MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Khái quát chung về pháp luật thuế.
1. Khái niệm thuế.
2. Khái niệm pháp luật thuế.
II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay:
1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu,
Trang
1
1
1
1
1
2
đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước.
2. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế, thực
2
hiện đường lối trong một thời kỳ nhất định của Nhà nước.
3. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các
3
thành phần kinh tế và công bằng xã hội.
4. Nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián tiếp
5
hoạt động sản xuất kinh doanh.
III. Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong
5
điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
1. Thực trạng áp dụng pháp luật thuế ở Việt Nam.
2. Nguyên nhân:
3. Giải pháp nhằm phát huy vai trò pháp luật thuế trong nền kinh tế thị
7
7
8
trường và hội nhập quốc tế.
3.1. Hoàn thiện chính sách thuế, hệ thống pháp luật nói chung và pháp
10
luật thuế nói riêng.
3.2. Kiên quyết chống thất thu, nâng cao trình độ nghiệp vụ và nhận thức
10
của mỗi cán bộ thu thuế, mặt khác tăng cường thanh tra kiểm tra để phát hiện
và xử lý ngay sai phạm.
3.3. Tăng cường công tác bồi dưỡng đội ngũ công chức thuế và phát
11
triển cơ sở hạ tầng ngành thuế.
3.4. Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính thuế và phòng chống
11
tham nhũng trong ngành thuế.
3.5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật thuế.
C. KẾT LUẬN.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
12
12
12
13
A. LỜI MỞĐẦU.
Trong thời đại ngày nay, hội nhập quốc tế đang là một xu thế phát triển tất yếu, cuốn
hút toàn thể nhân loại hòa vào dòng chảy của nó. Quá trình hội nhập quốc tế đã và đang tạo ra
những thời cơ và thách thức không nhỏ cho các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt
Nam. Một trong những thách thức ấy chính là việc xóa bỏ các rào cản tự do hóa thương mại
toàn cầu, trong đó quan trọng nhất là việc cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế
quan. Đây là vấn đề ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước trên
nhiều lĩnh vực, trong đó, bộ phận pháp luật chịu sự tác động trực tiếp của trào lưu hội nhập
chính là pháp luật thuế.
Ở nước ta hiện nay, cùng với quá trình phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, hệ
thống pháp luật thuế được hình thành và ngày càng phát triển. Pháp luật thuế có hệ thống quy
phạm phức tạp, chi tiết, thường xuyên được sửa đổi, thay thế, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của
Nhà nước và phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, pháp luật thuế giữ một vai trò
quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, nếu không có hệ thống pháp luật thuế thì không
thể thì một quốc gia không thể phát triển toàn diện.
Với ý nghĩa to lớn đó, sau đây em xin được đi tìm hiểu vấn đề: “Vai trò của pháp luật
thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” với mong muốn được hiểu biết rõ hơn về
các vai trò của hệ thống pháp luật thuế trong điều kiện của nước ta hiện nay.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Khái quát chung về pháp luật thuế.
1. Khái niệm thuế.
Thuế là khoản nộp mang tính chất bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ
phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luạt do cơ quan có
thẩm quyền ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp
thuế. Thuế không phải là một hiện tượng xã hội mà do chính con người định ra và nó gắn liền
với phạm trù Nhà nước và pháp luật.
2. Khái niệm pháp luật thuế.
Quan hệ thu, nộp thuế giữa nhà nước và dân cư phải được thực hiện dựa trên những
căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật thuế.
Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người nộp
thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định
trước. Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ,
qua đó lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp, đặt được hiệu quả điều chỉnh cao.
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của luật thuế ở Việt Nam cho thấy pháp
luật thuế ra đời rất sớm. Nhà nước với tư cách là chủ thể quyền lực, sử dụng công cụ riêng là
pháp luật để tập trung bộ phận của cải xã hội mà không phụ thuộc vào ý chí của đối tượng
nắm giữ của cải đó. Điều này cũng giúp cho việc phân biệt giữa luật thuế với luật ngân sách
nhà nước mặc dù giữa luật thuế và luật ngân sách nhà nước có mối liên hệ nội tại.
Hệ thống pháp luật thuế ở nước ta hiện nay bao gồm:
-
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005;
Luật quản lý thuế năm 2006;
Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2012);
Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008;
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008;
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008;
1
-
II.
Luật thuế tài nguyên năm 2009;
Luật thuế bảo vệ môi trường năm 2010;
Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010;
Các nghị định hướng dẫn thi hành những văn bản pháp luật nêu trên và các nghị
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.
Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay:
Như chúng ta đã biết để đảm bảo cho bộ máy nhà nước được duy trì và phát triển cần
có một nguồn tài chính ổn định để tạo điều kiện về cơ sở vật chất; Nguồn thu từ thuế để củng
cố an ninh quốc phòng, phát triển giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế xã hội,
để bảo vệ trật tự xã hội, phát triển văn hóa giáo dục, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.....
Thuế đã ra đời như một tất yếu khách quan, dần dần phát triển theo xu hướng ngày càng hoàn
thiện và đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Thuế đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc điều
tiết nền kinh tế đất nước, bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước, đóng góp vào nguồn
thu cho ngân sách nhà nước đảm bảo sự tồn tại của nhà nước và bộ máy nhà nước; mặt khác,
thuế lại được nhà nước sử dụng như là công cụ để thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu nhất
định mà mình đã đề ra. Đối với nước ta, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế, vai trò của pháp luật thuế lại càng quan trọng, thể hiện:
1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn
thu, đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước.
Pháp luật thuế bao gồm các quy phạm pháp luật xác định quyền thu thuế của nhà
nước, nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể có đủ điều kiện. Nhà nước ban hành pháp luật thuế
và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Nguồn thu từ
thuế có vị trí quyết định đến cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước, chiếm tỷ trọng lớn trong
cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước (chiếm khoảng 90% trong tổng thu ngân sách nhà
nước.
Trong những năm qua, nguồn thu từ thuế vào ngân sách nhà nước đã huy động được
một phần lớn nguồn tài chính từ xã hội để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng –
kinh tế; đầu tư hỗ trợ cho các doanh nghiệp; các sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa thông tin,
văn hóa nghệ thuât, thể dục – thể thao, khoa học công nghệ; Quốc phòng, an ninh và trật tự an
toàn xã hội; hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội… Công tác kiểm soát chi ngân sách qua kho bạc, hoạt
động thanh tra, kiểm tra tài chính đã được tăng cường, thực hiện công khai minh bạch quyết
toán và dự toàn hàng năm.
Điều 8 Luật NSNN quy định: “Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc
tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và tích lũy ngày càng cao
vào đầu tư phát triển”. Với những lý do đó, bất kỳ quốc gia nào cũng cần phải có và mong
muốn được có hệ thống pháp luật thuế đầy đủ với tư cách là căn cứ pháp lý vững chắc để tạo
nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Mọi thay đổi về cơ cấu hệ thống luật thuế, nội
dung từng luật thuế đều ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả thu ngân sách nhà nước từ thuế. Vì
vậy, có thể khẳng định vai trò của pháp luật thuế trong việc tạo căn cứ pháp lý hình thành
nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.
2
2. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh
tế, thực hiện đường lối trong một thời kỳ nhất định của Nhà nước.
Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lí, điều tiết tới mọi mặt của đời sống kinh
tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế, nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với đường lối
phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thông qua đó thực hiện công bằng xã hội. Ngoài việc
huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế còn có vai trò quan trọng trong
việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến pháp 1992 ghi nhận: Nhà nước thống
nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Là một bộ phận của
hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà
nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực
hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong
điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế về cơ cấu các loại
thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm thuế...Nhà nước chủ động phát huy
vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế được thể hiện ở chỗ pháp
luật thuế là công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh,
hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào công cụ thuế, Nhà nước có thể
thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can thiệp đến cung cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung - cầu của nền kinh tế một
cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Bằng các quy định của
pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến cung - cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai
đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động đến các quan hệ tiêu
dùng của xã hội. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ, Nhà nước
tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu... đối với việc sản xuất kinh doanh,
tiêu dùng các loại hàng hóa đó.
Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích
xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích hoặc hạn
chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện
tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn
đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với những ngành nghề, lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có
các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn
định và phát triển của các doanh nghiệp. Thuế góp phần khuyến khích khai thác nguyên liệu,
vật tư trong nước để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thông qua pháp luật thuế, Nhà
nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng, sử dụng
hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực của đất nước trong việc điều chỉnh cung - cầu và cơ cấu
kinh tế.
3
Ví dụ: Với thuế giá trị gia tăng nhà nước có biểu thuế suất khác nhau đối với những
loại hàng hóa khác nhau để điều tiết nền kinh tế xã hội. Cụ thể, áp dụng thuế suất 0% đối với
hàng hóa xuất khẩu, không phân biệt đối tượng và hình thực xuất khẩu; như vậy, mức thuế
suất này được áp dụng đối với cả hoạt động xuất khẩu tại chỗ, các dịch vụ xuất khẩu khi đáp
ứng điều kiện của luật, Nhà nước áp dụng mức thuế suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu thể
hiện mục đích thúc đẩy xuất khẩu phát triển; bên cạnh mức thuế suất 0% nhà nước còn áp
dụng mức thuế suất 5% đối với các hàng hóa dịch vụ ưu đãi, khuyến khích phát triển đầu tư.
Các sản phẩm thiết yếu (thuốc, các trang thiết bị y tế,…), các sản phẩm công nghiệp nặng
hoặc công nghiệp phục vụ nông nghiệp,… đều thuộc ưu đãi và áp dụng mức thuế suất 5%.
Đối với các loại hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân thì mức
thuế suất thường ở mức thấp hơn. Điều này càng được thể hiện rõ hơn ở biểu thuế đối với một
số loại hàng hóa đặc biệt là đối tượng điều chỉnh của luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Cụ thể, mức
thuế suất, cao nhất được áp dụng với bia chai, bia hộp; và mức thuế suất thấp nhất là 10% áp
dụng với xăng, các loại chế phẩm dùng pha chế xăng và dịch vụ kinh doanh golf. Chúng ta có
thể thấy được Nhà nước đã dùng chính sách thuế để điều tiết nền kinh tế quốc gia, thể hiện
đường lối phát triển kinh tế xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức, cá nhân có thể tồn tại và vận động theo nhu
cầu và lợi ích của chính họ, điều đó có thể tổn thương đến trật tự xã hội cũng như định hướng
của nhà nước trong từng giai đoạn, ở mỗi quốc gia. Giải quyết vấn đề này, pháp luật thuế có
thể làm thay đổi hoặc can thiệp gián tiếp vào hoạt động và quyết định đầu tư của các chủ thể
nhằm đạt tới mục tiêu nhất định của nhà nước. Thông qua hệ thống pháp luật thuế nhà nước
có thể thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngành kinh tế mà không cần can thiệp hành chính. Để
thực hiện cơ cấu đầu tư định trước, pháp luật thuế có những quy định cụ thể khác nhau giữa
nghĩa vụ thuế của đối tượng ưu tiên và đối tượng hạn chế. Chính điều này sẽ làm ảnh hưởng
đến cơ hội tìm kiếm thu nhập của đối tượng đầu tư, qua đó có thể làm thay đổi luồng chu
chuyển vốn từ khu vực đầu tư này sang khu vực đầu tư khác. Pháp luật thuế các quốc gia,
trong đó có Việt Nam đều phản ánh rõ vai trò nêu trên. Chẳng hạn, việc quy định đánh thuế
hay không đánh thuế, mức thuế suất khác nhau đối với từng ngành nghề, các mặt hàng hay
các loại thu nhập đều có thể tác động đến các ngành, nghề, qua đó bảo đảm sự phát triển cân
đối ngành, nghề, qua đó bảo đảm sự phát triển cân đối ngành nghề trong nền kinh tế.
Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều chỉnh thu
nhập trong những trường hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hội, ở mỗi quốc gia có những định
hướng khác nhau tùy theo điều kiện thực tế. Pháp luật thuế Việt nam ghi nhận rõ sự hạn chế
chi tiêu của các đối tượng đối với hàng hóa, dịch vụ chưa thực sự phù hợp với giai đọn hiện
tại; trong khi đó lại khuyến khích, tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với
những hàng hóa dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội, pháp luật thuế
còn được Nhà nước sử dụng như một công cụ thể hiện chính sách xã hội.
3. Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế và công bằng xã hội.
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành nghề, các
thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về
quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân. Sự bình đẳng và công bằng được
4
thể hiện thông qua chính sách động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành
phần kinh tế có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở sự tác động của pháp luật thuế
đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập trong xã hội. Sự vận động của nền kinh tế
theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để
khắc phục sự mất cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử
dụng pháp luật thuế làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể
hiện ở chỗ thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu
nhập của các đối tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật
thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ thống thuế, về thuế suất… đều có tác động đến thu nhập
và sử dụng thu nhập trong xã hội.
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dụng các quy phạm pháp luật thuế
theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế suất. Tuy vậy, việc
thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt tiêu vai trò pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ
mô của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
4. Nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián
tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh.
Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lý thuế cùng với đối
tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ các quy định gắn với chế độ chứng từ hóa
đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình thức kinh doanh, cơ cấu tổ chức… Thông
qua sổ sách, chứng từ hóa đơn cơ quan quản lý thuế có thể đánh giá phần nào cơ cấu tổ chức
và hoạt động của các đơn vị kinh doanh từ đó nhà nước có thể nắm bắt thực tế tình hình để
điều tiết nền kinh tế ngày càng có hiệu quả hơn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
đất nước.
Để có được số liệu đầy đủ và chính xác đánh giá đúng thực trạng sản xuất kinh doanh,
chúng ta cũng cần thắt chặt khâu quản lý thuế. Cơ quan quản lý thuế tăng cường giám sát quá
trình kê khai nộp thuế giá trị gia tăng. Tùy theo từng loại đối tượng mà có những biện pháp
kiểm tra phù hợp. Với những hoạt động kinh doanh thông thường, các chủ thể kinh doanh
hàng tháng phải kê khai đầy đủ chính xác thuế giá trị gia tăng với cơ quan thuế không phân
biệt có phát sinh nghĩa vụ thuế thực tế trong tháng hay không, đối tượng kê khai phải chịu
trách nhiệm về tính chính xác của nội dung kê khai;
Với hoạt động nhập khẩu hàng hóa, cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu có trách nhiệm
kê khai thuế giá trị gia tăng cho từng phần nhập khẩu cùng với việc kê khai các thông tin khác
liên quan đến hoạt động nhập khẩu. Thông báo thuế giá trị gia tăng của cơ quan hải quan với
hàng hóa nhập khẩu thường gắn với nghĩa vụ thuế khác liên quan đến nhập khẩu. Thông qua
nghĩa vụ kê khai của các chủ thể nộp thuế để kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh của cá
nhân tổ chức thực hiện hoạt động kinh doanh.
Điều đó cũng có nghĩa rằng: bằng việc quy định những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ
thuế, nhà nước gián tiếp quản lý nền kinh tế. Trên cơ sở đó có hệ thống pháp luật được ban
hành, sửa đổi, bổ sung phù hợp với định hướng trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như
tìm biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô. Nhà nước quản lý nền
5
kinh tế thông qua hoạt động ban hành ra các quy phạm pháp luật phù hợp với yêu cầu của
từng giai đoạn cụ thể.
Ví dụ: Nhà nước muốn hạn chế các mặt hàng không thực sự cần thiết như bia chai,
bia lon nhà nước đánh thuế rất cao, cụ thể là đánh thuế 75% đối với mặt hàng này; đánh thuế
30% vào các dịch vụ vũ trường, karaoke… Hay áp dụng mức thuế suất 65% đối với thuốc lá
đầu lọc có nguyên liệu nhập khẩu, tuy nhiên đối với thuốc lá đầu lọc với nguyên liệu chủ yếu
trong nước thì mức thuế suất là 45%... Từ những ví dụ trên đây có thể thấy thông qua hoạt
động quản lý thuế cơ quan nhà nước nắm bắt và giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh, để
từ đó điều tiết nền kinh tế xã hội, tăng cường đảm bảo cocng bằng xã hội ở mức tối ưu.
Mặt khác cũng thông qua kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật
thuế nói riêng và vi phạm trong quá trình hoạt động gắn liền với tư cách của đối tượng nộp
thuế nói chung. Cơ quan quản lý thuế thông qua hoạt động kiểm tra giám sát của mình có thể
phát hiện ra những hành vi vi phạm pháp luật thuế như gian lận thuế, trốn thuế… Từ việc phát
hiện ra các hành vi vi phạm pháp luật thuế từ đó tìm ra các biện pháp hữu hiệu để từ đó hạn
chế vi phạm. Đồng thời xử lý thật nghiêm khắc các hành vi vi phạm để răn đe, tránh các hành
vi vi phạm pháp luật thuế tiếp tục xảy ra.
Các quy định về thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi phạm pháp luật thuế. Đây là
những quy định thể hiện rõ nhất vai trò, chức năng quản lý hành chính của Nhà nước đối với
xã hội nói chung và đối với người nộp thuế nói riêng. Trước đây, hoạt động thanh tra, kiểm
tra thuế thường được tiến hành trước khi người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, gọi là
cơ chế “tiền kiểm”. Tuy nhiên, những nỗ lực trong quá trình cải cách hành chính thuế gần đây
đã dẫn đến việc chuyển đổi từ cơ chế “tiền kiểm” sang cơ chế “hậu kiểm”. theo đó cơ quan
quản lý thuế chỉ tiền hành thanh tra, kiểm tra sau khi người nộp thuế đã tự thực hiện cá thủ tục
chính yếu của quá trình quả lý thuế như đăng ký thuế, kê khai thuế, tính thuế và nộp thuế,
quyết toán thuế, hoàn thuế hay xin miễn giảm thuế. Dựa trên cơ sở kết quả thanh tra và kiểm
tra, cơ quan thuế có quyền áp dụng các chế tài xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật
thuế. Việc quy định theo hướng này không những làm giảm gánh nặng công việc cho cơ quan
quản lý thuế, đảm bảo tính hợp lý của quá trình quản lý thuế mà còn tạo điều kiện để cơ quan
thuế nâng cao tính chuyên nghiệp trong quá trình thanh tra, kiểm tra thuế - với tư cách là
những công cụ quản lý thuế hiệu quả nhất.
Bên cạnh những vai trò cơ bản trên đây pháp luật thuế còn đóng vai trò làm cơ sở cho
các đàm phán thương mại.
III. Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
1. Thực trạng áp dụng pháp luật thuế ở Việt Nam.
* Nguồn thu từ thuế trong giai đoạn 2008 – 2012:
Trong giai đoạn 2008 – 2012, tổng thu từ thuế vượt dự toán hàng năm, góp phần vào
việc hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách của Bộ Tài chính, số thu năm sau luôn cao hơn số thu
năm trước: năm 2008 đạt 363,020 tỷ đồng / 434,761 tổng thu ngân sách nhà nước, năm 2009
đạt 373,201 tỷ đồng / 466,286 tổng thu ngân sách nhà nước; năm 2010 đạt 483.037 tỷ đồng /
588.428 tổng thu ngân sách nhà nước; năm 2011 đạt 618,846 tỷ đồng / 721,804 tổng thu ngân
6
sách nhà nước; năm 2012 đạt 637,706 tỷ đồng / 743,190 tổng thu ngân sách nhà nước và 9
tháng đầu năm 2013 đạt 474,666 tỷ đồng / 543,835 tổng thu ngân sách nhà nước. Như vậy,
thuế có vai trò đặc biệt quan trọng và chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu ngân sách nhà nước
và có xu hướng tăng.
Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định:
* Thất thu thuế lớn:
Mặc dù ngành thuế ngày càng có nhiều nỗ lực, những các biện pháp chống thất thu
thuế chưa hữu hiệu, dường như người ta mới tận thu được với các đơn vị và công dân gương
mẫu trong nghĩa vụ thuế, còn những người cố tình trốn thuế thì không bị chế tài. Tình trạng
này không những thể hiện trong thuế thu nhập cá nhân mà thể hiện rất dễ thấy trong thuế giá
trị gia tăng. Rất nhiều doanh nghiệp, khách sạn, cửa hàng… không làm hóa đơn cho khách
hàng, còn khách hàng thì rất nhiều người cũng không có nhu cầu lấy hóa đơn. Phần lớn khoản
doanh thu khong nhỏ đó Nhà nước không thu được thếu, cả thuế giá trị gia tăng lẫn thuế thu
nhập doanh nghiệp. Tình trạng đó không những gây tổn hại cho lợi ích của đất nước mà còn
tạo ra sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế của công dân, vô hình chung tạo thêm sự cạnh tranh
không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Thanh tra Chính phủ đã có một cuộc điều tra về tổng lượng thất thu của ngành thuế
trong thời gian qua. Thanh tra Chính phủ cho biết, sau khi hoàn thất việc thanh tra tại Tổng
Cục thuế, Cục thuế Hà Nội và Cục thuế TP Hồ Chí Minh đã phát hiện nhiều sai phạm với số
tiền hơn 11.000 tỷ đồng.
Thanh tra Chính phủ cho rằng, việc Bộ Tài Chính, Tổng cục thuế và một số Cục thuế
địa phương ban hành văn bản không đúng quy định của pháp luật về đầu tư, kinh doanh.
Tổng số tiền thuế thất thoát do một số văn bản không đúng quy định của pháp luật
được ban hành là hơn 373 tỷ đồng. Trong đó, việc hướng dẫn miễn, giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp và thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hoạt động dịch vụ cung cấp suất ăn công
nghiệp cho doanh nghiệp chế xuất không đúng quy định đã làm thất thu 233,4 tỷ đồng.
* Xác định sai số tiền thuế:
Trong nhiều trường hợp, cơ quan quản lý thuế là chủ thể trực tiếp xác định số tiền thuế
hoặc kiểm tra việc tự xác định số thuế của chủ thể nộp thuế nhưng đã xác định sai số thuế.
Việc xác định sai số thuế thường dẫn đến tranh chấp, khiếu nại do cơ quan thuế đã xác định số
tiền thuế phải nộp nhiều hơn thực tế.
* Thụ động trong việc ra quyết định, còn trông chờ hướng dẫn của cấp trên:
Một trong những đặc trưng của áp dụng pháp luật chính là đưa những quy định áp
dụng chung vào từng trường hợp cụ thể. Tuy những hướng dẫn của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền như Bộ Tài chính và Tổng cục thuế đã tương đối đầy đủ, nhưng việc vận dụng tại
các cơ quan quản lý thuế tại địa phương còn nhiều lúng túng. Nếu chỉ nhìn vào số lượng
những thắc mắc của Cục thuế đía phương gửi lên Tổng cục thuế, sẽ rất dễ dẫn đến quan niệm
rằng pháp luật thuế còn rất nhiều bất cập cần được khắc phục hoặc nhiều trường hợp còn chưa
có quy định. Tuy nhiên, nếu đọc công văn trả lời của Tổng cụ thuế thì sẽ thấy rằng đại đa số
các trường hợp thắc mắc đều đã được giải thích hết sức rõ ràng qua Thông tư hướng dẫn thi
7
hành. Điều đó chứng to, việc nắm vững và vận dụng pháp luật thuế của các Cục thuế địa
phương còn rất nhiều hạn chế.
* Chậm trễ trong việc thực hiện các ưu đãi thuế:
Ưu đãi thuế là những quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể nộp thuế
trong hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc chia sẻ gánh nặng khi chủ thể nộp thuế gặp những
sự cố khách quan bất lợi (thiên tai, địch họa, tai nạn bất ngờ,…). Chính sách ưu đãi thuế chỉ
thực sự có hiệu quả khi việc triển khai thực hiện được nhanh chóng và đúng đối tượng.
Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp, những hồ sơ đề nghị miễn thuế, giảm thuế hoặc
hoàn thuế bị cơ quan thuế xử lý một cách chậm trễ. Đôi khi, công chức quản lý thuế còn đòi
hỏi những điều kiện về giấy tờ, hồ sơ, sổ sach vượt ra ngoài những yêu cầu của pháp luật.
Không kể đến mục đích gây khó khăn để thực hiện hành vi tham những, thì những yêu cầu
quá mực này đã cản trợ chủ thể nộp thuế thực hiện quyền của mình một cách hợp pháp, làm
giảm hiệu ứng tốt của chính sách ưu đãi thuế.
* Còn nhiều tranh chấp về thuế dẫn đến khiếu nại tố cáo không được giải quyết
thỏa đáng:
Với thực trạng đã phân tích ở trên, thì hiện tượng khiếu nại, tố cáo chắc chắn sẽ xuất
hiện. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng, việc khiếu nại, tố cáo là quyền của cá nhân, tổ chức
và việc có khiếu nại, tố cáo không đồng nghĩa với việc công chức quản lý thuế hay cơ quan
quản lý thuế đã vi phạm pháp luật. Bên cạnh những trường hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo
thỏa đáng, đúng pháp luật, cũng vẫn còn xảy ra tình trạng khiếu nại, tố cáo không được giải
quyết đúng thời hạn, vòng vo dẫn đến những phản ứng tiêu cực. Bên cạnh đó, hiện tượng bao
biện, không nhận trách nhiệm và không xử lý đúng pháp luật công chức quản lý thuế, cơ quan
quản lý thuế mắc sai phạm cũng làm cho sự việc càng trở nên phức tạp hơn.
2. Nguyên nhân:
Thực trạng áp dụng luật thuế ở nước ta như trên là do một số nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, ý thức chấp hành pháp luật thuế của nhiều chủ thể nộp thuế còn yếu kém.
Việc nộp thuế là nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo
duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, và đồng thời để nhà nước thực hiện các chức năng
của mình. Tuy nhiên, do các lợi ích nhận được của nhà nước thường không cụ thể, nên đối với
một số chủ thể nộp thuế, những thiệt hại vật chất cụ thể dường như lớn hơn so với những giá
trị vô hình mà nhà nước đem lại. Chính vì vậy, thay vì hợp tác, nhiều chủ thể nộp thuế sử
dụng nhiều thủ đoạn để làm giảm số thuế phải nộp một cách trái pháp luật. Bên cạnh đó, cũng
cần phải nhận thức rằng, ý thức chấp hành pháp luật thuế không phải có được ngay lập tức
bằng các mệnh lệnh hành chính. Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn non
trẻ, do vậy chưa đủ thời gian để các cá nhân, tổ chức trong xã hội thật sự quen với những đòi
hỏi của nó, trong đó có nghĩa vụ nộp thuế. Ý thức chấp hành pháp luật được nâng lên thông
qua nhiều phương thức, trong đó, công tác tuyên truyền phổ biến phải được thực hiện hiệu
quả. Theo đánh giá của chúng tôi, mặc dù đã có nhiều chuyển biến, nhưng công tác tuyên
truyền phổ biến pháp luật thuế hiện nay còn cứng nhắc, chung chung, do vậy hiệu quả còn
nhiều hạn chế.
8
Thứ hai, trình độ công chức quản lý thuế còn nhiều hạn chế. Trong những năm vừa
qua, hệ thống pháp luật thuế có nhiều thay đổi căn bản, số lượng chủ thể nộp thuế ngày càng
nhiều hơn. Bên cạnh đó, những thủ đoạn gian lận thuế ngày càng tinh vi hơn đã gây khó khăn
không nhỏ cho công tác quản lý thuế. Mặc dù hầu hết công chức quản lý thuế đều ý thức được
việc trau dồi, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nhưng mức độ không đồng đều. Nhiều địa
phương, trình độ học vấn của công chức quản lý thuế chưa đáp ứng được yêu cầu công tác,
nên khi thực hiện công tác áp dụng pháp luật còn nhiều lúng túng, làm sai hoặc sợ làm sai dẫn
đến chậm trễ trong việc ra quyết định. Bên cạnh đó, chính vì nhận thức không đúng về vai trò
của chủ thể nộp thuế, nên một số công chức thuế luôn giữ quan niệm, chủ thể nộp thuế là
“những kẻ muốn trốn thuế”, nên nhiều trường hợp, đáng lẽ có thể giải quyết ngay, nhưng vẫn
cẩn thận kiểm tra, gây ách tắc, chậm trễ, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Thứ ba, trong công tác quản lý và ra quyết định quản lý thuế còn nhiều tiêu cực.
Những tiêu cực như đưa và nhận hối lộ, công chức thuế thông đồng với chủ thể nộp thuế để
gian lận thuế vẫn còn xảy ra. Những tiêu cực này đã dẫn đến những quyết định trái pháp luật,
xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể khác nên thường gây ra tình trạng
khiếu kiện, tố cáo và thất thoát cho ngân sách nhà nước. Mặc dù trong thời gian vừa qua, công
tác phòng và chống tham nhũng được đẩy mạnh, nhưng nhiều vụ việc trốn lậu thuế bị phát
hiện thường có liên quan đến công chức quản lý thuế. Từ những phản ánh trên các phương
tiện thông tin đại chúng và các vụ việc đã được cơ quan chức năng phát hiện và xử lý, thì có
thể khẳng định rằng, những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động quản lý thuể còn
khá phổ biến như đưa và nhận tiền hối lộ, hoặc đòi được hối lộ bằng nhiều hình thức tinh vi
khác.
Thứ tư, cơ sở hạ tầng đầu tư cho ngành thuế còn chưa thỏa đáng để đáp ứng nhu cầu
nhiệm vụ. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin,
thì những ứng dụng tiến bộ này vào hoạt động quản lý nhà nước ngày càng được đẩy mạnh.
Với số lượng rất lớn các chủ thể nộp thuế, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác
quản lý thuế như khai thuế qua mạng internet, phần mềm dữ liệu quản lý thông tin người nộp
thuế, các trang website thông tin về ngành thuế…, nếu được đầu tư thoả đáng sẽ đem lại
những cải thiện đáng kể, nhằm giảm chi phí xã hội dành cho công tác quản lý thuế, đem lại
hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, hiện nay, việc triển khai đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho
ngành thuế nhìn chung còn chậm và chưa đồng đều, cùng với hạn chế trong công tác đào tạo
công chức quản lý thuế và chủ thể nộp thuế về các kỹ năng cần thiết để sử dụng công nghệ
thông tin, nên đã hạn chế đáng kể đến hiệu quả áp dụng pháp luật.
Thứ năm, còn nhiều hạn chế về tính hợp lý và sự minh bạch của hệ thống pháp luật
thuế. Có lẽ trên hết, hiệu quả áp dụng pháp luật chịu ảnh hưởng lớn nhất từ chính các quy
định pháp luật được áp dụng. Như chúng ta đã biết, nếu pháp luật phù hợp với thực tiễn kinh
tế xã hội và có tính định hướng, thì sẽ góp phần phát triển kinh tế xã hội và ngược lại, nếu
pháp luật bất cập thì sẽ kìm hãm sự phát triển. Hệ thống pháp luật thuế của nước ta hiện nay
đang trong giai đoạn hoàn thiện nên không tránh khỏi những bất cập. Bên cạnh đó, nền kinh
tế phát triển nhanh, “bỏ xa” những quy định pháp luật cũng là một thực tế. Hiện nay, hệ thống
pháp luật thuế còn nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo và không hợp lý, nên khi áp dụng
vào thực tiễn sẽ gặp khó khăn, không hiệu quả.
9
3. Giải pháp nhằm phát huy vai trò pháp luật thuế trong nền kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế.
Như chúng ta đã tìm hiểu ở trên thuế quan đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc
trong việc điều tiết nền kinh tế đất nước, bảo hộ và khuyến khích sản xuất trong nước phát
triển, đóng góp số thu cho ngân sách. Tuy nhiên, khi Việt Nam đã là thành viên chính thức
của WTO, việc bảo hộ sản xuất trong nước bằng con đường thuế quan không còn phù hợp.
Vậy, làm thế nào để thuế quan góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.1. Hoàn thiện chính sách thuế, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật thuế
nói riêng.
Hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu, có nghĩa là phải huy động
mọi nguồn thu, tăng thu trên cơ sở mở rộng diện thu với mức thuế suất vừa phải và đơn giản
(thuế suất cao và thấp quá sẽ mất tác dụng của thuế).
Thực hiện chính sách thuế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân
cư, chống tình trạng trùng lặp trong thuế, chống thuế chồng lên thuế. Đơn giản hóa chính sách
thuế, đơn sản về mặt thuế suất, thủ tục dễ hiểu dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ được đông đảo
người nộp thuế chấp nhận.
Chính sách thuế phải có tác dụng tích cực trong phân phối thu nhập, điều tiết thu nhập
hợp lý, tạo công bằng xã hội. Chính sách thuế phải bảo đảm ổn định trong một thời gian dài,
tránh tình trạng thay đổi quá nhiều, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ,
… Chính sách thuế phải tạo ra điều kiện cho khả năng kiểm soát được: kiểm soát của người
nộp thuế, người thu thuế và cơ quan quản lý thu thuế. Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả
của chính sách thuế. Áp dụng nghiêm minh hình thức thưởng phạt trong thuế, loại bỏ các
khoản thu thuế không hiệu quả.
Hoàn thiện pháp luật về thuế quan, một số vấn đề về thuế quan cần nghiên cứu thực
hiện ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu, mặc dù đã được sửa đổi nhiều lần, nhưng vẫn chưa đồng bộ, nội dung chưa bao quát hết
cá đối tượng và nguồn thu. Thuế nhập khẩu ở nước ta vừa đánh theo tính chất hàng hóa, vừa
đánh theo mục đích sử dụng dễ tạo ra những sơ hở, bất hợp lý để cho các đối tượng làm ăn bất
chính triệt để lợi dụng. So với các nước khác, biểu thuế suất của Việt Nam vẫn còn phức tạp,
boa gồm hàng chục nghìn dòng thuế, nhiều nhóm hàng, mặt hàng có nhiều mức thuế suất
khác nhau: giữa các mức thuế lại có sự chênh lệch rất lớn vừa không phù hợp với xu thế hội
nhập, vừa tạo kẽ hở để đối tượng nộp thuế lợi dụng trốn thuế. Chẳng hạn, cùng một loại hàng
hóa nhưng lúc nhập khẩu chỉ cần khai báo sai lệch đặc tính của chúng là có thể được hưởng
mức thuế suất có lợi hơn hoặc chỉ cần khai đặc tính của loại hàng hóa có thuế suất thấp,
nhưng sau khi nhập khẩu sẽ cải tạo, thay đổi kết cấu thành loại hàng có giá trị thương mại cao
hơn. Do vậy, cần tiếp tục sửa đổi các biểu thuế suất.
Cần ban hành các loại thuế như: thuế chống bán phá giá, thuế hạn ngạch, thuế phản
kháng, thuế chống trợ cấp… để chống lại “cuộc chiến thương mại” được núp bóng tinh vi
trong cái “áo khoác” tự do thương mại và toàn cầu hóa.
10
3.2. Kiên quyết chống thất thu, nâng cao trình độ nghiệp vụ và nhận thức của mỗi
cán bộ thu thuế, mặt khác tăng cường thanh tra kiểm tra để phát hiện và xử lý ngay sai
phạm.
Cơ quan thuế các cấp thường xuyên tổ chức rà soát, đánh giá, phân tích, dự báo những
yếu tố ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn, làm rõ những khoản còn
thất thoát, các nguồn thu còn tiềm năng.
Tăng cường công tác phân tích, dự báo những tác động bất lợi từ việc suy giảm kinh
tế, những tác động bất thường của giá cả, thị trường tín dụng trên thế giới và trong nước tác
động đến tình hình thu nộp ngân sách Nhà nước của khối Doanh nghiệp để có những đề xuất,
kiến nghị giải pháp kinh tế vĩ mô ngăn chặn đà suy giảm nguồn thu Ngân sách Nhà nước.
Nghành thuế tiếp tục theo dõi, phát hiện để có ý kiến đề nghị với các ngành, các cấp
có thẩm quyền tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về vốn, thị trường, giá cả, xử lý kịp thời
các cơ chế chính sách gây ảnh hưởng xấu đến tình hình sản xuất của doanh nghiệp, tạo điều
kiện cho các tổ chức, cá nhân đẩy mạng hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đặc biệt, công tác thanh tra, kiểm tra sẽ được ngành Thuế đẩy mạnh và làm quyết liệt
trong thời gian tới. Theo đó, ngành thuế sẽ dẩy mạnh việc kiểm soát, xử lý triệt để các khoản
nợ đọng thuế, trình cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý vướng mắc về nợ thuế, tập trung
lực lượng triển khai các biện pháp thu hồi nợ thuế, triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế
để thu hồi nợ đọng.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế để lựa chọn những đối tượng có dấu hiệu
gian lận thuế, bổ sung vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra, đặc biệt tập trung vào nhóm doanh
nghiệp lớn, các Tập đoàn, tổng công ty, các địa bàn trọng điểm có số thu lớn, các ngành hàng,
các lĩnh vực, các loại hình tổ chức có dấu hiệu thất thu lớn. Tập trung tổng hợp, rà soát các kết
quả sau thanh tra để có biện pháp xử lý đôn đốc, thu hồi kịp thời các khoản mà thanh tra đã
kết luận vào ngân sách Nhà nước.
3.3. Tăng cường công tác bồi dưỡng đội ngũ công chức thuế và phát triển cơ sở hạ
tầng ngành thuế:
Sự phát triển ngày càng phức tạp của nền kinh tế đòi hỏi hệ thống pháp luật nói chung
và pháp luật thuế nói riêng phải phát triển tương xứng. Bên cạnh đó, những cải cách trong
hoạt động quản lý Nhà nước và ứng dụng công nghệ thông tin đòi hỏi đội ngũ công chức quản
lý thuế phải được bồi dưỡng nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu công tác. Cơ sở hạ tầng
ngành thuế cũng cần phải tiếp tục được hoàn thiện nhằm gia tăng tính hiệu quả của công việc,
giảm thiểu thời gian và chi phí cho chủ thể nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ thuế.
3.4. Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính thuế và phòng chống tham
nhũng trong ngành thuế:
Thủ tục hành chính nói chung và thủ tục hành chính thuế nói riêng hiện nay đã có
nhiều cải cách nhằm phục vụ xã hội được tốt hơn. Tuy nhiên, nhiều thủ tục vẫn còn rườm rà,
gây nhiều bất cập cho chủ thể nộp thuế cần được tiếp tục cải tiến. Bên cạnh đó, công tác
phòng, chống tham nhũng cần phải được đẩy mạnh, thường xuyên để đảm bảo công bằng và
tránh thất thoát nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
11
3.5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật thuế:
Cần thường xuyên phổ biến sâu rộng trong mọi tổ chức và dân cư về pháp luật thuế
các luật thuế và các văn bản dưới luật để họ hiểu rõ, nhận thức trách nhiệm, nghĩa vụ của
người nộp thuế và tổ chức thực hiện tốt. Tạo điều kiện cho dân biết, dân làm, dân bàn, dân
kiểm tra, đây là một sức mạnh to lớn để thực hiện chính sách trốn thuế, lậu thuế…
Tăng cường việc giáo dục người dân có ý thức trách nhiệm trước nghĩa vụ nộp thuế.
Thông qua việc chi ngân sách có hiệu quả cũng làm cho người dân ý thức được trách nhiệm
của họ. Bởi, không cần biết họ đã nhận được lợi ích công cộng nào hay chưa họ vẫn phải thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình. Tuy nhiên, kết quả của việc sử dụng các khoản thu từ thuế
chủ yếu là những sản phẩm công. Và những sản phẩm này lại được thụ hưởng bởi chính
những đối tượng nộp thuế, đó là sự yên bình xã hội, sự phát triển và thịnh vượng, chế độ phúc
lợi công cộng… Thực tế cho thấy, nhà nước sử dụng nguồn thu ngân sách chưa thực sự hiệu
quả ví dụ như các công trình dự án xây dựng có nguồn chi từ ngân sách nhà nước thường có
chất lượng không cân đối với số chi phí bỏ ra. Tiền được chi từ ngân sách nhà nước thường
chậm trễ so với yêu cầu của thực tiễn, cụ thể: Để xây dựng một công trình xây dựng từ nguồn
vốn của ngân sách nhà nước thông thường kéo dài hơn các công trình do tư nhân đầu tư xây
dựng… Như vậy, muốn nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân thì trước tiên nhà nước
cần phải sử dụng nguồn thu ngân sách nhà nước một cách có hiệu quả đáp ứng được yêu cầu,
nguyện vọng của người dân.
Trình độ nhận thức và thái độ chấp hành của người nộp thuế. Người nộp thuế chính là
đối tượng trực tiếp thực hiện chính sách, luật lệ về thuế. Vì vậy, trình độ nhận thức và thái độ
chấp hành nghĩa vụ thuế của họ đóng vai trò quyết định trong việc thu thuế và chống thất thu
thuế. Cho dù hệ thống chính sách, pháp luật hoàn thiện, phương pháp, hình thức quản lý đổi
mới, cán bộ thuế đáp ứng năng lực trình độ song vẫn không thể ngăn chặn triệt để việc trốn,
lậu thuế nếu người nộp thuế thiếu ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế. Do đó để hoàn thành
nhiệm vụ đặt ra, một mặt cần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật; mặt khác, phải tuyên
truyền giáo dục, vận động người nộp thuế tự giác chấp hành đúng nghĩa vụ và quyền lợi của
họ.
C.
KẾT LUẬN.
Như vậy, đối với một nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, pháp luật
thuế có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế-xã hội. Không những tập trung huy
động một phần của cải cho ngân sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước mà
còn góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo động lực chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Thực
hiện những giải pháp nói trên sẽ phát huy được hết vai trò của pháp luật thuế, thúc đẩy nền
kinh tế nước ta phát triển theo hướng kinh tế thị trường và nhanh chóng hội nhập quốc tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.CAND, 2012.
2. Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002.
3. Luật quản lí thuế năm 2006 sửa đổi 2012.
12
4. ThS Trần Vũ Hải, Đại học Luật Hà Nội, “Áp dụng pháp luật trong lĩnh vực thuế”,
5.
6.
7.
8.
http:// www.luattaichinh.wordpress.com.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005.
Luật thuế giá trị gia tăng 2008.
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 2008.
http://www.mof.gov.vn/portal/page/portal/mof_vn
13
- Xem thêm -