Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ý thức tự do trong phong trào thơ mới...

Tài liệu ý thức tự do trong phong trào thơ mới

.PDF
31
486
128

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN  ĐẶNG THỊ NGỌC PHƯỢNG Ý THỨC TỰ DO TRONG PHONG TRÀO THƠ MỚI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI – 2008 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN  ĐẶNG THỊ NGỌC PHƢỢNG Ý THỨC TỰ DO TRONG PHONG TRÀO THƠ MỚI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 62.22.34.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. GS. TS. Lê Văn Lân 2. TS. Nguyễn Đức Mậu HÀ NỘI - 2008 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1. Mục đích - ý nghĩa đề tài ................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................ 2 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................... 11 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................. 12 5. Đóng góp của luận án .................................................................. 13 6. Cấu trúc luận án .......................................................................... 14 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: Ý THỨC TỰ DO NHƢ LÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH THƠ MỚI 1.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam và những tiền đề hình thành phong trào Thơ mới ...................................................................... 15 1.1.1. Bối cảnh xã hội - văn hoá đầu thế kỷ XX .................................. 15 1.1.2. Tiền đề hình thành phong trào Thơ mới ................................... 20 1.2. Ý thức tự do trong sáng tạo nghệ thuật ........................................... 30 1.2.1. Ý thức tự do và vai trò của chủ thể con người trong đời sống .. 30 1.2.2. Tự do sáng tạo trong đời sống văn học .................................... 33 1.2.3. Ý thức tự do và vấn đề phát huy cá tính sáng tạo ..................... 36 1.2.4. Ý thức tự do và sự ra đời của Thơ mới .................................... .38 1.3. Thơ mới Việt Nam trong dòng chảy thơ ca Đông Á đầu thế kỷ XX...................................................................... 49 1.3.1. Ảnh hưởng của tân văn, tân thư trong phong trào Thơ mới ......... 49 1.3.2. Thơ mới trong quan hệ với khu vực Đông Á ............................... 51 CHƢƠNG 2: Ý THỨC TỰ DO VÀ SỰ ĐỔI MỚI NỘI DUNG CẢM XÚC TRONG PHONG TRÀO THƠ MỚI 2.1. Tự do yêu đƣơng ............................................................................... 61 2.1.1. Đề tài tình yêu trong Thơ mới.................................................... 61 2.1.2. Ý thức tự do tạo nên những cung bậc đa dạng trong tình yêu ...... 65 2.2. Trở về quá khứ với những vẻ đẹp xƣa ............................................. 88 2.2.1. Chán ghét thực tại, tự do sống trong thế giới hoài niệm quá khứ ............................................................................ 88 2.2.2. Bộc lộ tình cảm yêu nước thầm kín ............................................ 98 2.3. Khát vọng ra đi - Cuộc tìm kiếm tự do............................................ 104 2.3.1. Ra đi - một ứng xử nghệ thuật trong văn học ........................... 105 2.3.2. Ra đi - con đường thoát ly của các nhà Thơ mới ...................... 106 Chƣơng 3: Ý THỨC TỰ DO VÀ SỰ ĐỔI MỚI CÁC HÌNH THỨC THỂ HIỆN CỦA THƠ MỚI 3.1. Sự phá vỡ hình thức thể loại ................................................... 118 3.1.1. Thể loại trong văn học trung đại ............................................. 118 3.1.2. Thơ mới - sản phẩm của sự kế thừa và cách tân ....................... 120 3.1.2.1. Sự kế thừa, đổi mới các thể thơ cũ ........................121 3.1.2.2. Nỗ lực và tự do tìm kiếm các thể Thơ mới ............128 3.1.2.3. Thơ văn xuôi - độ nhoè về thể loại.........................143 3.2. Ngôn ngữ ..................................................................................149 3.2.1. Ngôn ngữ thơ đầu thế kỷ XX ................................................... 149 3.2.2. Ngôn ngữ Thơ mới ................................................................ 151 3.2.2.1. Từ ngôn ngữ điệu ngâm đến ngôn ngữ điệu nói ........ 152 3.2.2.2. Giai đoạn đầu (1932-1935) ...................................... 153 3.2.2.3. Giai đoạn (1936-1940) ............................................. 156 3.2.2.4. Giai đoạn cuối (1941-1945) ..................................... 162 3.3 Đổi mới mô hình cú pháp ............................................................... 166 3.3.1. Khả năng kết hợp ngôn từ..... .........................................................166 3.3.2. Các kiểu câu của Thơ mới ......................................................... 170 3.3.3. Hiện tượng chia nhiều khổ thơ, vắt dòng, chấm câu giữa dòng ............................................................... 174 PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................... 181 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ............................................................... 185 TÀI LIỆU THAM KHẢO . ........................................................................186 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Mục đích - ý nghĩa đề tài 1.1. Phong trào Thơ mới Việt Nam 1932-1945 với những thành tựu rực rỡ của nó đã thực sự đem đến cho thi ca Việt Nam một thời đại mới, mở đầu cho tiến trình hiện đại hoá của thơ Việt còn tiếp tục cho đến ngày nay. Phong trào Thơ mới được đánh giá là cuộc cách mạng trong thơ ca xuất phát từ sự bùng nổ của tư duy sáng tạo với sự hội ngộ của hai nền văn hoá - văn học phương Đông và phương Tây trên cơ sở văn chương Việt, thi pháp Việt. Ra đời, tồn tại và phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định (19321945), vấn đề tự do cá nhân trong phong trào Thơ mới đã có rất nhiều công trình đề cập đến, song do những mục đích khoa học cụ thể, các tác giả chưa lưu ý đến vấn đề này một cách tập trung và hệ thống ý thức tự do như là một động lực chủ yếu tác động đến sự phát triển của phong trào Thơ mới. Kế thừa những người đi trước, luận án sẽ đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu ý thức tự do trong phong trào Thơ mới dưới góc nhìn cá tính sáng tạo bao gồm cả chặng đường Thơ mới (1932-1945). Thực hiện đề tài này, chúng tôi hy vọng góp phần bổ sung vào việc nghiên cứu phong trào Thơ mới ở khía cạnh mỹ học sáng tạo. 1.2. Từ khi Thơ mới ra đời cho đến nay, việc nhận thức về Thơ mới đã trải qua một chặng đường hơn nửa thế kỷ với nhiều bước thăng trầm. Từ thời đổi mới, mở cửa và hội nhập hiện nay, phong trào Thơ mới đã trở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều công trình, chuyên luận, luận án khoa học và đã được đánh giá lại đúng thực chất của nó. Tìm hiểu và nghiên cứu phong trào Thơ mới dưới góc độ lý luận và cá tính sáng tạo về ý thức tự do cho thấy được sự khác biệt giữa thơ mới và thơ cũ, thấy được sự đóng góp của các nhà thơ trên phương diện nội dung và nghệ thuật, góp phần khẳng định giá trị của bộ phận thơ từng chịu nhiều định kiến này. Một mặt, khẳng định ý thức tự do của chủ thể có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc hình thành cá tính sáng tạo, nội dung cảm xúc, phong cách nghệ thuật, hình thức thể hiện... Mặt khác, nghiên cứu ý thức tự do sẽ góp phần đáp ứng việc giảng dạy Thơ mới trong trường phổ thông và đại học ở một chiều sâu mới. Đó là lý do khiến chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu này. 2. Lịch sử vấn đề Quá trình nghiên cứu Thơ mới chia làm ba chặng đường: trước 1945, từ 1945 đến 1986 và từ 1986 đến nay. Ở mỗi chặng đường, tuy có khác nhau về hoàn cảnh, nh-ng ®Òu cã những công trình có đóng góp về mặt nội dung và hình thức của Thơ mới dưới nhiều góc độ. Xa, gần có nhắc đến ý thức tự do trong Thơ mới, có thể kể đến những công trình sau: 2.1. Trước 1945 Cùng với việc liên tục in Thơ mới, các báo ở hai miền đã cho đăng các bài "bút chiến" tranh luận thơ cũ - thơ mới, phê bình Thơ mới. Trong các bài viết đó, vấn đề cá nhân, cái tôi được đề cập đến khá sâu sắc. Qua các bài viết của các tác giả quan trọng nhất như Tản Đà, Hoài Thanh ở Tiểu thuyết thứ bảy; Lê Tràng Kiều ở Hà Nội báo; Trịnh Đình Rư ở Phụ nữ tân văn; Thế Lữ, Xuân Diệu ở Ngày nay; Lê Thanh, Kiều Thanh Quế, Thiếu Sơn, Lam Giang ở Tạp chí Tri Tân..., ý thức cá nhân, cái tôi trữ tình được nói đến ở sự vận động từ thơ cũ sang Thơ mới. Thi Nhân Việt Nam (1942) của Hoài Thanh, Hoài Chân là một công trình nghiên cứu rất qui mô về Thơ mới có phạm vi bao quát rộng lớn và có chiều sâu. Với công trình này, chúng ta có thể tìm được những gợi ý quí giá về phương pháp tiếp cận Thơ mới. Tác giả không chỉ tái hiện quá trình vận động, diện mạo của Thơ mới mà còn tìm cách lý giải hiện tượng Thơ mới từ nguyên nhân ra đời cho đến phong cách mỗi nhà thơ. Công trình của Hoài Thanh cho rằng một trong những nguyên nhân tạo ra Thơ mới, ngoài những nguyên nhân về lịch sử, xã hội, văn hoá, văn học như lối sống, tư tưởng, tình cảm thì sự xuất hiện của cái tôi trữ tình đã thể hiện quan niệm cá nhân, tự do cá nhân của con người. Đây là một cách hiểu hiện tượng Thơ mới có tính khoa học cao, đi sâu vào tâm lý, ý thức của con người lúc bấy giờ. Tác giả đã khẳng định: "Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý tưởng" [162; tr.24]. Ý kiến đánh giá của Hoài Thanh, Hoài Chân đến nay vẫn có giá trị khoa học. Việc tuyển chọn những tác giả, tác phẩm xuất sắc trong hàng ngàn bài thơ thời ấy còn là nguồn tư liệu quý giá cho những người làm công tác nghiên cứu Thơ mới. Trong Nhà văn hiện đại (1942), Vũ Ngọc Phan đã đưa ra ý kiến và nhận xét về mười nhà thơ. Những ý kiến đó đã chứng minh "những áng Thơ mới từ những lối thật cũ đến những lối thật mới trong trường thơ hiện đại" [134; tr.653]. Vũ Ngọc Phan đề cập đến sự vận động của Thơ mới trong mối tương quan giữa thơ cũ và thơ mới. Vấn đề tự do có đề cập đến nhưng còn khái quát, mang tính nhận định chung. Việt Nam văn học sử yếu (1943) của Dương Quảng Hàm nêu nguyên nhân sự ra đời của Thơ mới. Công trình đã đề cập đến sự hình thành ý thức tự do của "một lối thơ phá bỏ luật lệ của lối thơ cũ và đã được mệnh danh là Thơ mới" [54; tr.421]. Đây là sự ra đời của một lối thơ: "Các thi gia muốn phá bỏ các luật lệ nghiêm ngặt ấy để được tự do diễn tình đạt ý" [54; tr.421]. Thi nhân Việt Nam (1942) của Hoài Thanh, Hoài Chân và Nhà văn hiện đại (1942) của Vũ Ngọc Phan, Việt Nam văn học sử yếu (1943) của Dương Quảng Hàm đã đề cập đến cái tôi trữ tình, ý thức cá nhân trên cơ sở phân biệt ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới, đồng thời biểu dương những sáng tạo nghệ thuật của Thơ mới. Như vậy, trước 1945 chưa có công trình nào nghiên cứu ý thức tự do trong phong trào Thơ mới một cách chuyên biệt, hầu hết chỉ dừng lại ở những nhận xét chung, có tính khái quát. 2.2. Từ 1945 đến 1986 Từ sau 1945, do hoàn cảnh lịch sử, Thơ mới ít được nghiên cứu rộng rãi. Nói chung, có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Trong thời kỳ đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, ở miền Nam, Thơ mới được đánh giá cao, được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Các công trình: Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (TB 1998) của Phạm Thế Ngũ, Văn học sử Việt Nam (1967) của Bùi Đức Tịnh, Từ Thơ mới đến thơ tự do (1967) của Bằng Giang, Khuynh hướng thi ca tiền chiến (1968) của Nguyễn Tấn Long, Phan Canh... nhìn nhận ý thức tự do, ý thức cá nhân trong cái nhìn tĩnh tại. Cái tôi cá nhân được đề cập đến ở nhiều phương diện, tuy có lúc bị hiểu sai lệch. Khuynh hướng thi ca tiền chiến (1968) của Nguyễn Tấn Long, Phan Canh đã nêu lên những biến chuyển lịch sử của nền văn học Việt Nam trong thế hệ 1932-1945 và những yếu tố tư tưởng, chính trị, văn học ảnh hưởng đến phong trào Thơ mới. Chính sự chuyển biến về tư tưởng, về nhận thức đã đem đến một quan niệm sống, sống tự do, không có gì ràng buộc tình cảm con người: "Tâm hồn, tình cảm người Việt Nam phải xuất phát từ tâm hồn, từ bản thể của mỗi người dân Việt Nam họp lại. Mọi ràng buộc sẽ đưa đến giả tạo, khách sáo, thiếu thành thực” [101; tr.277]. Nhận định của Nguyễn Tấn Long, Phan Canh đã khẳng định vai trò của tâm lý mới, lối sống mới đối với sự ra đời ý thức tự do trong Thơ mới. Từ Thơ mới đến thơ tự do (1967) của Bằng Giang đề cập đến tự do trong văn học trên phương diện nội dung và hình thức. Đặc biệt, tác giả khảo sát những hình thức Thơ mới như thể thơ 8 tiếng, thơ tự do. Ý thức đổi mới của các nhà Thơ mới qua thể thơ tự do khẳng định sự tự do trong sáng tác của thi nhân: “Thơ tự do cởi mở những ràng buộc còn lại để cất cánh bay cao” [48; tr.103]. Tuy chỉ là những nét phác hoạ nhưng bài viết này của tác giả là một trong những cứ liệu để chúng tôi tham khảo khi nghiên cứu ý thức tự do trong phong trào Thơ mới. Thanh Lãng trong Phê bình văn học thế hệ 1932 (1972) đã nghiên cứu Thơ mới trong bối cảnh chung của xã hội. Trong chương mở đầu "Đặc tính chung thế hệ 1932", Thanh Lãng đã nêu lên những đặc điểm chung của nền văn học mới. Đóng góp của ông trong công trình này là đã tái hiện cuộc tranh luận thơ cũ - thơ mới, từ đó giúp người đọc thấy được sự ra đời của Thơ mới, giá trị của Thơ mới do "sự thành hình của một hướng đi mới, một lối sống mới, một lối cảm xúc mới, một lối viết mới..." [87; tr.29]. Tác giả khẳng định cái tôi cá nhân ảnh hưởng không nhỏ đối với sự hình thành ý thức tự do. Có thể nói, những công trình trên đã khẳng định ý thức cá nhân sản sinh ra tâm lý mới, tư tưởng mới, cái tôi cá nhân, cái tôi tự do đã đóng góp quan trọng trong sự hình thành Thơ mới. Ở miền Bắc, do hoàn cảnh lịch sử, việc nghiên cứu Thơ mới giai đoạn này còn ít, sự đánh giá chưa được thoả đáng nhất là về mặt nội dung. Những công trình tiêu biểu: Phan Cự Đệ với Phong trào Thơ Mới 1932-1945 (1966), Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức với Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại (1971)... Trong cuốn Phong trào Thơ mới 1932-1945 (1966), Phan Cự Đệ đã đánh giá Thơ mới từ góc nhìn xã hội học. Với công trình này, tác giả khảo sát Thơ mới trên nhiều mặt: lịch sử Thơ mới, quan điểm mỹ học của các nhà Thơ mới lãng mạn, con đường bế tắc của chủ nghĩa cá nhân tư sản, yếu tố tích cực và tiến bộ của Thơ mới. Phan Cự Đệ cho rằng: "Sự xuất hiện của giai cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị là nguyên nhân chính làm cho phong trào "Thơ mới" ra đời" [34; tr.17]. Sự ra đời của phong trào Thơ mới "là để đáp ứng những nhu cầu tình cảm của một tầng lớp thanh niên mới" [34; tr.21,22]. Ngoài ra, tác giả còn nhấn mạnh ảnh hưởng của tư tưởng mỹ học phương Tây hiện đại vào Thơ mới. Mặc dù còn nặng về phê phán và phủ nhận, nhưng với công trình này, Phan Cự Đệ đã chỉ ra được ý thức cá nhân chính là mạch ngầm trong tâm thức sáng tạo của mỗi nhà thơ, đã đề cập đến ý thức cá nhân, khát vọng cởi trói thơ ca, nhưng chỉ ở góc độ tương đối hạn chế. Trong Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại (1971), hai tác giả Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức đã dành nguyên một chương viết về thể thơ, vần thơ, nhịp điệu và thanh điệu của Thơ mới. Chính "hình thức thơ thích hợp nên trạng thái cảm xúc và lối cấu tứ của các nhà Thơ mới phong phú và đa dạng hơn... và mỗi trạng thái đều mang tính chất cá thể riêng biệt" [120; tr.81]. Đây cũng là một biểu hiện của ý thức tự do trong sáng tạo của nhà thơ. 2.3. Từ 1986 đến nay Trong trào lưu đổi mới của đất nước, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), nhiều giá trị văn học cũ được xem xét và đánh giá lại một cách khách quan hơn, khoa học hơn, trong đó có phong trào Thơ mới. Các công trình chuyên luận riêng về Thơ mới liên tiếp ra đời. Đó là: Con mắt thơ (1992, n¨m 2000 đổi lµ Mắt thơ) của Đỗ Lai Thúy, Thơ mới những bước thăng trầm (1993) của Lê Đình Kỵ, Một thời đại trong thi ca (1997) của Hà Minh Đức, Phác thảo quan hệ văn học Pháp với văn học Việt Nam hiện đại (1998) của Hoàng Nhân, Những thế giới nghệ thuật thơ (2001) và Văn học và thời gian (2002) của Trần Đình Sử... Trong Con mắt thơ (1992), Đỗ Lai Thúy đặt ra vấn đề ý thức cá nhân trong Thơ mới. Tác giả cho rằng: “Thơ mới là tiếng nói của tầng lớp trí thức đô thị mới xuất hiện” [178; tr.12] và “Sự bừng tỉnh của ý thức cá nhân, của cái tôi cá nhân... là một biểu hiện, một giai đoạn của cái tôi Việt Nam trên “hành trình đau khổ” của nó” [178; tr.12]. Hơn thế nữa, "Thơ mới đã thể hiện được số phận của cá nhân" [178; tr.20], thể hiện “khao khát đi đến tình yêu và hưởng thụ hạnh phúc” [178; tr.68]. Ý thức tự do được đề cập đến ở phương diện ngôn từ, hình tượng thơ hay ở nội dung biểu hiện, đây là một công trình nghiên cứu làm cơ sở để chúng tôi tiếp cận đề tài. Lê Đình Kỵ trong Thơ mới những bước thăng trầm (1993) cho rằng Thơ mới tôn thờ cá nhân, “mới không chỉ ở hình thức, ở thể cách, mà ở cảm hứng, ở nội dung” [83; tr.38] và “tự do cá nhân mới lạ nên càng thấy quý, thấy đời dù sao cũng đáng sống, đáng quý” [83; tr.45]. Vì đứng ở bình diện lịch sử để đánh giá lại Thơ mới nên công trình không đi sâu vào phân tích văn bản để chỉ ra ý thức tự do trong phong trào Thơ mới như là một động lực tác động đến cái tôi cá thể. Cùng với xu hướng nghiên cứu mới của thời đại, tầm quan trọng của ý thức cá nhân, ý thức tự do, cái tôi trữ tình đã được xác định. Hà Minh Đức trong Một thời đại trong thi ca (1997) tập hợp nhiều bài viết về một số tác giả tiêu biểu trong phong trào Thơ mới như: Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Nguyễn Bính, Tế Hanh, Vũ Hoàng Chương. Tác giả cho rằng: "Thơ mới là tiếng nói thơ ca trăn trở để tìm đến sự giải phóng bản ngã, nhân tố trọng yếu tạo nên cá tính trong đời, trong thơ" [44; tr.30,31]. Những bài viết này đã đề cập đến ý thức tự do của thi nhân trên phương diện nội dung: tình yêu quê hương đất nước, giá trị nhân bản và thơ tình lãng mạn. Tác giả khẳng định rằng: “Thơ mới đã đem thơ về gần với mạch suy nghĩ gần gũi của mọi người, con người trong cuộc sống hàng ngày đang vui buồn, yêu đương, mong ước” [44; tr.54]. Với công trình này, Hà Minh Đức đã đi sâu thể hiện khát vọng của cái tôi cá nhân, sự tự do bản ngã của con người. Phác thảo quan hệ văn học Pháp với văn học Việt Nam hiện đại (1998) của giáo sư Hoàng Nhân ít nhiều có nhắc đến ảnh hưởng của phương Tây đặc biệt là văn học Pháp tới sự thức tỉnh của ý thức tự do của thi nhân: “Văn chương Pháp vào văn chương Việt Nam cổ điển và hiện đại rung cảm tâm hồn Việt Nam” [124; tr.172]. Tác giả nhấn mạnh sự ảnh hưởng của văn học Pháp đến Thơ mới chủ yếu ở bình diện ngôn từ nghệ thuật, cấu trúc câu thơ... khơi nguồn ý thức tự do trong Thơ mới. Trong Những thế giới nghệ thuật thơ (2001) và Văn học và thời gian (2002), Trần Đình Sử nhấn mạnh sự đổi mới của ngôn ngữ thơ gắn với ngữ điệu của con người hiện đại. Qua công trình này, tác giả khẳng định ngôn ngữ tự do có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo tâm thế sáng tạo cho thơ ca. Chính ngôn ngữ Thơ mới “cho phép nhà thơ tự biểu hiện mình toàn vẹn và đầy đặn hơn, thành thực hơn, tự do hơn. Sức dung chứa của nhãn quan thơ này rất lớn” [157; tr.103]. Vấn đề khát vọng tự do được tác giả đề cập đến, đó là “khát vọng cới trói cho thơ ca... khát vọng biểu hiện cái tôi đã được ý thức” [157; tr.104]. Tác giả còn cho rằng: "Thơ mới đã đem lại câu thơ tự do, giải phóng khỏi niêm, đối, bằng trắc định sẵn. Câu Thơ mới chủ yếu lấy giọng điệu, ngữ điệu lời nói tự nhiên làm nền tảng" [158; tr.316]. Đó là biểu hiện ý thức tự do trên phương diện hình thức. Ngoài những công trình nói trên còn phải kể đến những chuyên luận đi sâu vào những bình diện khác nhau của Thơ mới thể hiện ý thức tự do về hình thức nghệ thuật, giọng điệu... của các nhà thơ. Giọng điệu trong thơ trữ tình (2002) của Nguyễn Đăng Điệp là một công trình nghiên cứu vấn đề giọng điệu của thời đại Thơ mới. Mỗi nhà thơ đều tự do lựa chọn những hệ thống hình ảnh, biểu tượng mô típ riêng để nói lên: “tiếng nói của chủ thể” [40; tr.112]. Theo Nguyễn Đăng Điệp, khi "cái tôi ở trung tâm cảm nhận, thơ ca lãng mạn giải phóng triệt để cá tính sáng tạo của nghệ sĩ, cho phép sự nảy nở tự do của các phong cách nghệ thuật" [40; tr.170]. Tác giả cho rằng: "Các nhà Thơ mới luôn có ý thức nói to lên những cảm nhận, những sợi tơ lòng của bản thân mình" [40; tr.199]. Ba đỉnh cao Thơ mới: Xuân Diệu - Nguyễn Bính - Hàn Mặc Tử (2003) của Chu Văn Sơn đã giới thiệu ba gương mặt tiêu biểu của Thơ mới: Xuân Diệu - nhà thơ mới nhất, Nguyễn Bính - nhà thơ quen nhất và nhà thơ lạ nhất là Hàn Mặc Tử. Ba nhà thơ này là "ba cái kiềng của Thơ mới" [147; tr.4] với "hình tượng cái tôi là hạt nhân, là mấu chốt" [147; tr.6]. Khát vọng tự do của ba nhà thơ thể hiện một cách rõ nét qua khát vọng giãi bày: “Tiếng lòng trẻ, nguồn sống trẻ, điệu sống trẻ” [147; tr.21]. Qua ba gương mặt này, Chu Văn Sơn đã chỉ ra được ý thức tự do tạo nên các phong cách tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Những cuộc tranh luận văn học nửa đầu thế kỷ XX (2005) của Mã Giang Lân điểm lại những cuộc tranh luận đầu thế kỷ: Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh, Dâm hay không dâm, Truyện Kiều, Tranh luận về thơ cũ - thơ mới. Qua các cuộc tranh luận, người đọc hiểu rõ hơn quá trình vận động và phát triển của văn học thời kỳ này. Đặc biệt, cuộc tranh luận về thơ cũ thơ mới đã phản ánh “không khí dân chủ tự do ngôn luận báo chí. Mỗi cá nhân tranh luận được bộc lộ đến tối đa năng lực của mình, chí hướng của mình” [93; tr.61]. Đó là những gợi mở để chúng tôi khảo sát, tiếp cận với không khí xã hội tạo nên ý thức tự do mạnh mẽ trong phong trào Thơ mới. "Sự vận động của cái tôi trữ tình và tiến trình thơ ca” của Vũ Tuấn Anh (TCVH số 1/1996) khảo sát Thơ mới từ cái tôi trữ tình. Tác giả đã chỉ ra bản chất, quy luật vận động của cái tôi trữ tình: "Thơ trữ tình biểu hiện khát vọng của con người nhằm đối diện và khám phá những trải nghiệm tinh thần của con người trước mọi hiện tượng xã hội và tự nhiên" [2; tr.36]. Chính quan niệm "cái tôi trữ tình: đó là sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với thế giới và con người thông qua lăng kính cá nhân của chủ thể" [2; tr.36] đã lý giải được ý thức tự do và khát vọng sống của con người cá nhân trong Thơ mới. "Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Bính trước cách mạng tháng Tám" (Đoàn Đức Phương, TCVH số 10/1996) và "Huy Cận với sự cảm nhận thời gian" (Trần Khánh Thành, TCVH số 10/1996) là sự tiếp cận với từng tác giả trong phong trào Thơ mới thông qua cái tôi trữ tình, sự bùng nổ của tự do cá nhân. Nhân kỷ niệm 65 năm phong trào Thơ mới, Tạp chí văn học tổ chức cuộc gặp mặt và trao đổi ý kiến của những nhà Thơ mới. Các nhà thơ cũng như các nhà nghiên cứu đã đưa ra những nhận định thật sâu sắc và có giá trị về những đóng góp của Thơ mới đối với thơ ca dân tộc. Trong cuộc gặp mặt này, các nhà Thơ mới đưa ra ý kiến của mình về những vấn đề chung quanh "Thơ mới - một hiện tượng văn học lớn cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu" [127; tr.18]. Nhà thơ Huy Cận đã khẳng định: "Cái mới quan trọng nhất của Thơ mới là đổi mới cảm xúc (mode de sentir, mode de penser)", "từ chỗ đổi mới cảm xúc sẽ dẫn đến những thay đổi trong ngôn từ, thể loại" [125; tr.20] ("Cuộc gặp mặt và trao đổi ý kiến của những nhà Thơ mới" (Nhân kỷ niệm 65 năm phong trào Thơ mới 19321997), TCVH số 2/1997). Những ý kiến này đem lại cái nhìn độc đáo về sự đổi mới hình thức, cụ thể trong ngôn từ, thể loại xuất phát từ ý thức tự do. Ngoài ra, còn có một số luận án nghiên cứu về Thơ mới trong hơn mười năm trở lại đây. Đó là: Thơ tình Xuân Diệu (1994) của Lưu Khánh Thơ, Thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8 - 1945 (1995) của Lý Hoài Thu, Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8 - 1945 (1998) của Lê Quang Hưng, Bản sắc thơ Nguyễn Bính trước cách mạng tháng 8 - 1945 (1998) của Đoàn Đức Phương, Kết cấu thơ trữ tình (nhìn từ góc độ loại hình) (1999) của Phan Huy Dũng, Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên (1999) của Hồ Thế Hà, Quan niệm nghệ thuật trong các tác phẩm của các nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới 1932-1945 (1999) của Nguyễn Thị Hồng Nam, Thi pháp thơ Huy Cận (2001) của Trần Khánh Thành, Thơ mới nhìn từ giác độ quan hệ văn hoá văn học (2007) của Hoàng Thị Huế... Qua các công trình nghiên cứu về Thơ mới, chúng ta thấy rằng Thơ mới được nghiên cứu chuyên sâu trên nhiều mặt: quá trình hình thành và phát triển, những cách tân về hình thức nội dung và nghệ thuật, các nguồn ảnh hưởng đến Thơ mới (văn học Pháp, thơ Đường, thơ ca dân tộc), cái tôi cá nhân, phong cách nghệ thuật của các tác giả, hạn chế cũng như những đóng góp của Thơ mới trong tiến trình hiện đại hoá thơ ca dân tộc. Những công trình trên chú ý đến những bước thăng trầm của Thơ mới, tự do sáng tác, tự do tư tưởng được đề cập đến ở mức độ khái quát, chưa đi vào chiều sâu: ý thức tự do chính là hạt nhân trung tâm của phong trào Thơ mới: . Ngoài các công trình nghiên cứu về Thơ mới còn một số công trình bàn về ý thức, tự do của con người trong lĩnh vực triết học, văn hoá xã hội... Đó là những công trình: Ý hướng tính văn chương (1999) của Nguyễn Hoàng Đức, Lịch sử cá nhân luận (2001) của Alain Laurent (Phan Ngọc dịch), Bàn về tự do (2005) của John Stuart Mill (Nguyễn Văn Trọng dịch), Tư duy tự do (2006) của Phan Huy Đường... Những tác phẩm này là cơ sở để chúng tôi nghiên cứu ý thức tự do biểu hiện trong văn học và cụ thể trong phong trào Thơ mới. Nguyễn Hoàng Đức trong Ý hướng tính văn chương (1999) nhấn mạnh vai trò của tự do trong sáng tạo. Tác giả cho rằng: “Tự do là nền tảng khởi đầu của sáng tạo, bởi lẽ nó quy định rằng con người có ý thức và ý thức đã sáng tạo” [46; tr.33]. Tự do là một trong những điều kiện cần và đủ để các nhà thơ sáng tác. Vấn đề ý thức tự do ở đây được đề cập đến trên phương diện triết học. “Hạnh phúc hay đau khổ... tất cả, tất cả là do ý thức. Duy nhất và tất cả, tiềm năng và động năng, ý thức đã vận hành cỗ xe “máu thịt cuộc đời” như một dự phóng hướng về siêu việt, và cũng tại đây ý thức nhận biết mình” [46; tr.22]. Công trình này là cơ sở để chúng tôi đi sâu nghiên cứu ý thức tự do trong phong trào Thơ mới ở phương diện khái quát. Lịch sử cá nhân luận (2001) của Alain Laurent đề cập đến biểu hiện cá nhân trong thời Cổ đại - Hy La, trong xã hội Trung cổ và cụ thể của cá nhân tự do trong thời Phục hưng. Theo tác giả đây là biểu hiện của “sự giải phóng cá nhân, có ý nghĩa hơn bởi những quyền tự do được sống cụ thể cho toàn bộ các cá nhân sống ở thời đại ấy” [88; tr.38], một cá nhân “có ý thức về chính mình trong một cuộc sống riêng được phác hoạ” [88; tr.39]. Đặc biệt là quan niệm tự do của cá nhân con người nửa đầu thế kỷ XIX: “Thời đại tự do cá nhân trị vì đối với họ là điều duy nhất có thể đem tiến bộ và hạnh phúc cho mọi người” [88; tr.73]. Tuy không đề cập đến ý thức tự do rõ nét trong văn học nhưng công trình này là tư liệu quan trọng để chúng tôi tìm hiểu quan niệm tự do của cá nhân con người qua các thời kỳ trong sự đối sánh giữa phương Tây và phương Đông. Bàn về tự do (2005) của John Stuart Mill đưa ra vấn đề được mọi người quan tâm, đó là quyền tự do của cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng. Tác giả cho rằng: “Tự do của mỗi người tìm thấy giới hạn của mình trong tự do của người khác” [75; tr.9]. John Stuart Mill đề cập đến tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do thảo luận, tự do về sở thích... Tuy không đề cập đến tự do trong lĩnh vực văn học cụ thể trong phong trào Thơ mới nhưng những vấn đề tác giả đưa ra có tính thuyết phục: “Con người phải được tự do hình thành ý kiến và tự do bày tỏ ý kiến không chút giấu giếm” [75; tr.11]. Đó cũng là ý thức tự do của con người nói chung và của thi nhân nói riêng trong lĩnh vực sáng tác. Theo tác giả, không có ý thức tự do thì “các năng khiếu con người của họ bị khô héo tàn lụi đi. Họ trở nên thiếu những khát vọng mạnh mẽ hoặc các niềm vui tự nhiên và thông thường, họ chẳng có ý kiến hay cảm xúc có bản sắc hay thực sự của riêng mình” [75; tr.141]. Tư duy tự do (2006) của Phan Huy Đường là một công trình triết học khẳng định quyền tự do của con người: “Tự do là một giá trị trong quan hệ giữa người với người” [47; tr.11]. Tác giả cho rằng tự do là một yếu tố cần thiết của con người trong mối quan hệ với vật chất, sự sống và ngay với chính mình. Cuốn sách này đứng trên phương diện triết học để lý giải tự do của con người. Con người có tự do là có ý thức về chính mình. Tuy là cái nhìn khái quát về tư duy tự do của con người, về ý thức cá nhân của mỗi người nhưng đây là cơ sở để chúng tôi có thể tiếp cận với ý thức tự do biểu hiện trong phong trào Thơ mới. Các công trình trên đây cho thấy việc nghiên cứu Thơ mới đang cần một cách tiếp cận mới nhằm phát hiện những tầng nghĩa sâu hơn. Tuy các công trình trên chưa có công trình nào đề cập đến Thơ mới về ý thức tự do một cách cụ thể, chuyên biệt nhưng đó là những gợi ý quý báu để chúng tôi vận dụng, tiếp cận ý thức tự do trong phong trào Thơ mới một cách có hệ thống. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Phong trào Thơ mới là một hiện tượng văn học phức tạp, có thể nghiên cứu phong trào thơ này dưới nhiều góc độ: lịch sử (sự hình thành và phát triển của Thơ mới), thể loại, ảnh hưởng của văn hoá, văn học phương Tây, phương pháp sáng tác, phong cách nghệ thuật... Ở đây, luận án đi sâu nghiên cứu ý thức tự do tập trung biểu hiện qua phương diện nội dung và nghệ thuật dưới góc nhìn cá tính sáng tạo của nền Thơ mới lãng mạn 1932-1945. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu vấn đề ý thức tự do trong phong trào Thơ mới, chúng tôi tiến hành khảo sát toàn bộ tác phẩm của phong trào thơ này và tập trung ở một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu có liên quan đến đề tài. Tư liệu khảo sát chủ yếu là bộ hợp tuyển Thơ mới 1932-1945 tác giả và tác phẩm của Lại Nguyên Ân (NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1998) và Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân. Chúng tôi chọn hai bộ hợp tuyển này để khảo sát bởi những bộ hợp tuyển đã tập hợp được những bài thơ hay, có giá trị của các tác giả tiêu biểu. Hợp tuyển đã cung cấp một cách khá toàn diện diện mạo của phong trào Thơ mới từ các tác giả, tác phẩm điển hình cho đến những tác giả, tác phẩm ít được biết đến. Ngoài ra, chúng tôi khảo sát, thống kê thêm ở Việt Nam thi nhân tiền chiến của Nguyễn Tấn Long (NXB Văn học, TB 1996, Hà Nội) và một số tuyển tập của các nhà Thơ mới tiêu biểu khác. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Sự kết hợp của nhiều phương pháp nghiên cứu là tính tất yếu của một công trình khoa học. Ở đây, chúng tôi sử dụng những phương pháp chủ yếu sau: 4.1. Thi pháp học, phong cách học Đây là hai hướng tiếp cận chủ yếu của luận án. Vận dụng thi pháp học hiện đại và phong cách học để khảo sát các hình thức nghệ thuật của Thơ mới, chỉ ra những đặc trưng nghệ thuật của một số tác giả nhằm khẳng định những thành công của Thơ mới trên phương diện ý thức tự do. Hai phương pháp này, tuy có những mặt khác nhau về hướng khai thác nhưng bổ sung cho nhau một cách có hiệu quả và đều đi đến mục đích cuối cùng là chỉ ra những biểu hiện ý thức tự do của các cá tính sáng tạo, các phong cách nghệ thuật trong Thơ mới. 4.2. Phương pháp tổng hợp, liên ngành Để làm phong phú, sáng tỏ thêm ý thức tự do trên nhiều phương diện, chúng tôi vận dụng những yếu tố của các phương pháp nghiên cứu văn học khác như: xã hội học, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp... tập trung xem xét, hệ thống hoá các vấn đề lịch sử nghiên cứu, hình thức thể loại, thể thơ và tiến hành so sánh ý thức tự do trong Thơ mới với nền thơ truyền thống dân tộc và thơ Pháp. Những phương pháp này sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc nghiên cứu, khảo sát văn bản, chỉ ra những thủ pháp nghệ thuật, xác định những nét kế thừa và đổi mới của Thơ mới, phong cách tác giả tiêu biểu... Từ đó thấy được những nét độc đáo về tâm lý học sáng tạo và vai trò ý thức tự do trong phong trào Thơ mới. 5. Đóng góp của luận án 5.1. Thơ mới là một hiện tượng văn học lớn, độc đáo của thế kỷ XX. Nhiều người đã quan tâm, nghiên cứu Thơ mới dưới nhiều góc độ khác nhau. Trên cơ sở vận dụng các phương pháp trên, chúng tôi chỉ ra ý thức tự do như là một biểu hiện quan trọng trong việc hình thành cái tôi cá nhân và tiến trình phát triển của Thơ mới. 5.2. Lựa chọn và giải quyết đề tài này, luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu, tập trung nghiên cứu ý thức tự do trong Thơ mới từ góc độ thẩm mỹ. Từ đó, khám phá cá tính sáng tạo của nhà thơ, sự đa dạng trong nghệ thuật biểu hiện của Thơ mới. Luận án góp phần chỉ ra một đặc điểm quan trọng của Thơ mới: ý thức tự do, đồng thời khẳng định sự tác động của ý thức tự do đến các cách thể hiện, các hình thức thể hiện trong Thơ mới. Về mặt khoa học, nhu cầu tìm hiểu ý thức tự do trong phong trào Thơ mới được đặt trong tiến trình chung của văn học Việt Nam để phát hiện, lý giải một cách có cơ sở khách quan cũng như quy luật vận động nội tại của thi ca. 5.3. Về mặt phương pháp, luận án gợi ý một lối tiếp cận mới về Thơ mới: tâm lý học sáng tạo. Từ những đóng góp trên, luận án là tài liệu tham khảo hữu ích về một hướng tiếp cận mới đối với một hiện tượng văn học cho những người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu, học tập và những ai quan tâm đến phong trào Thơ mới. 6. Cấu trúc luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình, nghiên cứu của tác giả luận án và Thư mục tài liệu tham khảo, phần nội dung luận án gồm 166 trang, được cấu trúc thành ba chương như sau: Chương 1: Ý thức tự do như là tiền đề hình thành Thơ mới (45 trang) Chương 2: Ý thức tự do và sự đổi mới nội dung cảm xúc trong phong trào Thơ mới (58 trang) Chương 3: Ý thức tự do và sự đổi mới các hình thức thể hiện của Thơ mới (63 trang) TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Huỳnh Phan Anh (1968), Văn chương và kinh nghiệm hư vô, Nxb Hoàng Đông Phương, Sài Gòn. 2. Vũ Tuấn Anh (1996), “Sự vận động của cái tôi trữ tình và tiến trình thơ ca”, Tạp chí Văn học (1), tr.36-39. 3. Vũ Tuấn Anh (Tuyển chọn và giới thiệu) (1999), Chế Lan Viên - tác gia và tác phẩm , Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. Alêcxandr Đôlin (1992), “Thế kỷ bạc của thơ Nhật Bản” (Ngân Xuyên dịch), Tác phẩm mới (4), tr.34-37. 5. Aristote-Lƣu Hiệp (1999), Nghệ thuật thơ ca - Văn tâm điêu long (Lê Đăng Bảng, Thành Thế Thái Bình, Phan Ngọc... dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 6. Arnauđôp M. (1978), Tâm lý học sáng tạo văn học (Hoài Lam và Hoài Ly dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 7. Phạm Đình Ân (1992), “Một hiện tượng, một phong trào, một di sản quý”, Báo Văn nghệ (14), tr.1-3. 8. Lại Nguyên Ân (1993), “Cuộc cải cách thơ của phong trào Thơ mới và tiến trình thơ tiếng Việt”, Tạp chí Văn học (1), tr.33-38. 9. Lại Nguyên Ân (Tập hợp và biên soạn) (1998), Thơ mới 1932-1945, Tác giả và tác phẩm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 10. Lại Nguyên Ân (1998), “Nói thêm về điểm khởi đầu phong trào Thơ mới”, Tạp chí Văn học (2), tr.58-62. 11. Bakhtine M. (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư giới thiệu và dịch), Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 12. Phạm Quốc Ca (2002), “Ý thức cá nhân trong thơ trữ tình Việt Nam sau 1975”, Tạp chí Văn học (12), tr.48-52. 13. Phan Canh (1999), Thi ca Việt nam thời tiền chiến, Nxb Đồng Nai. 14. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội. 15. Huy Cận, Hà Minh Đức (T ái bản 1993), Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca (Sáu mươi năm phong trào Thơ mới), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 16. Hà Nhƣ Chi (1958), Một thời lãng mạn trong thi ca Việt Nam, Nxb Tân Việt, Sài Gòn. 17. Mai Ngọc Chừ (1991), Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 18. Côvaliôp. A. G (1971), Tâm lý học cá nhân (Tập I) (Phạm Hoàng Gia dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 19. Nguyễn Văn Dân (1986), “Nghiên cứu sự tiếp nhận văn chương trên quan điểm liên ngành”, Tạp chí Văn học (4), tr.23-29. 20. Nguyễn Văn Dân (1997), “Dấu ấn phương Tây trong văn học Việt Nam hiện đại, vài nhận xét tổng quan”, Tạp chí Văn học (2), tr.78-84. 21. Xuân Diệu (1963), Dao có mài mới sắc, Nxb Văn học, Hà Nội. 22. Xuân Diệu (Giới thiệu), Nguyễn Khắc Xƣơng (Sưu tầm chú thích) (1986), Tuyển tập Tản Đà, Nxb Văn học, Hà Nội. 23. Xuân Diệu (1991), “Bàn về thơ”, Báo Văn nghệ (1618), tr.5. 24. Xuân Diệu (1994), Công việc làm thơ, Nxb Văn học, Hà Nội. 25. Trƣơng Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như một quá trình, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 26. Lê Tiến Dũng (1994), “Loại hình câu Thơ mới”, Tạp chí Văn học (1), tr.12-16. 27. Lê Tiến Dũng (1997), “Thơ Xuân Diệu giai đoạn 32-45: cái nhìn nghệ thuật về thế giới và con người”, Tạp chí Văn học (9), tr.78-84. 28. Phan Huy Dũng (1994), “Thiên nhiên như một biểu hiện của cái tôi trữ tình trong Thơ mới”, Tạp chí Văn học (6), tr.1-5. 29. Nguyễn Duy Diễn (1957), Luận đề về Tự lực văn đoàn, Thăng Long - Sài Gòn. 30. Trần Thanh Đạm (1994), “Thơ mới (1930-1945) và thơ hôm nay”, Báo Văn nghệ (45), tr.3. 31. Đặng Anh Đào (1994), Tài năng và người thưởng thức, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan