội, tiến hành trong năm 1962-1963. Ngoài
việc luyện phương pháp nghiên cứu cho các cán bộ
ấy, công trình này còn có mục đích xác định các chỉ số
tâm lý người Việt Nam. Các số liệu đó cho thấy, các
chỉ số phát hiện ở đây không khác các chỉ số về trí nhớ
đã có trong công trình nghiên cứu của tác giả các
nước: cũng thấy được con số thần kỳ 7 +/- 2, cũng thấy
sơ đồ biểu diễn sự quên, v.v... Những khác biệt giữa
học sinh Việt Nam và học sinh cùng lứa tuổi ở các
- Xem thêm -