Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn 1930-1945 là một thời kì bùng nổ
của văn học dân tộc trên bước đường hiện đại. Đây là một giai đoạn văn học
phát triển rực rỡ nhất với hàng loạt những tên tuổi lớn như Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Thạch Lam, Nguyễn Tuân…
cùng với những thành tựu văn chương trên hầu hết các thể loại: Truyện ngắn,
kịch, thơ ca, tiểu thuyết, phóng sự… chỉ tính riêng dòng văn học hiện thực đã
có nhiều tài năng lớn.
Vũ Trọng Phụng (1912-1939) là một trong những cây bút tiêu biểu của
trào lưu này. Ông thuộc lớp người đa tài, tuy tuổi đời và tuổi nghề hết sức
ngắn ngủi nhưng sự nghiệp văn học mà ông dâng tặng cho đời vô cùng đồ sộ
và có giá trị nghệ thuật cao trên nhiều lĩnh vực và có nhiều đóng góp xuất sắc
ở hai mảng phóng sự và tiểu thuyết. Đặc biệt trong suốt thời gian dài từ khi
Vũ Trọng Phụng bắt đầu cầm bút cho đến nay xoay quanh ông đã từng nổ ra
nhiều ý kiến tranh cãi quyết liệt, có lúc trở thành những cuộc bút chiến văn
chương nhiều khi trái ngược mâu thuẫn đến kì lạ. Tuy nhiên bằng tài năng và
tấm lòng chân chính của mình “ông vua phóng sự đất Bắc’’[12,27] “tiểu
thuyết gia trác tuyệt”[12,587] ấy đã, đang và ngày càng chiếm lĩnh vị trí
vững chắc trên văn đàn.
Trong suốt 27 năm ngắn ngủi của cuộc đời và 10 năm cầm bút ông đã
để lại một số lượng tác phẩm lớn gồm: 40 truyện ngắn, 9 tiểu thuyết, 6 vở
kịch, 6 tác phẩm nghị luận văn học, chính luận, 2 tác phẩm dịch và đặc biệt là
7 phóng sự. Trong sự nghiệp văn học của mình ông đã thử sức ở rất nhiều thể
loại nhưng đặc biệt thành công ở hai thể loại phóng sự và tiểu thuyết. Tài
năng của ông đã được khẳng định khi mà độc giả yêu mến đã mệnh danh cho
ông là: “Ông vua phóng sự đất Bắc” và “tiểu thuyết gia trác tuyệt”. Mặc dù
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
1
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
đây là hai thể loại văn học nhưng trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng điều dễ
nhận thấy nhất là trong tiểu thuyết lại đậm chất phóng sự và trong phóng sự
lại có yếu tố tiểu thuyết. Chính vì vậy với đề tài “ Yếu tố tiểu thuyết trong
phóng sự Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng” chúng tôi muốn được tìm
hiếu sâu hơn về sức cuốn hút kì lạ ở thế tài phóng sự của ông, trong đó yếu tố
tiểu thuyết là nhân tố quan trọng. Đặc biệt là để thấy được tài năng độc đáo
của Vũ Trọng Phụng đã được khảng định ngay từ khi bắt đầu cầm bút.
Một lí do thực tế khác khiến chúng tôi chọn đề tài này vì Vũ Trọng
Phụng là một tác gia lớn được giảng dạy trong chương trình trung học phổ
thông. Việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp chúng tôi có thêm hiểu biết hơn về
tài năng của Vũ Trọng Phụng cung cấp thêm tư liệu cho việc giảng dạy tác
giả,tác phẩm ở trường phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
Trong thế hệ những người cây bút “tiền chiến” chưa một văn tài nào lại
có một số phận vinh quang và cay đắng như “ông vua phóng sự” Vũ Trọng
Phụng. Không được sống đến tuổi “Tam thập” thời gian cầm bút chưa được
quá mười năm, nhưng đã để lại một di sản văn chương đồ sộ với những kiệt
tác bất hủ. Vậy mà ngay từ lúc sinh thời và suốt gần nửa thế kỉ, sau khi phải
vĩnh biệt cuộc đời họ Vũ và văn nghiệp của ông đã phải trải qua nhiều cơn vật
vã nổi chìm trên dòng sông dư luận, có giai đoạn còn bị loại bỏ khỏi mạch
văn của dân tộc. Nhưng những năm gần đây, dưới ánh sáng của thời kì đổi
mới, sự nghiệp văn chương của Vũ Trọng Phụng đã dần từng bước được đánh
giá lại một các khách quan hơn.
Phóng sự là thành tựu, là một bộ phận hợp thành quan trọng trong trước
tác của ông, nên lịch sử vấn đề phóng sự không tách rời vấn đề Vũ Trọng
Phụng trong tiến trình nghiên cứu, phê bình văn học. Nhưng mảng sáng tác
này lại có một sinh mệnh riêng, sự kiện riêng, nên lịch sử vấn đề có nhiều đặc
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
2
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
điểm riêng. Theo dòng chảy không ngừng của lịch sử dân tộc vấn đề phóng sự
của Vũ Trọng Phụng đã được các nhà nghiên cứu tìm hiểu. Đặc biệt trong đó
rất nhiều các công trình có giá trị đã đi sâu vào phóng sự Cạm bẫy người và
thấy được ở đó những nét đặc sắc nghệ thuật, mà trong đó yếu tố tiểu thuyết
là yếu tố quan trọng.
Bài viết sớm nhất là của Lê Tràng Kiều trên tờ Văn học tạp chí số 4 ra
ngày 8/6/1935 với tiêu đề: Một trong những nhà văn hiện thực mở đầu cho
nghề phóng sự ở nước ta. Ở bài viết này người viết đã đánh giá rất cao phóng
sự đầu tay Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng “Cạm bẫy người vừa ra đời
đã được ngay báo chí khắp ba miền cực lực hoan nghênh. Nó làm cho tài Vũ
Trọng Phụng không còn ai ngờ được nữa”.
Trong bài Địa vị Vũ Trọng Phụng trong văn học Việt Nam cận đại đăng
trên báo Tao Đàn - Số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng tháng 12/1939, Trương
Tửu đã nhận xét về bốn thiên phóng sự nổi tiếng của họ Vũ: Cạm bẫy người,
Cơm thầy cơm cô, Lục xì, Kĩ nghệ lấy Tây “là những kiệt tác... nền móng
đầu tiên của nghệ thuật phóng sự trong văn giới Việt Nam hiện đại”.
Năm 1986 công cuộc đổi mới đã tại ra một bước tiến mới đối với việc
tiếp nhận di sản văn học quá khứ. Vấn đề Vũ Trọng Phụng và phóng sự của
ông được nhìn nhận trên quan điểm lịch sử cụ thể và có tính khoa học khách
quan hơn. Trước hết phải kể đến sự đặt lại vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng
của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh. Theo ông: “Vũ Trọng Phụng thành công
hơn cả ở thể tài phóng sự với Cạm bẫy người (1933) và Kĩ nghệ lấy Tây
(1934). Hai tác phẩm này đã phát huy ở ông một sở trường quan sát sắc sảo
khả năng hí hoạ mau lẹ, lối hành văn biến hoá hấp dẫn...”. Về đặc điểm phóng
sự của họ Vũ, giáo sư cho rằng “luôn luôn có nhu cầu bộc lộ trực tiếp chủ
quan của mình, vì thế cứ phải xen vào những sự kiện có thực nhiều hình ảnh,
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
3
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
tình tiết tưởng tượng... khiến cho phóng sự của ông bao giờ cũng gần với bút
pháp tiểu thuyết”.
Trong Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, phó giáo sư Trần Hữu Tá đã nhấn
mạnh nhiều nội dung và giá trị đặc sắc của hai thiên phóng sự Cạm bẫy người
và Cơm thầy cơm cô. Ông còn đề cập đến tiêu đề tiểu thuyết phóng sự của tác
phẩm Cạm bẫy người và cho rằng: “khuynh hướng tiểu thuyết hoá ở một mức
độ nào đấy...là một đặc điểm của ngòi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng”.
Luận án phó tiến sĩ Đóng góp của Vũ Trọng Phụng đối với lịch sử văn
học Việt Nam hiện đại trong lĩnh vực phóng sự và tiểu thuyết của Trần Đăng
Thao, Đại học sư phạm Hà Nội tháng 10 năm 1996 cũng đã đề cập đến xu
hướng tiểu thuyết hoá ở phóng sự của Vũ Trọng Phụng trong đó có phóng sự
Cạm bẫy người ở hai khía cạnh: Kết cấu chặt chẽ linh hoạt, những nhân vật
có tính điển hình.
Đến những năm gần đây ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu tiếp
cận gần hơn, đi sâu hơn về thể loại phóng sự của Vũ Trọng Phụng như trong
bài viết Phóng sự của Vũ Trọng Phụng tạp chí Văn học số 1/2000 của giáo sư
Hà Minh Đức. Hay trên tạp chí Văn học số 11/2002, nhà ngiên cứu Vũ Tuấn
Anh Về tính hiện đại trong văn chương Vũ Trọng Phụng. Vũ Tuấn Anh đã chỉ
ra phóng sự của Vũ Trong Phụng không chỉ có giá trị trên phương diện khảo
cứu mà còn có trên phương diện văn chương nghệ thuật. Ở mặt khảo cứu
phóng sự vừa mang tính điều tra xã hội học vừa có sự thể hiện tâm tư tình
cảm của người viết. Ở mặt văn chương nghệ thuật Vũ Trọng Phụng là người
có công đầu trong việc biến phóng sự từ thể loại báo chí thực sự trở thành thể
loại văn học với không gian nghệ thuật, với tính cách và số phận các nhân vật
với các sự kiện được xâu chuỗi hợp lí chặt chẽ.
Trên đây là những nét cơ bản về lịch sử vấn đề phóng sự Vũ Trọng
Phụng. Như một vấn đề thời sự kéo dài lịch sử vấn đề về phóng sự Vũ Trọng
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
4
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Phụng đã diễn ra khá sôi động và có lúc căng thẳng phức tạp. Tuy nhiên việc
đi sâu tìm hiểu yếu tố tiểu thuyết trong từng phóng sự cụ thể lại không được
các nhà ngiên cứu quan tâm một cách toàn diện. Trên cơ sở gợi ý có tính chất
định hướng của người đi trước, tác giả khoá luận mong muốn ở mức độ nhất
định tập trung tìm hiểu về “Yếu tố tiểu thuyết trong phóng sự Cạm bẫy người
của Vũ Trong Phụng” để có thể hiểu biết sâu sắc hơn toàn diện hơn về phóng
sự của ông góp phần làm cho bức chân dung “Ông vua phóng sự” sẽ được
dựng lên một cách đầy đặn hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm tìm hiểu yếu tố tiểu thuyết trong phóng sự của Vũ Trọng
Phụng thông qua phóng sự đầu tay của ông Cạm bẫy người. Từ đó khẳng
định nét đặc sắc, sức cuốn hút kì lạ của thể tài phóng sự của họ Vũ đối với
độc giả trong đó yếu tố tiểu thuyết là nhân tố quan trọng nhất.
Góp phần nâng cao chất lượng trong việc giảng dạy về tác giả và tác
phẩm văn học.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Vũ Trọng Phụng với thể loại phóng sự đã để lại tiếng vang trong nền
văn học nước nhà. Tuy nhiên trong đề tài này chúng tôi không đặt nhiệm vụ
nghiên cứu toàn bộ sự nghiêp văn học của ông mà chỉ tập trung vào phóng sự
Cạm bẫy người.
Đề tài làm rõ yếu tố tiểu thuyết mà tác giả sử dụng khi xây dựng phóng
sự Cam bẫy người.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Phóng sự Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng
Tập trung vào yếu tố tiểu thuyết trong phóng sự Cạm bẫy người.
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
5
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Khi cần thiết chúng tôi liên hệ so sánh với các phóng sự cùng thời như:
Việc làng, Tập án đình (Ngô Tất Tố), Tôi kéo xe (Tam Lang), Hà Nội lầm
than (Trọng Lang)...
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp so sánh đối chiếu
Phương pháp hệ thống
7. Đóng góp của khoá luận
Ý nghĩa khoa học: Chỉ ra yếu tố tiểu thuyết trong phóng sự Cạm bẫy
người của Vũ Trong Phụng. Qua đó cho thấy tài năng độc đáo của ông ở thể
tài phóng sự.
Ý nghĩa thực tiễn: Giúp vận dụng tốt hơn vào viềc giảng dạy ở trường
phổ thông.
8. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 2
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Yếu tố tiểu thuyết trong phóng sự Cạm bẫy người của Vũ
Trọng Phụng.
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
6
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX
Xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX là một thời kì lịch sử đầy
biến động với nhiều mâu thuẫn phức tạp. Trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản:
mâu thuẫn giũa dân tộc ta với đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa quần
chúng nhân dân mà chủ yếu là nông dân với địa chủ. Điều đó đã tạo nên một
xã hội với đầy đủ tính chất của một nước thực dân nửa phong kiến.
Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, chúng đã bắt đầu hàng
loạt những chính sách cai trị. Nhưng đến thời kì này thì những chính sách đó
ngày càng được đẩy mạnh hơn tàn bạo hơn và gây ra nhiều hậu quả hơn. Thực
dân Pháp đã thực hiện chính sách đàn áp về chính trị, bóc lột về kinh tế và
đầu độc về văn hoá với âm mưu thâm hiểm nhằm biến nước ta trở thành thuộc
địa cung cấp tài nguyên thiên nhiên và trở thành nơi tiêu thụ hàng hoá cho
chúng.
Nước ta vốn là nước nông nghiệp lạc hậu trải qua sự kìm kẹp thống trị
của phong kiến hàng nghìn năm. Chính vì vậy nước ta vốn nghèo nay lại càng
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
7
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
nghèo hơn trước sự bóc lột dã man của thực dân Pháp. Do những hậu quả
nặng nề của hai cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và 1935-1937 cùng với
hậu quả của cuộc chiến tranh đế quốc 1914-1918 và đại chiến thế giới lần thứ
2 1939-1945S đã khiến cho thực dân Pháp ra sức bòn rút các nước thuộc địa
trong đó có Việt Nam. Khiến cho nước ta ngày càng xơ xác tiêu điều. Ở nông
thôn dân cày bị đày đoạ bằng đủ thứ tai trời ách đất: hạn hán, lũ lụt, tô cao tức
nặng, thực dân thì vơ vét lúa gạo, địa chủ thì thi nhau cướp ruộng đất, quan lại
cường hào ức hiếp, cảnh bán vợ đợ con diễn ra khắp nơi. Ở thành thị thì công
nhân viên chức bị sa thải, tiểu thương tiểu chủ thì bị phá sản hoà cùng đội
quân ở nông thôn sống không nổi ở quê lên thành thị tạo nên một đội quân
thất nghiệp sống cù bơ, cù bất. Những người có việc làm thì vô cùng khổ sở
vì lương hạ, giá sinh hoạt tăng cao, giờ làm tăng, lại bị đe doạ bởi đủ thứ hình
phạt. Tình hình kinh tế vô cùng khó khăn ẩn chứa trong đó nhiều mâu thuẫn.
Bên cạnh việc bóc lột về kinh tế thực dân Pháp còn ra sức đàn áp về
chính trị. Chúng ra sức dìm những cuộc khởi nghĩa của nước ta trong biển
máu. Các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931);
Khởi nghĩa Nam Kì đều bị thực dân Pháp đàn áp. Đặc biệt khi Đảng cộng sản
Đông Dương ra đời thì mâu thuẫn dân tộc ta với đế quốc càng lên cao. Thực
dân Pháp đã dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt, âm mưu thâm hiểm nhằm tiêu diệt
các tư tưởng chính trị tiến bộ, những hoạt động tiến bộ của người yêu nước.
Thực dân Pháp quyết tâm muốn biến nước ta thành thuộc địa, chính vì thế về
chính trị chúng ngày càng gắt gao hơn trong việc kiểm soát các hoạt động yêu
nước. Điều đó cho thấy xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX là thời kì
đầy biến động với nhiều mâu thuẫn.
Đàn áp về chính trị, chuyên chế về kinh tế thì thực dân Pháp mới chỉ
thực hiện được “phần ngọn” của chính sách cai trị của mình. Muốn biến nước
ta thành thuộc địa lâu dài thực dân Pháp đã đưa ra âm mưu thâm hiểm đó là
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
8
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
chính sách ngu dân, đầu độc về văn hoá. Chúng đã ra lệnh cấm tàng trữ lưu
hành sách báo tiến bộ, đặc biệt là sách báo Cộng sản. Chúng kiểm duyệt tất cả
những sách báo đưa vào Việt Nam, cấm xuất bản những bài viết có tư tưởng
mới. Chúng mở nhà tù nhiều hơn trường học, nạn thất học diễn ra khắp nơi
khiến cho 90% dân số nước ta mù chữ. Lực lượng thanh niên sinh viên có cơ
hội được đi học thì cũng bị thực dân Pháp nhồi nhét đầu độc bằng những tư
tưởng siêu hình, chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa ngụy biện, chủ nghĩa hoài
nghi. Các phong trào trẻ trung Âu hoá, các tệ nạn ma tuý mại dâm, cờ bạc…
diễn ra khắp nơi. Tất cả những việc đó khiến cho một bộ phận lớp trẻ mải mê
ăn chơi trác tán mà quên đi nhiệm vụ với đất nước.
Với những chính sách đàn áp về chính trị, bóc lột về kinh tế, đầu độc về
văn hoá thực dân Pháp đã thực hiện một âm mưu đen tối là đẩy nước ta vào
con đường lạc hậu và bần cùng hoá,và sẽ trở thành thuộc địa lâu dài của
chúng.
Trước cơn sóng gió của thời đại, bất kì một lực lượng hoặc thế hệ nào
cũng bị ảnh hưởng không nhỏ, trong đó nhà văn nhà báo là lực lượng bị ảnh
hưởng và chi phối lớn nhất. Bởi thời đại luôn là yếu tố ảnh hưởng tới việc
hình thành nền thế giới quan của mỗi nhà văn. Văn học lúc này chia thành hai
khuynh hướng lớn: Đó là phong trào lãng mạn với những tên tuổi Nhật Linh,
Khải Hưng, Thạch Lam… thứ hai là phong trào hiện thực phê phán với Ngô
Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, … đặc biệt gắn với tên tuổi của Vũ
Trọng Phụng. Sống trong thời đại đó mỗi nhằ văn cũng đưa ra cho mình
những quan điểm tư tưởng riêng chi phối đến những sáng tác của họ. Mặc dù
cùng trong hoàn cảnh xã hội ấy và sự phân chia thành hai khuynh hướng khác
nhau, tư tưởng khác nhau, nhưng tất cả các tác phẩm đều là những bức tranh
chân thực về xã hội thời kì đó. Khiến cho người đọc có cái nhìn toàn cảnh hơn
về xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Điều đó cho thấy rõ nét sự tác
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
9
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
động của tình hình xã hội đối với hoạt động văn học và ngược lại văn học
cũng có vai trò tích cực trong việc cải tạo xã hội.
1.2. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng
1.2.1. Cuộc đời
Những năm đầu thế kỉ XX với nhiều biến động, đã sản sinh ra biết bao
tài năng văn học như: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam
Cao, Thạch Lam, Nguyễn Tuân… trong số đó Vũ Trọng Phụng đã chứng tỏ
ông là “đứa con trực tiếp của cuộc đời”[12,30]. Vũ Trọng Phụng là một nhà
văn có tên tuổi trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Xung quanh vấn đề về
ông đã có rất nhiều những cuộc tranh luận khá gay gắt khiến cho tên tuổi của
ông có nhiều lúc thăng trầm. Mặc dù vậy Vũ Trọng Phụng vẫn vững vàng như
một cây đại thụ giữa làng văn và được coi là kiện tướng xuất sắc của khuynh
hướng “tả chân” đương thời, “ông vua phóng sự đất Bắc”, “tiểu thuyết gia
trác tuyệt”.
Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20/10/1912(tức ngày 11 tháng 9 năm Nhâm
Tý) trong một gia đình rất nghèo một “thứ nghèo gia truyền” (Ngô Tất Tố),
“cái nghèo kế thế”(Lan Khai).
Cha ông là Vũ Khâm Lân quê gốc ở làng Hảo tức Bần Yên Nhân,
huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên làm thợ điện ở xưởng ôtô Ch.Boillot Hà Nội.
Mẹ ông là bà Phạm Thị Khách là người làng Vẽ phủ Hoài Đức nay thuộc
thành phố Hà Nội, sống bằng nghề may vá thuê.
Khi Vũ Trọng Phụng mới được 7 tuổi người cha qua đời để lại một gia
cảnh rất đơn côi: người mẹ già, người vợ trẻ và đứa con thơ dại. Tài sản gia
đình hầu như không có gì chỉ trông cậy vào đôi bàn tay chăm chỉ của bà Phạm
Thị Khánh. Nhưng dù hoàn cảnh như vậy, Vũ Trọng Phụng vẫn được lớn lên
trong tình yêu thương ấm áp của bà và mẹ. Điều này đã để lại trong tâm hồn
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
10
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Vũ Trọng Phụng một niềm tin tưởng bất diệt vào sự cao quý và tốt đẹp của
con người.
Năm 1921, khi lên 9 tuổi Vũ Trọng Phụng đã được vào học Pháp văn ở
trường Hàng Vôi (nay là trường Nguyễn Du) sau học ở trường Hàng Kèn (nay
là trường Quang Trung) và trường Sinh Từ. Từ nhỏ Vũ Trọng Phụng đã tỏ ra
là người thông minh, có năng khiếu nghệ thuật: đánh đàn Nguyệt rất hay, vẽ
giỏi, thích làm thơ... Tuy nhiên do lớn lên trong một gia đình nghèo lại mồ côi
nên trong tâm hồn non nớt và vô cùng nhạy cảm của ông đã nhận ra sự khác
biệt rất lớn giữa sự nghèo khó của mình đố với đám bạn giàu có. Từ đó đã
gieo vào lòng ông cái mặc cảm về thân phận và hoàn cảnh của mình. Theo
năm tháng cái mặc cảm đó dần lớn lên tạo thành sự phẫn nộ khinh biệt đối với
xã hội đầy bất công ngang trái đã phân biệt con người bằng sức mạnh của
đồng tiền. “Phụng thấy lòng mình sạch sẽ ngây thơ bao nhiêu thì thấy quanh
mình toàn những cái giả dối bẩn thỉu bấy nhiêu, chỗ nào cũng cá lớn nuốt cá
bé, trên lương tâm nào cũng giấu kín một đồng tiền” (Lan Khai)
Năm 1926, khi 15 tuổi Vũ Trọng Phụng đã đỗ bằng tiểu học. Lúc này,
ông chọn thi vào trường Sư phạm sơ cấp nhưng kì thi không có kết quả. Vì
vậy, Vũ Trọng Phụng đã bắt đầu ra ngoài đời bươn trải kiếm sống. Khoảng
tháng 10/1926, Vũ Trọng Phụng đã xin được việc làm thư kí ở nhà hàng
Godand. Nhưng vì mải mê với văn chương mà quên đi nhiệm vụ của một thư
kí, ông bị sa thải.
Trong khoảng thời gian 1930 -1939 Vũ Trọng Phụng đã cộng tác với
nhiều toà báo như: Hà Thành, Ngọ Báo, Nhật Tân, Tiến Hoá, Công Nông
Thương, Tân Thiếu Niên, Hà Nội Báo, Công Dân, Tao Đàn, Tiểu Thuyết Thứ
7… và viết đủ các thể loại: truyện ngắn, truyện dài, phóng sự, tiểu thuyết,
dịch thuật, bình luận, chính trị, trào phúng,…
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
11
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Đầu năm 1938 ông lập gia đình với Vũ Mỵ Nương con một gia đình
buôn bán nghèo ở xã Nhân Mục thôn Giáp Nhất, thuộc phường Nhân Chính Thanh Xuân - Hà Nội và họ đã có một đứa con gái đặt tên là Vũ Mỵ Hằng.
Bình sinh, Vũ Trọng Phụng không như nhiều độc giả hình dung. Ông
vốn là người bình dị, khuôn phép, nề nếp và giàu lòng tự trọng. Trong suốt
cuộc đời mình ông lăn lộn kiếm sống bằng cái nghề viết lách. Chính vì vậy
cái nghèo cứ đeo bám cuộc sống của gia đình ông. Mặc dù ông viết rất nhiều
trong khoảng 10 năm ông đã có gần 20 tác phẩm và nhiều bài báo nhưng
những tác phẩm đó đã không nuôi sống gia đình ông. Do phải làm việc quá
sức lại sống trong cảnh thiếu thốn, căn bệnh lao ngày càng trầm trọng. Ngày
13/10/1939 tại căn nhà số 73 phố Cầu Mới, Ngã Tư Sở nay thuộc Thanh Xuân
- Hà Nội, Vũ Trọng Phụng đã trút hơi thở cuối cùng khi mới 27 tuổi. Ông ra
đi để lại bà nội, mẹ già, vợ trẻ - ba người đàn bà goá và cô con gái vừa đầy
năm.
Cuộc đời 27 năm ngắn ngủi của Vũ Trọng Phụng có thể nói là một
cuộc đời lao động phi thường. Mặc dù cái đói cái nghèo luôn đeo bám, nhưng
bằng tài năng và nghị lực Vũ Trọng Phụng đã để lại cho đời nhiều tác phẩm
xuất sắc. Với tinh thần hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn Vũ Trọng Phụng đã
đem tài năng và tấm lòng của một con người chân chính nhằm vào những
điều xấu xa đánh thẳng vào những nhơ bẩn của một xã hội “chó đểu”, “vô
nghĩa lí” của xã hội thực dân nửa phong kiến.
1.2.2. Sự nghiệp văn học của Vũ Trọng Phụng
Vũ Trọng Phụng có mặt trên đời với 27 năm và góp mặt trong làng văn
chỉ 10 năm nhưng sự nghiệp văn học của ông rất đồ sộ với đa dạng các thể
loại có giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. Bao gồm:
40 truyện ngắn in từ 1930 đến 1939
9 tiểu thuyết in từ 1934 đến 1938
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
12
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
7 phóng sự in từ 1933 đến 1938
6 kịch in từ 1931 đến 1939
2 tác phẩm văn dịch in từ 1936
Theo Vũ Bằng: “Dù không đủ ăn, không đủ mặc, không đủ ở Vũ Trọng
Phụng vẫn âm thầm sống để mà viết” (Cảm nhớ Vũ Trọng Phụng). Quả thực
với một đời văn ngắn ngủi - chưa đầy 10 năm ấy Vũ Trọng Phụng đã để lại
một khối lượng lớn tác phẩm trong đó có nhiều tác phẩm kiệt tác có giá trị với
mọi thời đại. Điều đó đã để lại dấu ấn khó phai mờ trong đời sống văn học
Việt Nam trước Cách Mạng. Tư tưởng và sáng tác của Vũ Trọng Phụng chứa
đầy mâu thuẫn hết sức phức tạp. Nhưng tiếng nói vang dội nhất, khuynh
hướng nổi bật nhất vẫn là tiếng nói tố cáo gay gắt, là khuynh hướng hiện thực
“vị nhân sinh” tiến bộ. Trong suốt cuộc đời văn học Vũ Trọng Phụng đã dựng
nên một bức tranh rộng lớn, chân thực, sinh động về xã hội thực dân nửa
phong kiến mà tác giả gọi đó là xã hội “chó đểu”, “vô nghĩa lí”.Từ những tác
phẩm đầu tay đến những tác phẩm cuối cùng được tìm thấy trong di cảo đều
là tiếng nói lên án bộ mặt gian ác ghê tởm của tầng lớp trưởng giả thành thị
chỉ biết chạy theo đồng tiền và thác loạn, sống một cuộc sống thối nát trụy
lạc, xa hoa. Nhiều tác phẩm của ông là lời nguyền cay độc ném vào mặt cái
trật tự bất công vô lí đó và có tính chiến đấu rõ nét. Đặc biệt các tác phẩm như
Giông tố, Số đỏ, Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây… đã trở thành những tác
phẩm tiêu biểu cho trào lưu hiện thực phê phán trước Cách Mạng, có giá trị
với mọi thời đại.
Vũ Trọng Phụng đã thử sức mình ở rất nhiều thể loại văn học nhưng có
lẽ thành công hơn cả ở hai thể loại phóng sự và tiểu thuyết với nhiều tác phẩm
có giá trị văn học rất lớn.
Với 9 tác phẩm tiêu biểu, Vũ Trọng Phụng đã được Nguyễn Đình Thi
đánh giá là “nhà tiểu thuyết trác tuyệt”.Trong đó có hai tác phẩm được đánh
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
13
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
giá là kiệt tác Giông tố và Số đỏ. Thông qua hai tác phẩm này ta có thể nắm
bắt được một bức tranh hiện thực rộng lớn với đầy đủ giai tầng, thân phận con
người trong xã hội đó. Đó là Xuân Tóc đỏ trong Số đỏ một kẻ “ma cà bông”
“nhặt ban quân vợt” đầu đường xó chợ đã được cả xã hội “chó đểu” tung hô
thành vĩ nhân, anh hùng cứu quốc; đó là những cô gái tân thời như Tuyết, cô
Hoàng Hôn rồi đến những me Tây dâm đãng như Phó Đoan… Hay là Nghị
Hách trong (Giông Tố) từ một tên cai phu nham hiểm trở thành một tay triệu
phú lừng danh, rồi Thị Mịch một cô gái quê hiền lành trở thành một kẻ dâm
đãng loạn luân… Bằng tài năng Vũ Trọng Phụng đã để lại những kiệt tác có
sức phê phán tố cáo xã hội mạnh mẽ, giúp cho ta có cái nhìn phong phú về
cuộc sống xã hội thời kì đó.
Bên cạnh mảng tiểu thuyết, Vũ Trọng Phụng còn được gọi là “ông vua
phóng sự Bắc kì” với nhiều tác phẩm Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây, Lục
xì…Phóng sự đã trở thành thể loại giúp Vũ Trọng Phụng thể hiện tài năng của
mình trong việc khám phá cuộc sống một cách chân thực nhất, nóng hổi và
mang tính thời sự. Đi sâu vào khám phá những mảng màu đen tối nhất của xã
hội: mại dâm, cờ bạc bịp, thế giới của những con sen thằng ở, Vũ Trọng
Phụng đã làm lật tung những xấu xa, ung nhọt của một xã hội lai căng những
năm đầu thế kỉ XX. Đặc biệt ngòi bút phóng sự của ông ít chịu dừng lại ở sự
ghi chép chức năng thông tin điều tra của thể loại, cứ muốn hư cấu thêm để
khái quát hoá “tiểu thuyết hoá”. Do đó phóng sự của ông có sức cuốn hút kì lạ
khiến cho tên tuổi của ông được đánh giá cao ở thể loại này.
Sự nghiệp văn học của Vũ Trọng Phụng trước hết là tiếng nói tố cáo
mãnh liệt đối với chế độ bất công tàn bạo đã vùi dập quyền sống, đầu độc tâm
hồn con người. Và những trang sách sôi sục phẫn uất dù có u ám của ông đã
làm toát lên niềm khao khát cháy bỏng một sự thay đổi xã hội. Tiếng nói ấy
niềm khao khát ấy chắc chắn vẫn được các thế hệ độc giả ngày nay cảm thông
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
14
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
và trân trọng. Về mặt nghệ thuật, với ngòi bút độc đáo đặc biệt sắc sảo của
một tài năng lớn, một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, Vũ Trọng Phụng đã có
những đóng góp quan trọng vào việc đẩy mạnh sự phát triển của văn xuôi
Việt Nam hiện đại. Ông là một trong số những ngưòi mở đầu và là người có
công lớn nhất đưa thể loại phóng sự ở Việt Nam ngày càng phát triển đạt
nhiều thành tựu.
Mặc dù sống cuộc đời ngắn ngủi và trải qua nhiều thăng trầm nhưng
bằng tài năng, nghị lực phi thường và tấm lòng chân chính, Vũ Trọng Phụng
đã để lại cho đời một sự nghiệp văn học vô cùng xuất sắc về nội dung cũng
như nghệ thuật. Ông đã khẳng định cho mình một vị trí vẻ vang hàng đầu
trong nền văn xuôi Việt Nam trước Cách Mạng.
1.3. Khái niệm về thể loại phóng sự và vai trò của thể loại phóng sự
trong sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng
1.3.1. Khái niệm về thể loại phóng sự
Phóng sự có nguồn gốc sâu xa từ một loại hình văn học truyền thống có
tính nguyên hợp văn - sử, gồm các thể ghi, chép, kí và kí sự… Từ khi ra đời
đến nay đã có rất nhiều cách lí giải khác nhau về khái niệm cũng như sự phân
loại phóng sự.
Tác giả Nguyễn Xuân Nam cho rằng: Phóng sự là thể thuộc loại nhằm
ghi chép cụ thể tình hình một vấn đề, một sự việc nào đó có ý nghĩa thời sự.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đưa ra một khái niệm “Phóng sự
là thể loại văn tư liệu. Nó thường dùng nhiều biện pháp nghiệp vụ báo chí như
điều tra, phỏng vấn, đối thoại, ghi chép tại chỗ… Nhằm cung cấp những
thông tin tư liệu chính xác và nóng hổi tính thời sự chung quanh những vụ
việc có ý nghĩa xã hội nào đó đang được công luận chú ý tìm hiểu và mong
muốn giải quyết”.
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
15
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên định nghĩa:
Phóng sự: Một thể loại thuộc hình kí. Phóng sự ghi chép kịp thời những
vụ việc nhằm làm sáng tỏ trước công luận một sự kiện, một vấn đề cố liên
quan đến hành động và số phận của một hoặc nhiều người và có ý nghĩa thời
cuộc thực sự đối với một địa phương hay toàn xã hội.
Dù được lí giải như thế nào thì phóng sự luôn là thể loại đặc biệt, có
sức lôi cuốn, thu hút sự chú ý của độc giả chẳng khác gì thơ, truyện ngắn, tiểu
thuyết, kịch,… Bởi ở bất kì một phóng sự nào cũng đều cung cấp cho độc giả
nhiều vấn đề mang tính thời sự và chân thực. Đặc biệt với việc sử dụng một
số phương tiện biểu đạt của văn học như các biện pháp tu từ, ngôn ngữ giàu
hình ảnh, hướng vào thế giới bên trong của nhân vật… khiến cho phóng sự
vốn từ thể loại báo chí có thể trở thành văn học. Một số tác phẩm thuộc loại
này thường được chấp nhận như một số tác phẩm văn học có giá trị.
1.3.2. Vai trò của thể loại phóng sự trong sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng
Phụng
Thể loại phóng sự được bắt đầu phát triển ở Việt Nam từ những năm 30
của thế kỉ XX với những tên tuổi lớn như Tam Lang, Trọng Lang, Vũ Bằng,
Ngô Tất Tố… Các bài phóng sự thường đi sâu vào những bi kịch của xã hội
Việt Nam, phản ánh nhưng cảnh sống cơ cực của quần chúng nhân dân,
những cảnh sa đoạ của hàng vạn thanh niên đang lao đầu vào những cạm bẫy
của bọn thực dân nửa phong kiến. Với mục đích nhằm tố cáo những xấu xa
của xã hội các bài phóng sự liên tiếp ra đời đánh dấu một bước tiến mới của
thể loại phóng sự của văn học Việt Nam. Đặc biệt khi nhắc đến thể loại này ta
không thể không nhắc tới tên tuổi của Vũ Trọng Phụng.
Vũ Trọng Phụng bắt đầu sự nghiệp của mình bằng truyện ngắn, sau đó
là kịch, tác phẩm đầu tay của ông được đăng báo từ năm 1930. Khi mới “trình
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
16
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
làng”, Vũ Trong Phụng thể hiện mình là một tài năng văn xuôi độc đáo với
ngòi bút sắc lẹm cái nhìn tinh tế và khuynh hướng “tả chân” rõ rệt. Trong sự
nghiệp của mình ông đặc biệt thành công ở hai thể loại phóng sự và tiểu
thuyết. Tuy nhiên tài năng tiểu thuyết của ông chỉ được “phát lộ” ở thời kì
sau. Song phóng sự là thể loại đặc biệt thành công ở thời kì đầu khi ông mới
cầm bút. Khi phóng sự đầu tiên ra đời Cạm bẫy người(1933) và tiếp sau đó là
Kĩ nghệ lấy Tây, Lục xì… Vũ Trọng Phụng đã được rất nhiều người ca ngợi
và đặt biệt danh là “Ông vua phóng sự đất Bắc”. Chỉ bằng biệt danh này đã
giúp chúng ta đủ hiểu vai trò của thể loại phóng sự trong sự nghiệp sáng tác
của ông.
Phóng sự đã giúp Vũ Trọng Phụng ghi dấu ấn của mình trên văn đàn từ
khi mới bước chân vào nghiệp văn, nó đã trở thành thể loại văn phù hợp với
sở trường của ông cho bút lực của ông có thể thoả sức tung hoành. Nhờ vậy
này mà Vũ Trọng Phụng đã vạch trần được những xấu xa bỉ ổi của xã hội
thực dân nửa phong kiến. Ngòi bút của ông không chỉ phản ánh những sự kiện
những hiện tượng đơn lẻ trên bề mặt mà thực sự đào sâu vào hiện thực phơi
bày những mặt trái thối tha, ghê tởm của cái ung nhọt xã hội thành thị những
năm 30, một xã hội “Toàn là quân khốn nạn, quan tham lại nhũng, đàn bà hư
hỏng, đàn ông dâm bôn, một tụi văn sĩ đầu cơ xảo quyệt, mà cái xa hoa chơi
bời của bọn nhà giàu thì thật là câu chửi rủa vào cái xã hội dân quê thợ
thuyền, bị lầm than, bóc lột”. Ông đã xác lập được chỗ đứng chắc chắn trong
làng văn chiếm được cảm tình của đông đảo bạn đọc. Một cây bút đương thời
đã không ngần ngại xem ông là “nhà văn tả thực mở đầu cho nghề phóng sự
nước ta” (Lê Tràng Kiều). Nhà văn Phùng Tất Đắc khen ngợi Vũ Trọng
Phụng đã có “quá trình vạch phương hướng cho văn nghệ… góp được tài liệu
cho đời sau khảo sát về buổi này”.
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
17
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, bằng nỗ lực không ngừng và
lòng khát khao lập lại trật tự xã hội Vũ Trọng Phụng đã góp một phần sức lực
của mình chỉ ra những vấn đề lớn lao của thời đại. Qua những phóng sự của
ông người đọc như được chứng kiến bức tranh xã hội Việt Nam những năm
30 với những gam mầu khác nhau. Chẳng thế mà ngay khi tài năng của ông
được phát lộ đã có rất nhiều ý kiến đánh giá rất cao tài năng của ông. Tam
Lang- một nhà báo nổi tiếng thời kì bấy giờ cũng đã nhận xét “Vũ Trọng
Phụng viết sau tôi mà sắc bén hơn tôi”(Vài kỉ niệm về Vũ Trọng Phụng). Lê
Văn Siêu lại nhận định Vũ Trọng Phụng khác Tam Lang Và Trọng Lang ở
“cái duyên kể chuyện hiếm có” ở “ngòi bút chanh chua đáo để”. Còn Lê
Tràng Kiều lại có cái nhìn sâu sắc hơn về phóng sự của Vũ Trọng Phụng:
“May sao chẳng bao lâu thì tôi thấy tên ông kí dưới thiên phóng sự Cạm bẫy
người thiên phóng sự về bọn cờ bạc bịp. Cạm bẫy người là thiên phóng sự
đầu tiên ở nước ta đã có giá trị in thành sách. Nó cũng là thiên phóng sự đầu
tay của Thiên Hư. Nhưng “Bước đầu đã là một bước vẻ vang” Cạm bẫy
người vừa ra đời đã được báo chí, các nhà phê bình cực lực hoan nghênh. Nó
làm cho tài năng của Vũ Trọng Phụng không còn ai ngờ được nữa [12,316].
Như vậy, với thể loại phóng sự, Vũ Trọng Phụng đã khẳng định mình một tên tuổi vững chắc trên văn đàn. Nhắc đến Vũ Trọng Phụng không thể
không nhắc đến thể loại phóng sự và ngược lại nhắc đến thể loại phóng sự thì
cũng không thể không nhắc đến tài năng của “ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng. Ông đã “giữ riêng một ngọn cờ, chiếm riêng một ghế
ngồi”[12,30] trong lịch sử văn học dân tộc.
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
18
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
CHƯƠNG 2: YẾU TỐ TIỂU THUYẾT TRONG PHÓNG SỰ
CẠM BẪY NGƯỜI CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Phóng sự Cạm bẫy người sáng tác năm 1933 trên báo Nhật Tân là thiên
phóng sự đầu tay của Vũ Trọng Phụng. Và cũng từ đây tên tuổi của Vũ Trọng
Phụng trên văn đàn gắn với biệt danh “Ông vua phóng sự đất Bắc”. Nhập
cuộc trong vai nhà phóng sự ngòi bút của Vũ Trọng Phụng đã thực sự tung
hoành xông xáo vào tận trung tâm xào huyệt của những vấn đề nóng, bức xúc
nhất của thời cuộc, hướng người đọc tiếp cận trực diện, đối mặt biết bao thảm
cảnh bi hài của một nhân loại đang ngụp lặn dưới vũng bùn xã hội nhơ nhớp
và tuyệt vọng. Thông qua những số phận những cuộc đời bi thảm bằng xương
thịt ấy phóng sự của Vũ Trọng Phụng có tính điển hình cao độ nên đã khái
quát được nhiều vấn đề lớn, những tệ nạn có tầm quốc nạn. Trong đó nạn cờ
bạc bịp là một trong những vấn đề điển hình. Để đi sâu vào vấn nạn này Vũ
Trọng Phụng đã không những sử dụng ngòi bút sắc lẹm, mang tính thời sự
cập nhật sâu sắc mà còn sử dụng các cách xây dựng tác phẩm theo xu hướng
tiểu thuyết hoá. Chính nét đặc sắc này của Vũ Trọng Phụng trong thế tài
phóng sự khiến cho nhiều tác phẩm phóng sự của ông có sức cuốn hút kì lạ.
Chẳng thế mà Vũ Trọng Phụng đã đặt tên thể loại cho phóng sự đầu tay của
mình là: “Phóng sự tiểu thuyết về nghề cờ gian bạc lận”. Vậy những yếu tố
nào đã tạo nên tính tiểu thuyêt cho Cạm bẫy người. Để tìm hiểu vấn đề này
chúng tôi đã đi xem xét ở một số khía cạnh sau.
2.1. Đặt vấn đề, tiêu đề và cấu trúc
Phần lớn các nhà phóng sự đương thời chọn cho các phóng sự lối kết
cấu chung quanh một chủ đề thì Vũ Trọng Phụng ngoài yêu cầu thống nhất
chủ đề còn tạo ra độ kết dính các sự kiện, các tư liệu, các mảng đời chung
quanh một cốt truyện và một hệ thống nhân vật thống nhất. Các nhân vật
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
19
K32E – Ng÷ v¨n
Trêng §¹i häc S ph¹m Hµ Néi 2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng sống và hoạt động xuyên suốt theo tác
phẩm, cùng phối hợp hành động, gắn bó với nhau cùng tồn tại và vận động
trong một không gian nghệ thuật chung của một chỉnh thể, quy định lẫn nhau
tác động lẫn nhau, qui định nhau cả trên hành vi, cử chỉ và cả phương diện
tâm lý và tư tưởng.
Các phóng sự của Vũ Trọng Phụng đều có đề tài “nóng” đặt ra những
vấn đề có tính bức bách, thực sự là những tệ nạn, những căn bệnh kinh niên
nhức nhối, có ảnh hưởng lớn đến quốc gia giống nòi: Nạn mại dâm, nạn cờ
bạc, tệ tham nhũng… Phóng sự của ông đều có cấu trúc cốt truyện chặt chẽ,
có độ co giãn linh hoạt, ông không xây dựng tác phẩm theo lối phi cốt truyện.
Hệ thống nhân vật phần lớn đi suốt tác phẩm: nhiều tác phẩm có lối kết cấu
độc đáo: có thể gọi là phóng sự trong phóng sự. Mỗi chương đoạn đều có sự
liên kết, rằng buộc chặt chẽ với nhau, chịu sự quy định và chi phối của một
cốt truyện thống nhất. Các vấn đề nêu ra liên thông, hợp lý, có sự thống nhất
trong một chỉnh thể vì thế có điều kiện bộc lộ rõ ràng, sâu sắc nội dung và tư
tưởng chủ đề. Soi chiếu vào Cạm bẫy người ta có thể dễ dàng nhận thấy Cạm
bẫy người có một kết cấu vô cùng hợp lý, chặt chẽ, linh hoạt giống như một
tác phẩm tiểu thuyết.
2.1.1. Cách đặt vấn đề
Có thể nói cùng với Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng là một trong hai cây
bút bén duyên lâu bền nhất với thể tài phóng sự. Chính bằng tài năng và sức
lao động nghệ thuật phi thường của mình Vũ Trọng Phụng đã thu được nhiều
thành tựu rực rỡ, trở thành nhà phóng sự hàng đầu Việt Nam.
Trong các phóng sự của ông mảng đề tài thành thị chiếm một tỷ trọng
áp đảo. Điều đó vừa thể hiện sở trường và ưu thế của nhà văn vừa phản ánh
đúng hiện thực khách quan của xã hội thành thị. đặc biệt thành thị phương
Đông trong buổi giao thời của chế độ thực dân phong kiến là nơi tích tụ gần
NguyÔn ThÞ Thu H»ng
20
K32E – Ng÷ v¨n
- Xem thêm -