Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong luật tố tụng hình sự việt nam...

Tài liệu Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
67
264
77

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN SAO MAI vÊn ®Ò ®×nh chØ, t¹m ®×nh chØ vô ¸n trong luËt tè tông h×nh sù viÖt nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN SAO MAI vÊn ®Ò ®×nh chØ, t¹m ®×nh chØ vô ¸n trong luËt tè tông h×nh sù viÖt nam Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố tại bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các trích dẫn và ví dụ đưa ra đảm bảo chính xác, trung thực. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Nguyễn Sao Mai MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ ĐÌNH CHỈ, TẠM ĐÌNH CHỈ VỤ ÁN ................................................................... 7 1.1. Khái niệm đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án ........................................... 7 1.1.1. Khái niệm đình chỉ vụ án ..................................................................... 7 1.1.2. Khái niệm tạm đình chỉ vụ án ............................................................ 11 1.1.3. Ý nghĩa và hậu quả pháp lý của quy định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án ................................................................................................... 14 1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án từ năm 1945 đến trước ngày 01/7/2004 ........................................................................ 16 1.2.1. Đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước năm 1988.............................................. 16 1.2.2. Đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong pháp luật tố tụng hình sự từ năm 1988 đến trước ngày 01/7/2004.................................................. 17 1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án ............................................................................ 20 1.3.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong giai đoạn điều tra ............................................... 21 1.3.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong giai đoạn truy tố ................................................ 25 1.3.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong giai đoạn xét xử ................................................. 51 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ ĐÌNH CHỈ, TẠM ĐÌNH CHỈ VỤ ÁN ....... Error! Bookmark not defined. 2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án ............................ Error! Bookmark not defined. 2.1.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS về đình chỉ vụ ánError! Bookmark 2.1.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS về tạm đình chỉ vụ ánError! Bookm 2.2. Những nguyên nhân làm phát sinh tồn tại trong việc đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong tố tụng hình sựError! Bookmark not defined. 2.2.1. Nguyên nhân lập pháp ........................ Error! Bookmark not defined. 2.2.2. Ý thức pháp luật của công dân chưa cao, dẫn đến CQTHTT gặp phải khó khăn trong quá trình tiến hành tố tụngError! Bookmark not defined. 2.2.3. Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế, thiếu về số lượng ........ Error! Bookmark not defined. 2.2.4. Sự giám sát, phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình tiến hành tố tụng chưa thật sự hiệu quảError! Bookmark n 2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án ..................... Error! Bookmark not defined. 2.3.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật ..... Error! Bookmark not defined. 2.3.2. Đào tạo bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn của những người tiến hành tố tụng ...................... Error! Bookmark not defined. 2.3.3. Một số giải pháp khác ........................ Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN .................................................... Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 55 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự BLHS: Bộ luật hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1. Tổng số bị can, bị cáo đình chỉ trên phạm vi toàn Error! quốc giai đoạn 2011 - 2015 Bookmark not defined. Bảng 2.2. Số vụ án và số bị can CQĐT ra quyết định đình chỉ Error! trên phạm vi toàn quốc giai đoạn 2011 - 2015 Bookmark not defined. Bảng 2.3. Số vụ án và số bị can Viện kiểm sát ra quyết định Error! đình chỉ trên phạm vi toàn quốc giai đoạn 2011- Bookmark 2015 not defined. Bảng 2.4. Số vụ án và số bị can, bị cáo Tòa án ra quyết định Error! đình chỉ trên phạm vi toàn quốc giai đoạn 2011 - Bookmark 2015 not defined. Bảng 2.5. Số bị can Viện kiểm sát đình chỉ do hành vi không Error! cấu thành tội phạm (giai đoạn 2011 - 2015) Bookmark not defined. Bảng 2.6. Tổng số vụ án, bị can, bị cáo CQTHTT tạm đình chỉ Error! (giai đoạn 2011 - 2015) Bookmark not defined. Bảng 2.7. Số vụ án, bị can, bị cáo CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa Error! án tạm đình chỉ (giai đoạn 2011 - 2015) Bookmark not defined. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/7/2004 thay thế Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Trải qua hơn 10 năm thi hành, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã phát huy tác dụng tích cực và có hiệu quả trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới đất nước… Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước, trong đó việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tiến hành cải cách hành chính, cải cách tư pháp theo đường lối đổi mới của Đảng, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình mới. Trong đó, quy định về căn cứ, thẩm quyền và thủ tục đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án chưa chặt chẽ dẫn đến hiệu quả áp dụng trong thực tiễn chưa cao. Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trong công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp với nội dung “sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật …”, việc nghiên cứu đề tài “Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ 1 vụ án trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi thực tiễn hiện nay. Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” để nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua, ở mức độ khác nhau đã có một số luận văn thạc sĩ và một số bài viết trên tạp chí nghiên cứu về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, như: Ở mức độ luận văn thạc sĩ có “Chế định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lê Đình Phong năm 2002; “Quyết định đình chỉ vụ án trong giai đoạn truy tố” của tác giả Võ Thu Hằng năm 2014. Dưới góc độ bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý có những công trình điển hình như: “Vấn đề đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án trong Luật tố tụng hình sự” (Tạp chí Luật học số 3/1999) của tác giả Vũ Gia Lâm; “Thẩm quyền và căn cứ đình chỉ vụ án hình sự theo Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự” (Tạp chí Tòa án nhân dân số 5/2001) của tác giả Nguyễn Sơn; “Tòa án tạm đình chỉ vụ án khi bị can, bị cáo trốn tránh” (Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 3/2002) của tác giả Đặng Văn Dùng; “Vấn đề đình chỉ vụ án khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố” (Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 2/2003) của tác giả Hồ Thị Hạnh; “Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ và đình chỉ vụ án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm” (Tạp chí Tòa án nhân dân số 17/2006) của tác giả Đinh Văn Quế; “Một số đề xuất sửa đổi, bổ sung các chế định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án và phục hồi điều tra trong Bộ luật Tố tụng Hình sự” (Tạp chí Kiểm sát số 5/2008) của tác giả Huỳnh Quốc Hùng; “Đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án hình sự đối với trường hợp không có sự việc phạm tội và hành vi không cấu thành tội phạm” (Tạp chí Kiểm sát số 5/2008) của tác giả Mai 2 Văn Lư; “Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc quyết định truy tố, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án theo yêu cầu cải cách tư pháp” (Tạp chí Kiểm sát số 3/2009) của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh; “Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” (Tạp chí Luật học số 3/2013) của tác giả Vũ Gia Lâm… Bên cạnh đó, vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án còn được đề cập trong các cuốn giáo trình, bình luận như: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 - Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia do PGS.TS Nguyễn Ngọc Anh và đồng nghiệp chủ biên… Trên cơ sở khảo sát nêu trên, có thể thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án. Tuy nhiên, những nghiên cứu về đề tài này chủ yếu mới chỉ tập trung vào một căn cứ đình chỉ hoặc tạm đình chỉ nhất định. Mặt khác, những công trình nêu trên mới chỉ đề cập một cách tổng thể, khái quát những vấn đề lý luận chứ chưa nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc, riêng biệt về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án dưới cả hai góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” vừa là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án. 3.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án dưới khía cạnh lập pháp và việc áp 3 dụng các quy định đó trong thực tiễn. Từ đó, chỉ ra các nguyên nhân làm phát sinh những tồn tại trong việc đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án và những kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trên thực tế. 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Giải quyết một số vấn đề lý luận về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án như: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa; - Khái quát sự phát triển của các quy định về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong lịch sử pháp luật tố tụng hình sự của nước ta để rút ra những nhận xét, đánh giá; - Phân tích những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bao gồm: căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục…; - Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, đồng thời phân tích, làm rõ những nguyên nhân làm phát sinh những tồn tại trong việc đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; - Đưa ra những kiến nghị, đề xuất nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh quy định về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá việc áp dụng các quy định của pháp luật về vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhân dân các cấp. Những tồn tại, vướng mắc của quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này, kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này trong thực tiễn. 4 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận Phương pháp luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như thành tựu của các ngành khoa học như triết học, xã hội học, lịch sử, lý luận về nhà nước và pháp luật, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, tội phạm học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học Việt Nam và nước ngoài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu của khoa học luật tố tụng hình sự, như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê... Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích, hướng dẫn thống nhất có tính chất chỉ đạo nghiệp vụ trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử thuộc lĩnh vực pháp luật tố tụng hình sự do các cơ quan có thẩm quyền ban hành có liên quan đến vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm trong các báo cáo của ngành Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân, cũng như những thông tin trên mạng internet để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Những điểm mới của luận văn là: 5 - Tổng hợp các quan điểm khoa học về vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án để xây dựng khái niệm khoa học về vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; đồng thời chỉ ra đặc điểm, ý nghĩa của quy định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; - Phân tích sự hình thành và phát triển các quy định về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong luật tố tụng hình sự Việt Nam; - Phân tích, đánh giá những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; - Chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế trong việc áp dụng những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, qua đó chỉ ra được các nguyên nhân cơ bản của những vướng mắc, hạn chế đó; - Đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án và những giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định của pháp luật về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu nghiên cứu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho các nhà nghiên cứu lập pháp cũng như cho các nhà nghiên cứu, cán bộ giảng dạy pháp luật, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án. Chương 2: Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ ĐÌNH CHỈ, TẠM ĐÌNH CHỈ VỤ ÁN 1.1. Khái niệm đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án 1.1.1. Khái niệm đình chỉ vụ án Quá trình tố tụng hình sự từ khi khởi tố vụ án hình sự đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án là một quá trình phức tạp, gồm nhiều hoạt động tố tụng được thực hiện trong các giai đoạn khác nhau. Sau khi có quyết định khởi tố, các hoạt động điều tra được tiến hành để thu thập các tài liệu, chứng cứ nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định cho Cơ quan điều tra (CQĐT) có một thời hạn nhất định để điều tra vụ án. Trong thời hạn điều tra mà có căn cứ do pháp luật quy định thì CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra hoặc trong trường hợp đã hết thời hạn điều tra theo luật định (kể cả thời hạn gia hạn điều tra) mà không chứng minh được bị can phạm tội thì CQĐT phải ra quyết định đình chỉ điều tra. Nếu có đủ cơ sở kết luận bị can là người thực hiện hành vi phạm tội thì CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng bản kết luận điều tra sang Viện kiểm sát. Sau khi tiếp nhận hồ sơ vụ án cùng bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát xem xét, nghiên cứu thấy đủ cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can thì Viện kiểm sát ra quyết định truy tố và chuyển hồ sơ sang Tòa án. Nếu trong thời hạn nghiên cứu để quyết định việc truy tố mà Viện kiểm sát phát hiện các căn cứ để đình chỉ thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án. Sau khi tiếp nhận hồ sơ vụ án từ Viện kiểm sát, trong thời hạn chuẩn bị xét xử nếu phát hiện các căn cứ để đình chỉ vụ án thì phẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ vụ án. 7 Đình chỉ vụ án là một trong các quyết định mà các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) có thể ban hành trong quá trình tố tụng. Theo quy định của BLTTHS hiện hành thì đình chỉ vụ án (hoặc đình chỉ điều tra) có cả ở ba giai đoạn (điều tra, truy tố, xét xử). Về mặt pháp lý đình chỉ điều tra hay đình chỉ vụ án đều là việc quyết định chấm dứt hoạt động tố tụng đối với vụ án hoặc từng bị can, bị cáo trong vụ án. Tùy theo từng giai đoạn tố tụng mà BLTTHS quy định “đình chỉ điều tra” hay “đình chỉ vụ án”. Nếu vụ án đang ở giai đoạn điều tra mà bị đình chỉ thì gọi là “đình chỉ điều tra vụ án”, nếu đã kết thúc giai đoạn điều tra và đã chuyển sang giai đoạn truy tố hoặc xét xử mà vụ án bị đình chỉ thì gọi là “đình chỉ vụ án”. Như vậy, nếu trong giai đoạn điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, sau đó có căn cứ đình chỉ điều tra đối với vụ án hoặc với từng bị can trong vụ án đó (đối với vụ án đồng phạm) thì ra quyết định “đình chỉ điều tra vụ án hoặc đình chỉ điều tra đối với bị can”, nếu vụ án đã chuyển sang giai đoạn truy tố hoặc xét xử mà phát hiện có căn cứ đình chỉ hoạt động tố tụng hình sự đối với vụ án hoặc với từng bị can trong vụ án đó (đối với vụ án đồng phạm) thì phải ra quyết định “đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo”. Việc quy định như vậy nhằm làm rõ thẩm quyền của cơ quan ra quyết định cũng như hình thức văn bản tố tụng sử dụng để ra quyết định [28, tr. 7]. Trong BLTTHS hiện hành mới chỉ quy định căn cứ, thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án trong từng giai đoạn tố tụng chứ chưa đưa ra khái niệm thế nào là đình chỉ vụ án. Vì vậy, trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn thi hành còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt thì đình chỉ có nghĩa là “ngừng lại hoặc làm cho phải ngừng lại trong một thời gian vĩnh viễn” [55, tr. 236]. Theo Từ điển Bách khoa “Đình chỉ vụ án là việc CQTHTT quyết định kết thúc vụ án khi có những căn cứ luật định” [47, tr. 281]. 8 Theo tác giả Đinh Văn Quế “Đình chỉ điều tra là quyết định của CQĐT chấm dứt một giai đoạn tố tụng hình sự (giai đoạn điều tra) đối với vụ án hoặc đối với một hoặc một số bị can trong vụ án” [30, tr. 28]. Theo tác giả Mai Bộ “Đình chỉ vụ án là chấm dứt hoạt động tố tụng hình sự đối với vụ án hoặc đối với một hoặc một số bị can, bị cáo trong vụ án” [8, tr. 25]. Tác giả Ngô Quang Chính cho rằng “Đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án đều là một trong những biện pháp của tố tụng hình sự do CQTHTT áp dụng khi có đủ căn cứ theo luật định” [10, tr. 13]. Theo Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 thì “Quyết định đình chỉ vụ án là việc cơ quan tiến hành tố tụng hình sự quyết định chấm dứt việc giải quyết theo trình tự tố tụng hình sự đối với vụ án hoặc đối với bị can, bị cáo khi có căn cứ theo quy định của pháp luật” [1, tr. 404]. Theo Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội thì “Đình chỉ điều tra là chấm dứt việc điều tra vụ án hoặc với từng bị can” [46, tr. 318] và “Đình chỉ vụ án là quyết định chấm dứt việc tiến hành tố tụng đối với vụ án hoặc với từng bị can” [46, tr. 338]. Qua nghiên cứu các quan điểm trên, chúng tôi thấy rằng tuy khái niệm đình chỉ vụ án được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhưng các quan điểm trên đều đưa ra được những đặc điểm chung của đình chỉ vụ án đó là một hình thức thể hiện kết quả của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử dựa trên những căn cứ luật định. Để có một khái niệm chính xác, toàn diện, phản ánh đúng bản chất của việc đình chỉ vụ án nói chung, chúng tôi cho rằng phải làm rõ đặc điểm và bản chất pháp lý của đình chỉ vụ án. Theo ý kiến của chúng tôi, đình chỉ vụ án có những đặc điểm sau đây: Thứ nhất: Việc đình chỉ vụ án hình sự phải dựa vào những căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định tại BLTTHS. Trong quá trình giải 9 quyết vụ án hình sự, CQTHTT phải dựa vào những căn cứ đã được quy định trong BLTTHS, chứ không thể tùy nghi áp dụng các căn cứ để ra quyết định đình chỉ vụ án. Đồng thời, việc đình chỉ vụ án phải do người có thẩm quyền ra quyết định theo trình tự, thủ tục được quy định trong BLTTHS. Thứ hai: Đình chỉ vụ án là một hình thức kết thúc hoạt động tố tụng trong một giai đoạn tố tụng cụ thể. Hậu quả của việc đình chỉ là mọi hoạt động tố tụng đều phải chấm dứt. Thứ ba: Đình chỉ vụ án là một quyết định tố tụng được áp dụng trong các giai đoạn khác nhau của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nếu vụ án bị đình chỉ ở giai đoạn điều tra thì sẽ kết thúc bằng quyết định đình chỉ điều tra của CQĐT; nếu vụ án bị đình chỉ ở giai đoạn truy tố, xét xử thì sẽ kết thúc bằng quyết định đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Thứ tư: Về phạm vi hiệu lực của việc đình chỉ vụ án, khi các CQTHTT ra quyết định đình chỉ vụ án, quyết định này có hiệu lực đối với từng bị can, bị cáo hoặc với tất cả các bị can, bị cáo trong vụ án (nếu vụ án có đồng phạm và căn cứ đình chỉ vụ án liên quan đến tất cả các bị can, bị cáo). Nếu trong vụ án có đồng phạm và có căn cứ để đình chỉ vụ án nhưng căn cứ đó không liên quan đến tất cả các bị can, bị cáo thì chỉ được chấm dứt tiến hành tố tụng đối với từng bị can, bị cáo, còn với các bị can, bị cáo khác thì vẫn tiến hành các hoạt động tố tụng bình thường. Trong trường hợp này, việc đình chỉ vụ án chỉ thực hiện đối với từng bị can, bị cáo. Như vậy, bản chất pháp lý của việc đình chỉ vụ án là chấm dứt việc tiến hành tố tụng trong một giai đoạn tố tụng nhất định. Trong giai đoạn điều tra là chấm dứt các hoạt động điều tra, trong giai đoạn truy tố là chấm dứt các hoạt động thực hành quyền công tố, trong giai đoạn xét xử là chấm dứt các hoạt động xét xử [12, tr. 9]. Từ những phân tích ở trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về đình chỉ vụ 10 án như sau “Đình chỉ vụ án trong tố tụng hình sự là việc cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định chấm dứt hoạt động tiến hành tố tụng đối với vụ án hoặc đối với bị can, bị cáo khi có những căn cứ theo luật định”. 1.1.2. Khái niệm tạm đình chỉ vụ án Sau khi có quyết định khởi tố thì các hoạt động điều tra được tiến hành. Để đảm bảo cho hoạt động điều tra được nhanh chóng, kịp thời, CQĐT tiến hành các biện pháp điều tra theo quy định của BLTTHS và các biện pháp nghiệp vụ trong phạm vi pháp luật cho phép nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Trong quá trình điều tra, có thể xảy ra hai trường hợp: thứ nhất, bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo; thứ hai, chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu và CQĐT đã ra quyết định truy nã bị can nhưng hết thời hạn điều tra mà vẫn chưa bắt lại được. Trong những trường hợp như vậy không thể tiếp tục tiến hành tố tụng mà CQĐT phải ra quyết định tạm đình chỉ điều tra để chờ cho bị can khỏi bệnh, xác định được người thực hiện hành vi phạm tội trong trường hợp chưa xác định được bị can, hoặc bắt được bị can trong trường hợp không biết rõ bị can ở đâu. Trong trường hợp xác định được người thực hiện hành vi phạm tội thì CQĐT kết thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát. Trong thời hạn truy tố, nếu bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can ở đâu thì Viện kiểm sát yêu cầu CQĐT truy nã bị can, khi hết thời hạn truy tố mà chưa bắt được bị can thì Viện kiểm sát ra quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can. Trường hợp bị can bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y thì Viện kiểm sát ra quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can trước khi hết thời hạn truy tố. Đối với trường hợp hồ sơ vụ án đã chuyển cho Tòa án mà bị can, bị cáo bỏ trốn mà không biết rõ bị can, bị cáo ở đâu thì Tòa án yêu cầu CQĐT truy nã 11 bị can, bị cáo. Nếu hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà vẫn chưa bắt được bị can, bị cáo thì Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ vụ án. Trường hợp bị can, bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác mà cho chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y thì Tòa án cũng ra quyết định tạm đình chỉ vụ án [28, tr. 10]. Tương tự như đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án là một trong các quyết định mà các CQTHTT có thể ban hành trong quá trình tố tụng. Theo quy định của BLTTHS hiện hành thì tạm đình chỉ vụ án (hoặc tạm đình chỉ điều tra) có cả ở ba giai đoạn (điều tra, truy tố, xét xử). Về mặt pháp lý tạm đình chỉ điều tra hay tạm đình chỉ vụ án đều là việc tạm dừng hoạt động tố tụng đối với vụ án hoặc từng bị can, bị cáo trong vụ án. Tùy theo từng giai đoạn tố tụng mà BLTTHS quy định “tạm đình chỉ điều tra” hay “tạm đình chỉ vụ án”. Nếu vụ án đang ở giai đoạn điều tra mà bị tạm đình chỉ thì gọi là “tạm đình chỉ điều tra vụ án”, nếu đã kết thúc giai đoạn điều tra và đã chuyển sang giai đoạn truy tố hoặc xét xử mà vụ án bị tạm đình chỉ thì gọi là “tạm đình chỉ vụ án”. Việc quy định như vậy nhằm làm rõ thẩm quyền của cơ quan ra quyết định cũng như hình thức văn bản tố tụng sử dụng để ra quyết định. Hiện nay trong BLTTHS chỉ quy định căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tạm đình chỉ vụ án chứ chưa đưa ra khái niệm thế nào là tạm đình chỉ. Trong Đại từ điển Tiếng Việt thì từ “tạm” có nghĩa là “chỉ trong một thời hạn ngắn và sẽ còn thay đổi” [55, tr. 456]. Theo Từ điển Bách khoa “Tạm đình chỉ điều tra là việc CQĐT ra quyết định ngừng việc điều tra đối với một hoặc một số bị can” [47, tr. 526]. Theo Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 thì “Quyết định tạm đình chỉ vụ án là việc cơ quan tiến hành tố tụng hình sự quyết định tạm dùng tiến trình tố tụng hình sự đối với vụ án hoặc đối với bị can, bị cáo khi có căn cứ theo quy định của pháp luật” [1, tr. 404]. Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Học viện An ninh 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan