Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bài tập tình huống môn luật hành chính việt nam (bài tập nhóm số 2 9 điểm) đ...

Tài liệu Bài tập tình huống môn luật hành chính việt nam (bài tập nhóm số 2 9 điểm) đại học luật hà nội.

.DOC
13
7141
146

Mô tả:

ĐỀ BÀI Bài 9: Ngày 10/8/2012, trong khi thi hành nhiệm vụ, chiến sĩ cảnh sát giao thông đã phát hiện Nguyễn Văn H, 17 tuổi điều khiển xe Dream vô ý đi vào đường cấm. Hỏi: 1. Hãy xác định trường hợp H không phải chịu trách nhiệm hành chính, nêu căn cứ pháp lí? 2. Trong trường hợp hành vi của H cấu thành vi phạm hành chính. Hãy phân tích các dấu hiệu trong cấu thành vi phạm hành chính của H và nêu các căn cứ pháp lí để truy cứu trách nhiệm hành chính đối với H? 3. Chiến sĩ cảnh sát đã phát hiện vi phạm hành chính của H phải thực hiện những công việc gì để xử lí hành vi vi phạm đó, nêu căn cứ pháp lí? 4. Xác định người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H, nêu căn cứ pháp lí? 5. Trong trường hợp vi phạm của H, không có tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hành chính, thì người có thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính đối với H như thế nào, phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính nào đối với H, nêu căn cứ pháp lí? 1 BÀI LÀM 1. Hãy xác định trường hợp H không phải chịu trách nhiệm hành chính, nêu căn cứ pháp lí? Trước hết, trách nhiệm hành chính là hậu quả pháp lí bất lợi mà Nhà nước buộc các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính phải gánh chịu. Là một loại trách nhiệm pháp lí, trách nhiệm hành chính được đặt ra đối với những cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính. Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính. Việc xử phạt hành chính là việc truy cứu trách nhiệm hành chính đối với chủ thể vi phạm hành chính. Tuy nhiên có những trường hợp nhất định chủ thể vi phạm hành chính không bị xử phạt vi phạm hành chính, tức là vấn đề trách nhiệm hành chính không đặt ra đối với họ. Theo tinh thần của Điều 3 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính sửa đổi bổ sung năm 2008 (sau đây gọi tắt là: Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính – PLXLVPHC), 2 thì một trong những nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính đó là: “Không xử phạt vi phạm hành chính trong các trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình”. Theo đó, những hành vi vi phạm hành chính trong các trường hợp trên sẽ không bị xử phạt vi phạm hành chính. Xét trong tình huống của đề bài, H đã có hai hành vi vi phạm hành chính: Một là, hành vi điều khiển xe Dream khi H mới chỉ 17 tuổi – hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người điều khiển xe cơ giới (điểm a khoản 2 Điều 24 Nghị định số 34/2010/NĐ-CP của Chính phủ): H chưa đủ độ tuổi luật định mà điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 50 cm 3 trở lên vì xe Dream là xe mô tô có dung tích xi lanh 97 cm3 (có một số dòng xe Dream khác thường trên 100 cm3). Hai là, hành vi điều khiển xe Dream đi vào đường cấm – hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ của người điều khiển xe mô tô (điểm đ khoản 3 Điều 9 Nghị định số 34/2010/NĐ-CP của Chính phủ). Để H không phải chịu trách nhiệm hành chính về hai hành vi vi phạm hành chính của mình thì ta cần xét xem trường hợp của H có thuộc một trong các trường hợp: tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Cụ thể như sau: Thứ nhất, xét nếu trường hợp của H là trường hợp thuộc tình thế cấp thiết. Khoản 1 Điều 4 Nghị định 128/2008/NĐ-CP quy định: “Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa”. Ví dụ như H là một học sinh lớp 12 đang trên đường đi học về gặp một phụ nữ mang thai bị ngã xe tình trạng rất nghiệm trọng tên A. Lúc đó đường lại vắng không có ai khác trợ giúp nên H đã dùng xe máy của chị A đưa chị đến bệnh viện. Do vội đưa chị A đến bệnh viện nên H đã không nhìn thấy biển báo đường cấm nên 3 đã vô ý đi vào đường đó và bị cảnh sát giao thông bắt. Trong trường hợp này, H sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hành chính. Thứ hai, xét nếu trường hợp của H là trường hợp thuộc phòng vệ chính đáng. Khoản 2 Điều 4 Nghị định 128/2008/NĐ-CP quy định: “Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên”. Trong tình huống của đề bài, rõ ràng có H hai hành vi vi phạm hành chính là điều khiển xe Dream khi mới 17 tuổi và vô ý đi vào đường cấm thì trong mọi tình huống đều không thể hiện tính chất “chống trả” như điều luật này quy định, vì không thể có hành vi phòng vệ chính đáng nào bằng cách điều khiển xe mô tô. Vì vậy, không xem xét đến việc hành vi của H thuộc trường hợp phòng vệ chính đáng. Thứ ba, xét nếu trường hợp của H là trường hợp thuộc sự kiện bất ngờ. Khoản 3 Điều 4 Nghị định 128/2008/NĐ-CP quy định: “Người thực hiện hành vi do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó”. H thực hiện hai hành vi vi phạm hành chính như trên, thứ nhất, là điều khiển xe Dream, không thể có một sự kiện bất ngờ nào buộc H phải điều khiển xe Dream vì H hoàn toàn chủ động được việc điều khiển xe của mình và biết được hành vi này là trái pháp luật. Nếu xét hành vi vi phạm thứ hai, là vô ý đi vào đường cấm thì sẽ có trường hợp thuộc sự kiện bất ngờ, ví dụ như H muốn tránh một chiếc xe ô tô mất lái lao sang làn đường mình đang đi, khiến H phải bẻ lái tránh va chạm. Kết quả là H lao vào đoạn đường cấm và đi được một đoạn định quay đầu xe thì bị cảnh sát giông thông phát hiện. Tuy nhiên, trong trường hợp này H chỉ được miễn trách nhiệm hành chính với hành vi vô ý đi vào đường cấm, còn với hành vi điều khiển xe Dream khi mới 17 tuổi thì vẫn phải chịu trách nhiệm hành chính. Vì vậy, không xem xét đến việc hành vi của H thuộc trường hợp sự kiện bất ngờ. Thứ tư, xét nếu trường hợp của H là trường hợp thuộc vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. 4 Với các bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì đương nhiên H không thể điều khiển được xe Dream và càng không thể vô ý đi đường cấm, bởi vì điều khiển xe mô tô (Dream) rất phức tạp mà người mất hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi không thể thực hiện được. Còn nếu H mắc bệnh tâm thần mà mức độ ảnh hưởng của bệnh đến khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi là có giới hạn, thì tất nhiên khi H điều khiển xe Dream lúc đó H phải hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là hành vi trái pháp luật (tức là nếu H có thể điều khiển được xe Dream thì có nghĩa lúc đó H không bị ảnh hưởng bởi bệnh tâm thần đến khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình). Dẫn đến việc H phải chịu trách nhiệm hành chính là đương nhiên. Vì vậy, không xem xét đến việc hành vi của H thuộc trường hợp vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi Tóm lại, trong tình huống của đề bài thì chỉ có duy nhất một trường hợp thuộc tình thế cấp thiết là H mới không phải chịu trách nhiệm hành chính. 2. Trong trường hợp hành vi của H cấu thành vi phạm hành chính. Hãy phân tích các dấu hiệu trong cấu thành vi phạm hành chính của H và nêu các căn cứ pháp lí để truy cứu trách nhiệm hành chính đối với H? Trong tình huống của đề bài, như đã phân tích ở câu 1, H có hai hành vi vi phạm hành chính: Thứ nhất, hành vi điều khiển xe Dream khi H mới chỉ 17 tuổi – hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người điều khiển xe cơ giới. - Về mặt khách quan: Với phương tiện là chiếc xe Dream có dung tích xi lanh là 97 cm3 (có một số dòng xe Dream khác thường trên 100 cm 3), H đã có hành vi điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 50 cm 3 trở lên tham gia giao thông khi chưa đủ độ tuổi quy định nên H đã vi phạm điểm a khoản 2 Điều 24 Nghị định số 34/2010/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ: “ Phạt tiền từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng đối với một 5 trong các hành vi sau đây: a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 50cm3 trở lên;…”. - Về mặt chủ quan: rõ ràng H thực hiện hành vi với lỗi cố ý, vì H hoàn toàn có đầy đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi, biết rõ mình chưa đủ độ tuổi luật định để điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh trên 50cm 3, nhận thức được hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố tình thực hiện. - Chủ thể vi phạm ở đây là H (cá nhân), với độ tuổi 17 và có năng lực trách nhiệm hành chính thì đương nhiên H sẽ phải chịu mọi xử phạt hành chính với mọi vi phạm hành chính mà mình gây ra theo khoản 1 Điều 6 PLXLVPHC. - Khách thể: hành vi vi phạm của H đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lí hành chính nhà nước trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Thứ hai, hành vi điều khiển xe Dream đi vào đường cấm – hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ của người điều khiển xe mô tô. - Về mặt khách quan: trong tình huống của đề bài thì H đã có hành vi điều khiển xe mô tô đi vào đường cấm, cấu thành vi phạm hành chính được quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 9 Nghị định 34/2010NĐ-CP: “Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với người điều khiển xe một trong các hành vi sau đây:…b) Đi vào đường cấm, khu vực cấm, đi ngược chiều của đường một chiều; trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp theo quy định;…”. Phương tiện vi phạm ở đây là chiếc xe Dream. - Về mặt chủ quan: hành vi của H trong trường hợp này là hành vi có lỗi vô ý, H đã vô ý đi vào đường cấm khi điều khiển xe mô tô, có thể H đã vô tình hoặc thiếu thận trọng mà không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội. - Chủ thể: giống như phân tích ở hành vi thứ nhất thì chủ thể vẫn là H. - Khách thể: hành vi vi phạm của H đã xâm phạm đến trật tự quản lí hành chính nhà nước trong lĩnh vực giao thông đường bộ, cụ thể là hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến quy tắc về an toàn giao thông đường bộ. Những căn cứ pháp lí để truy cứu trách nhiệm hành chính với hai hành vi vi phạm hành chính của H như sau: 6 Một là, Luật giao thông đường bộ năm 2008: Điều 58 quy định về điều kiện của người lái xe tham gia giao thông, Điều 60 quy định về tuổi, sức khỏe của người lái xe. Hai là, Nghị định số 34/2010/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Cụ thể hơn là điểm đ khoản 3 Điều 9 quy định về xử phạt hành vi của người điều khiển xe mô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, điểm a khoản 2 Điều 24 quy định về xử phạt các hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người điều khiển xe cơ giới. Ba là, PLXLVPHC: khoản 1 Điều 6 quy định về các đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính, Điều 7 quy định về xử lí người chưa thành niên vi phạm hành chính. 3. Chiến sĩ cảnh sát đã phát hiện vi phạm hành chính của H phải thực hiện những công việc gì để xử lí hành vi vi phạm đó, nêu căn cứ pháp lí? Theo quy định tại Điều 53 PLXLVPHC và cụ thể tại Điều 20 Nghị định 128/2008/NĐ-CP về đình chỉ vi phạm hành chính. Theo đó: “Khi phát hiện vi phạm hành chính, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải ra quyết định đỉnh chỉ ngay hành vi vi phạm. Quyết định đình chỉ có thể là quyết định bằng văn bản hoặc quyết định thể hiện bằng lời nói, còi, tín hiệu hoặc các hình thức khác tùy từng trường hợp vi phạm cụ thể”. Như vậy, chiến sĩ cảnh sát phải yêu cầu H dừng xe ngay sau khi phát hiện thấy H điều khiển xe đi vào đường cấm. Sau đó tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với H. Như đã phân tích ở trên, việc H (17 tuổi) điều khiển xe máy Dream vô ý đi vào đường cấm đã cấu thành hai vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Thứ nhất, H (17 tuổi) điều khiển xe Dream, loại xe có dung tích trên 50 cm 3, hành vi này của H đã vi phạm vào điểm a khoản 2 Điều 24 Nghị định 34/2010/NĐCP: “Phạt tiền từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 50 cm3 trở lên;...”. Theo đó, mức tiền phạt tối đa cho hành vi vi phạm này của H là 80.000 đồng (do trong điều luật đã quy định rõ độ tuổi người vi phạm). 7 Thứ hai, H đã có hành vi điều khiển xe Dream đi vào đường cấm đã vi phạm điểm đ khoản 3 Điều 9 Nghị định 34/2010/NĐ-CP: “Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: ...; đ) Đi vào đường cấm, khu vực cấm; đi ngược chiều của đường một chiều, trừ trường hợp xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ khẩn cấp theo quy định;...”. Mức tiền phạt tối đa đối với người (đã thành niên) vi phạm điểm này là 200.000 đồng. Tuy nhiên, H là người chưa thành niên, cụ thể là H 17 tuổi thì mức phạt tiền đối với H có chút khác biệt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 PLXLVPHC: “Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì có thể bị áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh này. Khi phạt tiền đối với họ thì mức tiền phạt không được quá một phần hai mức phạt đối với người thành niên; trong trường hợp họ không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp thay”. Như vậy, mức tiền phạt tối đa đối với hành vi vi phạm thứ hai này của H là 100.000 đồng. Tổng hợp cả hai mức tiền phạt đối với hai hành vi vi phạm của H tối đa là 180.000 đồng. Căn cứ theo Điều 54 PLXLVPHC và được cụ thể tại điểm b khoản 1 Điều 21 Nghị định 128/2008/NĐ-CP: “Xử phạt theo thủ tục đơn giản quy định tại Điều 54 của Pháp lệnh là trường hợp xử phạt, theo đó người có thẩm quyền xử phạt không lập biên bản về vi phạm hành chính mà ra quyết định xử phạt tại chỗ, trừ trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ. Những trường hợp được tiến hành xử phạt theo thủ tục đơn giản bao gồm: ...; b) Nhiều hành vi vi phạm hành chính do một người thực hiện mà hình thức xử phạt đối với mỗi hành vi này đều là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng”. Thêm nữa, theo khoản 1 Điều 31 PLXLVPHC cũng như quy định tại khoản 1 Điều 49 Nghị định 34/2010/NĐ-CP về thẩm quyền xử phạt của Công an nhân dân: “Chiến sĩ Công an nhân dân đang thi hành công vụ có quyền: a) Phạt cảnh cáo; b) Phạt tiền đến 200.000 đồng”. Như vậy, đối với cả hai hành vi vi phạm của H đều có mức tiền phạt tối đa dưới 200.000 đồng cụ thể là 80.000 đồng đối với hành vi thứ nhất và 100.000 đồng đối với hành vi thứ hai, tổng hợp cả hai thì mức tiền phạt tối đa cũng chỉ đến 8 180.000 đồng cho nên chiến sĩ cảnh sát có quyền ra quyết định xử phạt ngay tại chỗ với cả hai hành vi vi phạm trên. H có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho chiến sĩ cảnh sát, nếu không mang tiền thì cha mẹ hoặc người giám hộ nộp thay, chiến sĩ cảnh sát phải giao biên lai thu tiền phạt cho H. 4. Xác định người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H, nêu căn cứ pháp lí? Theo tinh thần của Điều 42 PLXLVPHC và Điều 15 Nghị định 128/2008/NĐCP về nguyên tắc xác định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, theo đó những người có thẩm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H được cụ thể trong Nghị định 34/2010/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, như sau: Thứ nhất, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Trưởng Công an các cấp (trừ Trưởng Công an cấp xã). Căn cứ khoản 1 Điều 47 Nghị định này về phân định thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ; khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 48 Nghị định này về thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp; khoản 4, khoản 6 Điều 49 về thẩm quyền xử phạt của Công an nhân dân thì họ hoàn toàn có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H, nếu hai hành vi vi phạm của H trong phạm vi quản lí của địa phương họ. Thứ hai, lực lượng Cảnh sát giao thông đường bộ, Công an nhân dân có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H. Trong đó bao gồm: - Chiến sĩ công an nhân dân đang thi hành công vụ (khoản 1 Điều 49 Nghị định này). - Đội trưởng, Trạm trưởng của người quy định tại khoản 1 Điều 49 (khoản 2 Điều 49 Nghị định này). - Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông (khoản 5 Điều 49). - Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông đường bộ và đường sắt (khoản 7 Điều 49). Thứ ba, Cảnh sát trật tự, Cảnh sát phản ứng nhanh, Cảnh sát cơ động, Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng Công an cấp xã trong 9 phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao có liên quan đến trật tự an toàn giao thông đường bộ chỉ có thẩm quyền ra quyết định xử phạt đối với hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ của người điều khiển xe mô tô của H quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 9 Nghị định 34/2010/NĐ-CP. Còn đối với hành vi vi phạm quy định về điều kiện của người điều khiển xe cơ giới của H quy định tại điểm a khoản 2 Điều 24 Nghị định số 34/2010/NĐ-CP thì không thuộc thẩm quyền xử phạt của những người này. 5. Trong trường hợp vi phạm của H, không có tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hành chính, thì người có thẩm quyền xử lí vi phạm hành chính đối với H như thế nào, phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính nào đối với H, nêu căn cứ pháp lí?’ Những căn cứ pháp lí mà người có thẩm quyền cần xét đến căn cứ khi xử lý vi phạm hành chính của H là: quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp mô ̣t người thực hiê ̣n nhiều vi phạm hành chính tại khoản 4 Điều 3, quy định về hình thức phạt tiền đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi tại Điều 7, quy định về các hình thức xử phạt hành chính tại Điều 12, quy định về áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo tại Điều 13 PLXLVPHC; quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi điều khiển xe moto đi vào đường cấm tại điểm đ khoản 3 Điều 9, quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 50 cm 3 trở lên tại điểm a khoản 2 Điều 24, quy định về xác định mức trung bình của khung tiền phạt tại Điều 26 Nghị định số 34/2010/NĐ-CP của Chính phủ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 PLXLVPHC, chỉ có hai hình thức xử phạt chính (hình thức xử phạt luôn phải có trong mọi trường hợp xử phạt vi phạm hành chính) đối với vi phạm hành chính đó là cảnh cáo và phạt tiền, theo quy định tại Điều 13, hình thức xử phạt cảnh cáo chỉ được áp dụng đối với “cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện.” Như vâ ̣y vì đã trên 16 tuổi và không có tình tiết giảm nhẹ nên H không được áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo, do đó H phải chịu hình thức phạt tiền. 10 Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 PLXLVPHC, nếu “một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”, H đã thực hiê ̣n hai hành vi vi phạm hành chính là hành vi điều khiển xe cơ giới khi chưa đủ tuổi theo quy định của pháp luâ ̣t và hành vi điều khiển xe moto đi vào đường cấm nên H bị xử phạt về từng hành vi đó. H bị phạt tiền theo quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 9 Nghị định 34/2010/NĐ-CP, cho hành vi đi vào đường cấm, khung tiền phạt của vi phạm hành chính theo quy định này là từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng; H bị phạt tiền theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 24 Nghị định 34/2010/NĐ-CP cho hành vi điều khiển xe khi chưa đủ tuổi, khung tiền phạt của vi phạm hành chính theo quy định này là 60.000 đồng đến 80.000 đồng. Về cách xác định mức tiền phạt khi không có tình tiết tăng nă ̣ng giảm nhẹ, Điều 26 Nghị định 128/2008/NĐ-CP quy định như sau: “Khi không có tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ thì mức phạt là mức trung bình của khung được xác định bằng cách chia đôi tổng số của mức tối thiểu cộng với mức tối đa”. Tình huống này, H không có tình tiết tăng nă ̣ng và tình tiết giảm nhẹ nên H phải chịu mức phạt là mức trung bình của khung tiền phạt quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 9, điểm 1 khoản 2 Điều 24 Nghị định 34/2010/NĐ-CP, mức trung bình của khung tiền phạt của điểm đ khoản 3 Điều 9 là 150.000 đồng, nhưng H 17 tuổi, chưa thành niên nên theo quy định tại khoản 1 Điều 7 khi phạt tiền không được quá một phần hai so với người đã thành niên, nên H chỉ phải chịu mức phạt là 75.000 đồng. Mức trung bình của khung tiền phạt của điểm a khoản 2 Điều 24 là 70.000 đồng, đây là quy định xử phạt dành riêng cho người chưa thành niên nên H sẽ bị chịu mức phạt là 70.000 đồng về vi phạm này. Như vậy, tổng cộng mức phạt tiền mà H phải chịu là 145.000 đồng. * Biện pháp cưỡng chế hành chính áp dụng đđi với H như sau: - Biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo xử lý vi phạm hành chính dựa trên căn cứ pháp lí là điểm b khoản 1 Điều 43 và Điều 46 PLXLVPHC: tạm giữ phương tiện vi phạm hành chính là chiếc xe máy Dream. Điều 54 Nghị định 34/2010/NĐ-CP quy định về tạm giữ phương tiện, giấy tờ có liên quan đến người điều khiển và phương tiện vi phạm: “1. Để ngăn chặn ngay vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt được phép tạm giữ phương tiện đến 10 (mười) ngày 11 trước khi ra quyết định xử phạt đối với những hành vi vi phạm được quy định tại các điều, khoản, điểm sau đây của Nghị định này:…; h) Vi phạm khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 4, khoản 5, khoản 7, khoản 8 Điều 24;...”. Do H đã có hành vi vi phạm điểm a khoản 2 Điều 24 nên người có thẩm quyền xử phạt được phép tạm giữ phương tiện đến 10 (mười) ngày trước khi ra quyết định xử phạt đối với những hành vi vi phạm. - Biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 66 PLXLVPHC cụ thể tại Điều 55 Nghị định 34/2010/NĐ-CP: “1. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ phải chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 (mười) ngày, kể từ ngày được giao quyết định xử phạt, trừ trường hợp quy định tại Điều 65 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. 2. Quá thời hạn được quy định tại khoản 1 Điều này mà cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt thì bị cưỡng chế thi hành. Cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế phải chịu mọi chi phí về việc tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế. Việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế thực hiện theo quy định tại các Điều 66, 67 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 37/2005/NĐ-CP ngày 18 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ quy định thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính”. Như vậy, nếu trong thời hạn 10 ngày mà H không chịu nộp tiền phạt (hoặc cha mẹ hay người giám hộ không nộp thay cho H trong trường hợp H không có tài sản riêng để nô ̣p phạt) thì sẽ bị cưỡng chế hành chính bằng một số biện pháp, đó là : “…a) Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản ngân hàng; b) Kê biên phần tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá; c) các biện pháp cưỡng chế khác để thực hiện tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính…”. Nguyên tắc và trình tự thực hiện những biện pháp cưỡng chế này được hướng dẫn tại Nghị định 37/2005/NĐ-CP của Chính phủ. 12 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, GIÁO TRÌNH LUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM, Nxb Công an nhân dân, năm 2012. 2. Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp: moj.gov.vn, PHÁP LỆNH Về xử lý vi phạm hành chính, năm 2002. 3. Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp: moj.gov.vn, PHÁP LỆNH Sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, năm 2008. 4. Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: chinhphu.vn, Nghị định số 34/2010/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, năm 2010. 5. Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: chinhphu.vn, Nghị định số 128/2008/NĐ-CP của Chính phủ: QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH MỘT SỐ ĐIỀU CỦA PHÁP LỆNH XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH NĂM 2002 VÀ PHÁP LỆNH SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA PHÁP LỆNH XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH NĂM 2008, năm 2008. 6. Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp: moj.gov.vn, LUẬT Giao thông đường bộ, năm 2008. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan