Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về cán bộ trong xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở...

Tài liệu Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về cán bộ trong xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở ở nông thôn hà tĩnh hiện nay (1991 -2012)

.PDF
101
1147
105

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------- NGÔ NGỌC HÂN VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ Ở NÔNG THÔN HÀ TĨNH HIỆN NAY (1991-2012) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Chính trị học Hà Nội – 2013 i ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------- NGÔ NGỌC HÂN VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ Ở NÔNG THÔN HÀ TĨNH HIỆN NAY (1991-2012) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đỗ Xuân Tuất Hà Nội – 2013 ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Các kết quả nghiên c ứu của luận văn không trùng với bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn iii MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn 6 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 7 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 8 6. Đóng góp của luận văn 8 7. Kết cấu của luận văn 8 Chƣơng 1. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ XÂY DỰNG 9 ĐỘI NGŨ CÁN BỘ 1.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ 9 THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH 1.1.1. Khái niệm cán bộ 9 1.1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh 11 1.1.3. Tiêu chuẩn cán bộ 14 1.2. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÀ CÔNG VIỆC RẤT TRỌNG 30 YẾU CỦA ĐẢNG 1.2.1. Lựa chọn cán bộ 30 1.2.2. Huấn luyện cán bộ 32 1.2.3. Đánh giá, sử dụng cán bộ 40 1.2.4. Kiểm soát, kiểm tra cán bộ 43 1.2.5. Chế độ, chính sách đối với cán bộ 45 1.3. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN VIÊN THANH 46 NIÊN VÀ CÁN BỘ ĐOÀN 1.3.1. Vai trò, vị trí của đoàn viên, thanh niên trong tư tưởng Hồ Chí Minh 46 1.3.2. Công tác xây dựng cán bộ Đoàn theo tư tưởng Hồ Chí Minh 47 iv Chƣơng 2. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ Ở NÔNG 52 THÔN HÀ TĨNH HIỆN NAY DƢỚI ÁNH SÁNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH 2.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC ĐOÀN VÀ 52 ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ Ở NÔNG THÔN HÀ TĨNH HIỆN NAY 2.1.1. Tác động của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế 52 2.1.2. Tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội 56 2.2. THỰC TRẠNG ĐOÀN VIÊN, THANH NIÊN Ở HÀ TĨNH HIỆN 58 NAY 2.2.1. Khái quát chung về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã 58 hội tỉnh Hà Tĩnh 2.2.2. Tình hình đoàn viên, thanh niên ở nông thôn Hà Tĩnh hiện nay 61 2.3. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ 64 SỞ Ở NÔNG THÔN HÀ TĨNH HIỆN NAY 2.3.1. Ưu điểm trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở ở khu 66 vực nông thôn Hà Tĩnh 2.3.2. Những hạn chế cơ bản 70 2.3.3 Nguyên nhân ưu điểm và hạn chế 73 2.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM XÂY ĐỘI NGŨ CÁN 75 BỘ ĐOÀN CƠ SỞ Ở NÔNG THÔN HÀ TĨNH HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH 2.4.1. Xác định rõ tiêu chuẩn cơ bản của đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở ở 76 nông thôn hiện nay 2.4.2. Làm tốt công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ Đoàn cơ sở ở nông 79 thôn 2.4.3. Quan tâm đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở ở nông thôn v 81 2.4.4 Tiếp tục đổi mới lề lối, tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ Đoàn 83 cơ sở ở khu vực nông thôn 2.4.5. Củng cố, nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo xây dựng đội ngũ 85 cán bộ Đoàn cơ sở của cấp ủy vùng nông thôn Hà Tĩnh 2.4.6. Thường xuyên chăm lo chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ Đoàn cơ 86 sở ở nông thôn KẾT LUẬN 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 vi PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đó là sự tổng kết lịch sử, vạch rõ nguồn gốc sâu xa mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong các thời kỳ cách mạng, đồng thời chỉ rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Đúng như Đại hội X tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng”[19,70]. Tư tưởng Hồ Chí Minh rất toàn diện và phong phú, trong đó có tư tưởng về cán bộ và công tác cán bộ, về cán bộ Đoàn và công tác thanh niên. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ “là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng” [51,54]. Chính vì thế, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ. Từ rất sớm, Người đã nhiều lần trực tiếp tổ chức các lớp huấn luyện cán bộ nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cốt cán, làm hạt nhân lãnh đạo phong trào cách mạng. Khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, vấn đề cán bộ tiếp tục được Người hết sức quan tâm. Trong nhiều bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh thường căn dặn: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”[51,269], “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[51,273]. 1 Mong muốn của Người là xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng được lớp lớp thế hệ cán bộ cách mạng “vừa hồng, vừa chuyên” đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến với thắng lợi cuối cùng. Vận dụng tư tưởng đó, trong suốt hơn 80 xây dựng, phấn đấu và trưởng thành, Đảng ta luôn xác định công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt nhất trong công tác xây dựng Đảng. Trong đó, bồi dưỡng, chăm lo thế hệ trẻ, trước hết là cán bộ Đoàn – đội ngũ cán bộ hậu bị tin cậy của Đảng luôn được chú trọng. Đảng ta xem xây dựng Đoàn thanh niên là xây dựng Đảng trước một bước và coi cán bộ làm công tác thanh niên là nguồn quan trọng bổ sung cán bộ cho Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể. Công tác cán bộ Đoàn là một bộ phận quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã có nhiều Nghị quyết quan trọng về công tác thanh niên. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên”. Tinh thần của hai Nghị quyết đã đi vào thực tiễn và làm chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng công tác Đoàn và phong trào thanh niên. Cấp ủy đảng các cấp đã lãnh đạo hệ thống chính trị, toàn xã hội thực hiện tốt hơn công tác thanh niên và chăm lo xây dựng Đoàn. Nhà nước đã ban hành Luật Thanh niên, Chiến lược phát triển thanh niên và nhiều chính sách về công tác thanh niên, tạo điều kiện, cơ hội cho thanh niên rèn luyện cống hiến trưởng thành. Nhờ vậy, không ít cán bộ Đoàn trong thực tiễn công tác đoàn đã trưởng thành và được phân công giữ các cương vị chủ chốt trong cấp ủy, chính quyền, các ngành, đoàn thể các cấp. 2 Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa, hội nhập kinh tế Quốc tế, cán bộ Đoàn và công tác cán bộ Đoàn cũng bộc lộ những khó khăn, hạn chế, yếu kém về nhiều mặt, nhất là ở vùng nông thôn, trong đó có địa bàn nông thôn ở tỉnh Hà Tĩnh như: Một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm tới tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa dân tộc. Học vấn của một bộ phận thanh niên nhất là thanh niên nông thôn còn thấp; nhiều thanh niên thiếu kiến thức, thiếu kỹ năng, thiếu trình độ chuyên môn, trình độ kỹ thuật...; Tính độc lập, chủ động, sáng tạo, năng lực thực hành sau đào tạo của thanh niên còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Bên cạnh đó, một số cấp ủy đảng chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo công tác thanh niên, thiếu đôn đốc, kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác thanh niên; công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ trẻ chưa thực sự được coi trọng; chưa làm tốt công tác phát triển đảng trong thanh niên; hiện nay đa số Bí thư, Phó Bí thư Đoàn cơ sở chưa được đào tạo, bồi dưỡng cơ bản về kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ công tác Đoàn. Theo khảo sát trình độ chính trị từ Trung cấp trở lên tỷ lệ còn thấp Bí thư đoàn cơ sở đạt 48,77%, Phó Bí thư 27,47%; tỷ lệ qua đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ công tác Đoàn được cấp chúng chỉ rất thấp Bí thư 26,95%, Phó Bí thư 9,39% [7,4]; chưa chủ động trong việc phát hiện vấn đề và tham mưu đề xuất với cấp uỷ giải quyết những vấn đề bức xúc liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, thanh niên; kỹ năng xây dựng kế hoạch, cụ thể hoá nội dung, chương trình của Đoàn cấp trên gắn với nhiệm vụ chính trị và tình hình thực tiễn của địa phương còn hạn chế; khả năng nghiên cứu đổi mới nội dung, hình thức hoạt động Đoàn cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu. Một bộ phận cán bộ Đoàn chậm đổi mới tư duy, thiếu chủ động, sáng tạo trong triển khai nhiệm vụ và tổ chức các phong trào. 3 Thực trạng đó đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục tăng cường, đổi mới công tác thanh niên, trước hết là đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn. Nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược của Đảng về công tác cán bộ cũng như về công tác thanh niên, trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, yếu kém, cần nghiên cứu sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào công tác cán bộ đoàn và phong trào thanh niên ở một tỉnh đặc thù như Hà Tĩnh. Đây là một trong những nhiệm vụ và giải pháp quan trọng để nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ Đoàn và năng lực tổ chức, tập hợp và lãnh đạo đoàn viên thanh niên, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở đoàn ngang tầm, đáp ứng các nhiệm vụ chiến lược hiện nay trong xây dựng và phát triển nông thôn mới ở Hà Tĩnh. Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tôi quyết định chọn vấn đề “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong xây dựng cán bộ Đoàn cơ sở ở nông thôn Hà Tĩnh hiện nay (1991-2012) ” làm đề tài Luận văn Cao học, chuyên ngành Chính trị học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác đoàn ở vùng nông thôn nói riêng là đòi hỏi khách quan, cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian qua, đã có không ít các nhà khoa học, nhà hoạt động chính trị, các học giả dành nhiều thời gian nghiên cứu về chủ đề cán bộ và công tác cán bộ; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay… Liên quan đến đề tài này có thể thấy một số công trình sau: - Nhóm nghiên cứu về cán bộ và công tác cán bộ có: + Bài viết của GS.TS Mạch Quang Thắng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ” in trong tác phẩm “Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh”của Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, Viện Khoa học tổ chức Nhà nước xuất bản năm 1998. 4 Bài viết đã chỉ rõ những nét khái lược nhất về quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ, những yêu cầu cơ bản của người cán bộ cách mạng. + Công trình của nhóm tác giả: Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên): “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. + Bùi Đình Phong: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ”, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2002. + Nguyễn Duy Hùng (Chủ biên): “Luận cứ khoa học và một số giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008. - Nhóm công trình nghiên cứu về Đoàn và công tác Đoàn: + Đoàn Nam Đàn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008; + Doãn Đức Hảo: “Xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, 2009; Công trình của tác giả Doãn Đức Hảo là một công trình khoa học nghiên cứu tương đối toàn diện về đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở, công trình đánh giá được thực trạng, nguyên nhân nhất là chỉ rõ những nhân tố tác động đến công tác cán bộ Đoàn trong giai đoàn hiện nay, qua đó đề ra năm giải pháp lớn nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn trong thời gian tới. + Diệp Minh Giang: “Xây dựng đạo đức của Thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Luận án Tiến sĩ Triết học, 2011; 5 + Văn Tùng: “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và cũng cố tổ chức Đoàn”, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1999. Bằng việc tiếp cận những quan điểm cơ bản nhất của Chủ nghĩa Mác – Lênin về giáo dục và tổ chức thanh niên, công trình trên đã chỉ ra những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn Thanh niên. Nhìn nhận, đánh giá vai trò và khả năng cách mạng của thanh niên; về xây dựng tổ chức Đoàn làm nòng cốt trong việc đoàn kết, tập hợp thanh niên,... Những công trình được công bố và đăng tải ở trên tuy tiếp cận và luận giải nhiều khía cạnh khác nhau về cán bộ, công tác cán bộ, về thanh niên và công tác thanh niên trong tình hình mới, gắn với điều kiện cụ thể ở từng địa phương và trong từng lĩnh vực, đã phần nào phản ánh được vai trò, vị trí, tầm quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ. Một số công trình bước đầu tiếp cận và làm rõ một số vấn đề lý luận chung về tổ chức đoàn cơ sở trong giai đoạn hiện nay, đánh giá thực trạng, chỉ rõ những tồn tại, hạn chế và đề ra các giải pháp để thực hiện có hiệu quả hơn công tác này trong thời gian tới. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu đề tài vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn ở một địa phương cụ thể như Hà Tĩnh. Đó là cơ sở để bản thân tôi lựa chọn đề tài này trong hướng nghiên cứu của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn 3.1 Mục đích Qua phân tích sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở ở nông thôn tỉnh Hà Tĩnh hiện nay, luận văn góp phần làm sáng tỏ các tổ chức trong hệ thống chính trị ở Hà Tĩnh đã vận dụng đúng đắn quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng đội ngũ cán bộ 6 Đoàn nói chung và cán bộ đoàn cơ sở ở nông thôn Hà Tĩnh nói riêng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ cơ sở lý luận chung về cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh. - Quan điểm, chủ trương thực hiện nhiệm vụ xây dựng cán bộ Đoàn ở nông thôn Hà Tĩnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị của địa phương. - Nêu lên những vấ n đề c ấp thiết đang đặt ra và xác định một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở ở nông thôn Hà Tĩnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của tổ chức Đoàn. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ được thể hiện trong các bài nói, bài viết của Người. Cán bộ Đoàn cơ sở và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở ở nông thôn Hà Tĩnh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Giới hạn, phạm vi lý thuyết: Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ. - Giới hạn về mặt không gian và thời gian nghiên cứu: nghiên cứu về đội ngũ cán bộ Đoàn và công tác cán bộ Đoàn cơ sở ở nông thôn Hà Tĩnh trong những năm đổi mới, tập trung vào giai đoạn hiện nay, nhất là từ sau khi thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X (2008) Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên. 7 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các biện pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp logíc - lịch sử, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp chuyên gia… để luận giải các vấn đề. 6. Đóng góp của luận văn - Góp phần nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và quá trình vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng cán bộ Đoàn cơ sở ở nông thôn Hà Tĩnh hiện nay; - Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, nhất là tổ chức Đoàn cơ sở ở nông thôn Hà Tĩnh trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 2 chương, 6 tiết, cụ thể. 8 Chƣơng 1 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ 1.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH 1.1.1. Khái niệm cán bộ Mặc dù chưa đưa ra một định nghĩa nào thật đầy đủ về cán bộ nhưng qua các bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh luôn khẳng định “cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thực hiện được”[51,54]. Theo Người, cán bộ là những người có trách nhiệm phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng, Nhà nước chứ không phải là người đứng trên hoặc đứng ngoài nhân dân. Họ có trách nhiệm đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân, để nhân dân hiểu rõ và tổ chức, vận động nhân dân thi hành. Đồng thời, cán bộ cũng là người có trọng trách phải gần gũi nhân dân, nắm được tâm tư, nguyện vọng, những bức xúc của quần chúng nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà nước để Đảng, Nhà nước đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật cho đúng, phù hợp với quy luật vận động, phát triển của xã hội và đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân. Ngày nay, ở nước ta khái niệm cán bộ được hiểu theo nghĩa rộng hơn, bao gồm: Tất cả những người được bầu cử vào các cơ quan Nhà nước, Đảng, đoàn thể; những người được bổ nhiệm đảm nhiệm một công tác quản lý hoặc được giao một công tác chuyên môn nào đó (cán bộ giảng dạy, cán bộ khoa học kỹ thuật ...) trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị, biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. 9 Theo từ điển tiếng Việt thì “cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước, người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức”[72,5]. Một công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam đã đưa ra định nghĩa: “Cán bộ là một khái niệm dùng để chỉ những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng cho sự phát triển của tổ chức” [71,20]. Theo Khoản 1 và Khoản 3, Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010: “1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, 3. Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội...” Như vậy, quan niệm về cán bộ có rất nhiều ý kiến khác nhau. Các ý kiến đó, thông thường, được hình thành từ cách nhìn trực tiếp đối với từng loại cán bộ, theo phương pháp liệt kê các tiêu chí hoặc theo cảm tính, nên chưa phản ánh được một cách đầy đủ về khái niệm cán bộ. Song cơ bản các khái niệm trên về cán bộ đều đã khái quát rõ những đặc trưng của cán bộ đó là: Cán bộ phải là những người được bầu hoặc được chỉ định hay bổ nhiệm để đảm nhận cương vị nhất định trong một tổ chức nào đó (đặc trưng này phân biệt người cán bộ với người không có chức vụ, không có cương vị). 10 Chức vụ, cương vị của người cán bộ liên quan đến lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động của một tổ chức nhất định (đặc trưng này để phân biệt giữa cán bộ với những người cũng có chức vụ, cương vị nhưng không coi là cán bộ, như trưởng tộc, trưởng hội đồng hương, trưởng hội đồng môn ...). Cán bộ phải là người có uy tín, có vai trò nòng cốt, có tác động ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của tổ chức, điều chỉnh mối quan hệ liên quan đến lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động, duy trì, thúc đẩy và định hướng sự phát triển của tổ chức. Những đặc trưng trên là cơ sở để chúng ta phân biệt người cán bộ với những đối tượng khác. Nếu thiếu một trong ba đặc trưng trên đều đưa đến nhận thức phiến diện về cán bộ. Từ những đặc trưng trên, cán bộ được phân chia trên nhiều lĩnh vực, nhiều chức danh, cấp độ khác nhau. Trong từng loại cán bộ đều cần phải quy định tiêu chuẩn, tiêu chí, chức năng, nhiệm vụ khác nhau. 1.1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ theo tƣ tƣởng Hồ Chí Minh Xuất phát từ lý luận của Chủ nghĩa Mác –Lênin về cán bộ, rằng “Không một phong trào cách mạng nào vững chắc được nếu không có một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục gồm những người lãnh đạo”[39,58], và “Người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền lãnh đạo của mình, đó là tìm cho mình được nhiều, ngày càng nhiều những người phụ tá…, biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ, biết giới thiệu và chú ý đến kinh nghiệm của họ”[42,407], Hồ Chí Minh xác định việc xem xét vị trí, vai trò của cán bộ phải đặt trong tổng hoà các mối quan hệ đa chiều. Từ thực tiễn hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành hay bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, Người nói “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[50,240], 11 nghĩa là khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và nơi kiểm tra…cả ba điều ấy đều rất quan trọng và quyết định ở người cán bộ. Hồ Chí Minh cho rằng “cán bộ là gốc của mọi công việc”[50,269] nên người cán bộ không phải là “ông quan cách mạng”, càng không phải là người có “quyền sinh, quyền sát” như vua chúa thời phong kiến, mà chỉ là người đầy tớ của nhân dân, người đại diện, đại biểu cho lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, có trách nhiệm thi hành nhiệm vụ mà nhân dân giao phó. Người cán bộ không được cho mình đứng ở vị trí lãnh đạo, chỉ tay năm ngón điều hành công việc mà phải sâu sát cơ sở, bám sát quần chúng nhân dân, xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiệt với quần chúng nhân dân. Đối với Hồ Chí Minh, cán bộ các cấp đều có vị trí quan trọng và có liên hệ chặt chẽ với nhau trong tổ chức của Đảng. Nếu cán bộ lãnh đạo ở cấp Trung ương là những cán bộ cấp chiến lược có trách nhiệm hoạch định, hoặc gắn với việc hoạch định chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, thì cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở lại có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng tổ chức đảng và hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, trực tiếp lãnh đạo các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Họ là những người hội tụ đầy đủ các yếu tố: gần dân nhất, trực tiếp nhất, công việc nhiều nhất nên sự nghiệp cách mạng có thành công hay không phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ này. Người khẳng định “Cấp xã là người gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi”[50,371]. Mở rộng quan điểm về vị trí, vai trò của người cán bộ, Hồ Chí Minh đồng thời cũng khẳng định vai trò, vị trí của người đảng viên. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì mỗi đảng viên của Đảng cũng là cán bộ, họ vẫn là những người lãnh đạo, mặc dù họ chỉ là những đảng viên bình thường, không đảm 12 nhiệm những cương vị trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, nên khi nói về cán bộ người vẫn thường dùng cụm từ “cán bộ đảng viên”. Như vậy, có thể thấy việc xem xét vị trí, vai trò của người cán bộ theo quan điểm của Hồ Chí Minh phải được xác định trong mối quan hệ biện chứng, đa chiều giữa chủ thể và đối tượng, đặt người cán bộ trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, trong sự tương quan về nhiệm vụ. Trong đó, người cán bộ vừa là chủ thể lãnh đạo, điều hành, vừa là đối tượng và là lực lượng tổ chức thực hiện. Song song với khẳng định vị trí, vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh cũng đồng thời khẳng định tầm quan trọng của công tác cán bộ. Theo Người công tác cán bộ là một bộ phận trong công tác xây dựng Đảng, là công tác Đảng liên quan chặt chẽ với việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách và nhiệm vụ chính trị, với việc sắp xếp tổ chức, bộ máy, cơ chế và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong cả hệ thống chính trị. Công tác cán bộ là hoạt động của chủ thể có đủ thẩm quyền và trách nhiệm pháp lý, nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, có lập trường chính trị vững vàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đất nước. Hồ Chí Minh yêu cầu giai cấp vô sản và chính đảng của mình muốn giành được quyền lãnh đạo, giữ vững được chính quyền thì phải đào tạo được một đội ngũ cán bộ trung thành, đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo đó phải thực sự chuyên nghiệp, tận tâm với nước, tận hiếu với dân, phải là lực lượng rường cột của đất nước, có phẩm chất, trí tuệ, có đạo đức cách mạng trong sáng, có năng lực tổ chức thực hiện. Không chỉ yêu cầu, Hồ Chí Minh còn là người tổ chức thực hiện. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người luôn quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Ngay từ những năm 1925, sau khi tiếp nhận học thuyết của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tìm ra con đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Người đã trực tiếp mở các lớp 13 đào tạo, huấn luyện cán bộ cho cách mạng. Và sau này khi đã trở thành chủ tịch nước, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ lại được Hồ Chí Minh quan tâm hơn bao giờ hết. Đào tạo cán bộ như thế nào, sử dụng cán bộ ra sao, cán bộ cần có những tiêu chuẩn gì?... là những nội dung được Hồ Chí Minh đưa ra trong rất nhiều bài nói, bài viết của mình ở các lớp chỉnh huấn, với các cấp, các ngành, các lĩnh vực và đã trở thành cơ sở lý luận chính trị quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước. 1.1.3. Tiêu chuẩn cán bộ 1.1.3.1. Người cán bộ phải có phẩm chất đạo đức cách mạng Đây là một trong những phẩm chất hàng đầu và quan trọng bậc nhất đối với người cán bộ làm cách mạng. Trong thời đại Hồ Chí Minh đất nước ta, dân tộc đang trải qua một giai đoạn gay go khốc liệt, vừa phải đấu tranh giành độc lập dân tộc, vừa phải thực hiện cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, xây dựng một xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình cải tạo xã hội cũ, đã lỗi thời thành xã hội mới tiến bộ hơn, một cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu… đan xen, chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy, để hoàn thành được sự nghiệp cách mạng của dân tộc trước hết cần phải có những người cách mạng chân chính, đủ bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn và nghị lực để vượt qua. Người cán bộ cách mạng ấy phải lấy đạo đức cách mạng làm nền tảng. Bởi “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[50,252-253], có như vậy mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Phẩm chất đạo đức cách mạng theo Người trước hết là trung với nước, hiếu với dân. Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân” và hơn nữa, phải 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan