Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Bthk dân sự 1 diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật hiện hành...

Tài liệu Bthk dân sự 1 diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật hiện hành

.DOC
23
12
89

Mô tả:

I ĐẶT VẤN ĐỀ Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường các quan hệ xã hội cũng ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Vì thế các quyền và lợi ích của công dân cũng đòi hỏi pháp luât bảo hộ ở mức độ cao hơn. Sự vững mạnh của quốc gia không chỉ dựa trên sự phát triển của nền kinh tế mà còn được đánh giá trên cơ sở pháp luật bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân như thế nào? Do vậy, Nhà nước luôn tạo điều kiện tốt nhất cho công dân thực hiện quyền của mình một cách đầy đủ và toàn diện Với bản chất là một quan hệ tài sản,quan hệ thừa kế dưới tác động của nền kinh tế thị trường cũng trở nên phong phú và phổ biến trong các giao lưu dân sư. Chính vì vậy chế định thừa kế có vị trí quan trọng và thực sự cần thiết trong hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự Việt Nam . BLDS 2005 đã quy định khá đầy đủ về chế định thừa kế tuy nhiên chưa thể dự liệu hết được những trường hợp,tình huống xẩy ra trên thực tiễn. Do vậy một vấn đề quan trọng được đặt ra hàng đầu trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế là việc xác định ai là người thừa kế di sản? Để xác định được những người có quyền hưởng thừa kế phải dựa vào mối qua hệ của họ với người để lại di sản. Bởi vì không phải tất cả những người thuộc diện hưởng di sản đều được hưởng thừa kế cùng một lúc, mà tùy vào mối quan hệ của họ với người để lại di sản như thế nào sẽ được ưu tiên nhận di sản theo một trình tự theo do pháp luật quy định. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này thì trong bài tiểu luận ngắn của mình sau đây em xin trinh bầy một số vấn đê về: diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật hiện hành. II GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1.Diện và hàng thừa kế. 1.1khái niệm về diện và hàng thừa kế Thừa kế di sản là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế. Vậy thừa kế là một trong những phương thức xác lập quyền sở hữu tài sản. Phương thức đó được đặc trưng bằng các mối liên hệ giữa người để lại di sản và người hưởng di sản . Trong mối quan hệ này, người để lại di sản là người có tài sản và là chủ sở hữu của tài sản đó hoặc quyền sử dụng nó khi họ sống. Vì thế khi chết đi, để khối di sản đó được sử dụng đúng như ý chí của người để lại di sản hoặc đảm bảo bổn phận của họ với gia đình của mình thì di sản có thể được định đoạt theo hai hình thức: thừa kế theo si chúc hoặc thừa kế theo pháp luật 1 Pháp luật thừa kế ở nước ta luôn tôn trọng quyền tự do định đoạt tài sản của người lập di chúc và chỉ định người thừa kế. Nếu người thừa kế theo di chúc là sự chuyển dịch tài sản theo ý chí của người để lại di sản khi người đó còn sống chỉ định trong di chúc (có thể là cá nhân, tổ chức, nhà nước) thì thừa kế theo pháp luật chỉ là cá nhân được pháp luật quy định trong số những người acó mối quan hệ với người để lại di sản. Vậy những trường hợp nào được pháp luật quy định thuộc diện thừa kế và hàng thừa kế của người để lại di sản: 1.1.1 Khái niệm diện thừa kế theo pháp luật Diện những người thừa kế theo pháp luật là : phạm vi những người có quyền hưởng di sản thừa kế được chia theo pháp luật mà khi còn sống người để lại di sản có mối quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng với những người trong phạm vi thuộc một hoặc các mối quan hệ đó; - Quan hệ hôn nhân: Xuất phát từ việc kết hôn giữa vợ và chồng. - Quan hệ huyết thống: Quan hệ giữa những người cùng dòng máu (Cụ với ông, bà; Ông, bà với cha mẹ; Cha mẹ với các con; Anh chị em ruột...) -Quan hệ nuôi dưỡng: Xuất phát từ sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau giữa những người không cùng huyết thống hay không có quan hệ hôn nhân (Cha mẹ nhận nuôi con nuôi) 1.1.2 Khái niệm hàng thừa kế theo pháp luật: hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó hị cùng được hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại 1.2 bản chất diện và hàng thừa kế theo pháp luật 1.2.1 Bản chất pháp luật về diện thừa kế quy định của BLDS hiện hành: Trước hết ,diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ hôn nhân: Để có cơ sở đảm bảo quyền lợi và thể hiện trách nhiệm đối với nhau, pháp luật thực định chỉ chấp nhận gia đình phải dựa trên nền tảng hôn nhân hợp pháp. Theo quy đinh tại khoản 6 điều 8 luật hôn nhân và gia đình ,thì “ hôn nhan là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Tại khoản 2 của điều luật nói trên còn quy định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Như vậy, quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ giữa vợ và chồng khi kết hôn đã tuân thủ các điều kiện và các thủ tục pháp luật quy định. Vợ chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau,khi quan hệ hôn nhân của họ tính 2 đến thời điểm mở cửa thừa kế của người vợ hoặc người chồng được xác định là hôn nhân hợp pháp Căn cứ vào quan hệ hôn nhân hợp pháp thừa kế của vợ, chồng trong nhận di sản của nhau được bảo vệ bằng pháp luật.Quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ hôn nhân được xác lập thông qua đăng ký kết hôn. Thủ tục đăng ký kết hôn được quy định trong luật hôn nhân và gia đình Việt Nam(1959 đến 2000). Tại điều 8 luật Hôn Nhân và Gia Đình năm 2000 cũng đã giải thích: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Để được đăng ký kết hôn, thì hai bên nam, nữ phải thỏa mãn các điều kiện kết hôn do luật hôn nhân và gia đình quy định tại các điều 9,10,11 và 14 về độ tuổi kết hôn , ý chí tự do,tự nguyện trong kết hôn, không vi phạm chế độ một vợ một chồng, không vi phạm các quan hệ huyết thống trong phạm vi ba đời,và không vi phạm các điều cấm khác của pháp luật như: Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi;giữa người đã từng là cha mẹ, cha nuôi với con nuôi,bố chồng với con dâu,mẹ vợ với con rể,bố dượng với con riêng của vợ,mẹ kế với con riêng của chồng;giữa những người cùng giới tính. Người mất năng lực hành vi không được kết hôn Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo nghi thức tổ chức đăng ký kết hôn( điều 14) Về vấn đề hôn nhân trái pháp luật là vi phạm một trong các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình Còn đối với vấn đề hôn nhân thực tế ,trước đây(trước năm 2000) do hoàn cảnh lich sử ,kinh tế đất nước thì vấn đề hôn nhân thực tế được tòa thừa nhận cũng coi là hôn nhân hợp pháp. Như vậy , hôn nhân của vợ chồng là hôn nhân hợp pháp từ thời điểm kết hôn hoặc hôn nhân thực tế được tòa án thừa nhận, thì vợ và chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau và còn là người thừa kế tài sản của nhau không phụ thuộc vào di chúc Sau này nhằm giải quyết dứt điểm những quan hệ vợ chồng không tuân thủ những quy định của luật hôn nhân và gia đình,chính phủ đã bna hành Nghị định số 77/2001/NĐCP ngày 22 tháng 10 năm 2001 quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị định số 35 /2000/QH10 của quốc hội về thi hành luật hôn nhân và gia đình năm 2000, tại điều 2 có quy đinh: Quan hệ vợ chồng chưa đăng ký mà được xác lập trước 3-1-1987,thì việc kết hôn không bị hạn chế về thời gian. Nhưng nếu nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ 3-1-1987 đến ngày 1-1-2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy 3 định của luật hôn nhân và gia đình năm 2000, thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn. Từ sau ngày 1-1-2001 mà họ không đăng ký kết hôn ,thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng Như vậy, pháp luật không thừa nhận hôn nhân thực tế đối với quan hệ nam và nữ trên thực tế đã chung sống với nhau như vợchồng từ 3-1-1987 đến ngày 1-1-2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2000, thì phải đăng ký kết hôn. Pháp luật quy định trong thỏi hạn hai năm từ ngày 1-1-2001 đến ngày 1-1-2003, mà họ không đăng ký kết hôn thì quan hệ của họ không phải là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Vấn đề hôn nhân thực tế không những đã có Nghị định số 35 / 2000/QH10 quy định thời hạn giải quyết cho đến ngày 1-1-2003, mà tại khoản 11 luật hôn nhân và gia đình đã quy định không thừa nhận hôn nhân thực tế: “ nam, nữ không đăn ký kết hôn mà chung sống với nhâu như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng” Như vậy có thể thấy được với quy định tại điều 11 luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đoạn tuyệt hẳn vơi hôn nhân thực tế.Bởi lẽ , trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường,các mối quan hệ trở nên đa dạng và phức tạp nên quy định về “hôn nhân thực tế”hoàn toàn không còn phù hợp với xu thế xã hội hiện đại. Hơn nữa ,chủ trương của Đảng và Nhà nước là xây dựng Nhà nước ta thành Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa thì không còn lý do nào để công nhận” thói quen” cảu người dân thay cho quy định của pháp luật. Do đó những quy định trên là hoàn toàn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Thứ hai diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ huyết thống Mối quan hệ giữa cha mẹ đẻ, con đẻ Pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam luôn bảo vệ lợi ích chính đáng của những người con xét về quan hệ huyết thống với cha ,mẹ và nghĩa vụ của người làm cha, làm mẹ của con. Quyền thừa kế theo pháp luật của con không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha, mẹ đẻ. (theo tinh thần điều 4 trong luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em năm 2004 ,không phân biệt đối xứ với trẻ em). Các con đẻ của người để lại di sản, không phân biệt con trai hay con gái con trong giá thú hay ngoài giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân sự,theo quy định của pháp luật, họ đều thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau; vì giữa họ với cha, mẹ đẻ có quan hệ huyết thống.Cha đẻ, mẹ đẻ rù là con 4 trong giá thú hay con ngoài giá thú( về hậu quả pháp lý do pháp luật quy định để có cơ sở xác định con chung của vợ chồng hoặc con của người cha, người mẹ không phải là vợ chồng sình ra đều là những người có quan hệ huyết thống với con) đều có quan hệ huyết thống, do vậy cha đẻ , mẹ đẻ với các con đẻ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em cũng quy định “ trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc tịch. Trẻ em chưa xác định được cha, mẹ nếu có yêu cầu thì được cơ quan có thẩm quyền giúp đỡ xác định cha,mẹ theo quy định của pháp luật”. (điều 11 luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em năm 2004). Luật hôn nhân và gia đình đã quy định về quyền xin xác nhận con của cha, mẹ là nhằm bảo vệ những quyền dân sự chính đáng của công dân, trong đó có quyền thừa kế tài sản Trong thực tế việc đương sự xin xác định cha cho con ngoài giá thú là một loại vụ việc phức tạp,giải quyết các loại khiếu kiện này thường phải dựa vài những căn cứ nhất định: như chứng cứ về mối quan hệ giữa những người được nghi vấn là cha,mẹ của đứa trẻ trong mối liên hệ về mặt thời gian khi đứa trẻ thành thai và những người được nghi vấn là cha,mẹ đứa trẻ trong thời gian đứa trẻ được sinh ra( theo quy đinh của luật hôn nhân và gia đình nằm 2000) Việc xác định cha,mẹ,con(xác định quan hệ huyết thống)không những là cơ sở để xác định quyền và nghĩa vu của cha,mẹ và con đối với nhau trong quan hệ gia đình, mà còn là cơ sở để xác định diện thừa kế giữa cha,mẹ và các con trong trường hợp chết Hiện nay, trình độ khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết,vấn đề thụ tinh trong ống nghiệm đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và ở nước ta cũng đã có nhiều thành công trong lĩnh vực này. Vì vậy, việc xác định cha,mẹ cho con được sinh theo phương pháp khoa học không những là vấn đề nhân đạo mang tính xã hội,mà còn là một vấn đề pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền nhân thân và quyền tài sản của công dân trong đó có quyền thừa kế tài sản. Việc xác định cha ,mẹ cho người con được sinh theo phương pháp khoa học, chính là việc xác định quan hệ huyết thống giữa cha ,mẹ và con, ngoài những ý nghĩa kinh tế ,xã hội khác, việc làm này còn là cơ sở để xác định diện thừa kế giữa người được sinh ra theo phương pháp khoa học và cha , mẹ của người đó( hiện nay vấn để này đã được quy định tạ khoản 2 điều 63 luật hôn nhân và gia đình, và ban hành nghị định số 12 / 2003 /nđ-cp ngày 12/2/2003 về việc sinh con theo phương pháp khoa học) Mối quan hệ giữa các cụ, ông bà với các cháu,chắt 5 Cũng như cha mẹ, ông bà phải là người thừa kế theo quy định của pháp luật chứ không thể là người được gọi để thu nhận lại các tài sản của cháu chết mà không có người nối dõi như ngày xưa. Tuy vậy, ông bà không thể là người được thừa kế ưu tiên hay cùng hàng so với cha, mẹ, cháu,chắt được Theo điều 679 BLDS năm 1995 thì ông nội, bà nội,ông ngoại, bà ngoại của người chết; cụ nội, cụ ngoại của người chết được hưởng thừa kế theo pháp luật của cháu ,chắt, nhưng cháu , chắt không phải là người thừa kế theo pháp luật cảu họ. Quy định này đi ngược với thứ tự ưu tiên hưởng thừa kế theo quan hệ huyết thống xuôi của cháu chắt bởi quan niệm truyền thống thì “ nước mắt chảy xuôi’’ . Vì thế,cháu, chắt không được hưởng di sản của ông,bà ,các cụ là điều hợp lý. Chính vì vậy, BLDS năm 2005 đã sửa đổi bổ sung thêm tại điều 676. Ngoài ra , nếu cha mẹ, cháu,chắt chết trước hoặc cùng thời điểm với ông, bà, các cụ thì cháu, chắt được hưởng thừa kế thế vị tại điều 677 BLDS năm 2005 Mối quan hệ giữa những người thân thuộc bàng hệ Mối quan hệ giữa anh, chị ,em và con ,cháu của anh,chị ,em: Điều 676 BLDS năm 2005 quy định anh,chị, em ruột là những người thuộc hàng thừa kế thứ hai của nhau cùng với ông nội, và nội ,ông ngoại ,bà ngoại của người chết. Con của anh,chị ,em được xếp vào hàng thứ ba bên cạnh cụ nội, cụ ngoại. Ngoài ra, việc pháp luật quy định cho con của anh,chị ,em ruột của người chết gọi người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cii ruột ,dì ruột là hợp với đạo lý. Và vị trí của họ không thể lấn lướt cha, mẹ mình trong việc nhận di sản nên được xếp thứ tự sau cùng là hàng thứ ba Nhìn chung, luật hiện hành đã xây dựng một giải pháp có mức độ hợp lý cao, có sự dung hòa giữa quan niệm kinh tế và đạo đức củ quyền thừa kế, Mối quan hệ giữa những người thân thuộc bàng hệ khác Ngoài anh,chị,em ruột và con của anh,chị,em ruột pháp luật hiện hành chỉ thừa nhận những người nào mà người chết gọi cô ruột, bác ruột, chú ruột,cậu ruột hoặc dì ruột là người thừa bàng hệ và được xếp vào hàng thứ ba( điểm c khoản 1 điều 676 BLDS năm 2005) . Như vậy ,họ hưởng di sản cùng với cụ nội,cụ ngoại của người chết cũng như với con cảu anh chị em của người chết Nhìn chung lại ta thấy, diện thừa kế theo quan hệ huyết thống quy định tại BLDS năm 2005 đã được mở rộng đến ông bà nội, ngoại; anh chị em ruột, cháu ruột của người chết mà người chết là ông bà nội ngoại của người chết; bác ruột,chú ruột,cậu ruột, dì 6 ruột của người chết; cháu ruột của người chết là bác ruột,chú ruột,dì ruột, cô ruột,cậu ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội , cụ ngoại. Tuy nhiên , pháp luật cũng loại trừ quyền thừa kế của những người trong diện thừa kế nếu có hành vi trái pháp luật được quy đinh tại điều 643 BLDS năm 2005 Thứ ba, diện thừa kế theo pháp luật được xác định theo quan hệ nuôi dưỡng Quan hệ nuôi dưỡng là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau nuôi dưỡng nhau giữa những người thân thuộc theo quy định của pháp luật.Trong luật hôn nhân và gia đình nghĩa vụ của những người có quan hệ huyết thống trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các con chưa thành niên theo những nguyên tắc pháp luật: Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con đã thành niên mà không có khả năng lao động để tự nuôi mình; con có nghĩa vụ kính trọng, nuôi dưỡng cha mẹ. Nếu những người trong quan hệ huyết thống mà vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng,chăm sóc, giáo dục nhau giữa những người có quan hệ huyết thống là căn cứ vào điều kiện có thể nuôi dưỡng nhưng đã vi phạm. Người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người đẻ lại di sản đã bị Tòa án kết án bằng một bản án có giá trị pháp lý người đó bị tước quyền thừa kế theo pháp luật( điểm b khoản 1 điều 643 BLDS “Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản”) Quan hệ nuôi dưỡng còn được thể hiện giữa anh, chị ,em ruột đối với nhau trong hoàn cảnh mồ côi cha,mẹ hoặc cha,mẹ còn nhưng không có khả năng lao động hoặc đều không có năng lực hành vi dân sự Quan hệ nuôi dưỡng giữa ông,bà nội,ngoại và các cháu nội ngoại: Về phía ông ,bà nội,ngoại ngoài nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu,ông bà còn là những người giám hộ đương nhiên của nhau và là đại diện theo pháp luật cho nhau.Điều 17 luật hôn nhân và gia đình có ghi nhận : “ Điều 47. Nghĩa vụ và quyền của ông bà nội, ông bà ngoại và cháu 1. Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ và quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu. Trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 48 của Luật này thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu. 7 2. Cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại. Ngoài nghĩa vụ nuôi dưỡng, cháu và ông bà còn là người giám hộ đương nhiên của nhau và đồng thời cũng có nghĩa vị đại diện theo pháp luật cho nhau.” Như vậy, nếu cháu chưa thành niên hoặc không có khả năng lao động hoặc không có năng lực hành vi dân sự hoặc không có tài sản để tự nuôi mình thì ông,bà nội,ngoại phải có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cháu theo pháp luật. Ngược lại cháu cũng có bổn phận kính trọng,chăm sóc phụng dưỡng ông bà. Với lý do như trên, ngoài mối quan hệ huyết thống, dựa trên quan hệ nuôi dưỡng thì ông bà và các cháu thuộc diện thừa kế của nhau Quan hệ giữa cha kế,mẹ kế với con riêng của vợ ,của chồng: Theo quy định của pháp luật thì giữa những người con riêng với cha kế, mẹ kế đã thể hiện được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau. Điều 38 Luật hôn nhân và gia đình quy định bố dượng ,mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trong mon, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng cùng chung sống với mình và đã thể hiện được nghĩa vụ của người cha, người mẹ đối với con thì theo quy định của pháp luật họ thuộc diện thừa kế của nhau Nếu con riêng của vợ,của chồng mà chết trước cha kế, mẹ kế, con của họ được thừa kế thế vị nhận di sản của ông bà kế khi qua đời Như vậy theo điều 679 con riêng và bố dượng ,mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và được thừa kế di sản theo quy định tại điều 676 và điều 677 của BLDS này Nhưng quy định này rất chung chung, không rõ ràng như thế nào mới là được xem là chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con,mẹ con. Vì vậy khi xẩy ra tranh chấp trên thực tế ,việc áp dụng rất khác nhau.Lúc đó quyền lợi giữa con riêng với cha kế,mẹ kế khó có cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền lợi giữa khi xung quanh họ còn có nhiều người có quan hệ thân thuộc, gần gũi trong diện thừa kế. Thử hỏi ,khi có tranh chấp xẩy ra ,người con riêng đó có đủ chứng cứ để chứng minh hay không? Tương tự như vậy, con riêng không thuộc diện thừa kế của những người khác trong họ hàng, thân thuộc của cha kế ,mẹ kế. Quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi : Nuôi con nuôi là vấn đề đã được pháp luật điều chỉnh từ lâu. Mục đích nuôi con nuôi đã được Luật hôn nhân và gia đình qua các thời kỳ quy định rất cụ thể: 8 Điều 34 Luật hôn nhân và gi đình năm 1986: “việc nuôi con nuôi nhằm gắn bó tình cảm giữa người nuôi và con nuôi trong hệ cha mẹ và con cái, bảo đảm người nuôi chưa thành niên được nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục tốt nhất” Điều 67 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “ Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa những người nhận nuôi con nuôi với người được nuôi, bảo đảm cho người con được nhận làm con nuôi được trông nom và nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội…” Giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, có quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo Luật này…” Luật nuôi con nuôi năm 2010 ra đời là hành lang pháp lý bảo vệ quyền và nghĩa vụ của con nuôi và những người liên quan. Điều 24 Luật nuôi con nuôi 2010 quy định: “Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan” Nuôi con nuôi là việc làm nhân đạo, tạo môi trường sống tốt nhất cho người được nhận làm con nuôi đặc biệt là những trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi. Khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập, con nuôi có nghĩa vụ trách nhiệm với gia đình cha mẹ nuôi như là con đẻ: yêu thương,kính trọng ông bà cha mẹ, đoàn kết giúp đỡ anh chị em…cùng sống trong một mái nhà, có nghĩa vụ trách, nhiệm với các thành viên trong gia đình như con đẻ, nên việc pháp luật quy định con nuôi và các thành viên trong gia đình cha mẹ nuôi nằm trong diện thừa kế của nhau là hoàn toàn hợp lý. (Theo quan điểm của Luật nuôi con nuôi năm 2010) Theo khoản 1 điều 74 của luật hôn nhân và gia đình “. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi”: “Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định tại Luật này, kể từ thời điểm đăng ký việc nuôi con nuôi.” Một khi nhận nuôi một người làm con nuôi thì người con nuôi đó đương nhiên trở thành một thành viên trong gia đình cha, mẹ nuôi. Khi mối quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ nuôi với con nuôi được thiết lập thì sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con nuôi, ngược lại người con nuôi phải biết yêu thương kính trọng,chăm sóc,phụng dưỡng cha,mẹ nuôi. 9 Theo khoản 1 điều 74 của luật hôn nhân và gia đình “. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi”: “Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định tại Luật này, kể từ thời điểm đăng ký việc nuôi con nuôi.” Một khi nhận nuôi một người làm con nuôi thì người con nuôi đó đương nhiên trở thành một thành viên trong gia đình cha, mẹ nuôi. Khi mối quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ nuôi với con nuôi được thiết lập thì sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con nuôi, ngược lại người con nuôi phải biết yêu thương kính trọng,chăm sóc,phụng dưỡng cha,mẹ nuôi. Như vậy ta có thể thấy , mối quan hệ của họ không phải là quan hệ huyết thống, quan hệ thừa kế của họ chỉ được xác định trên cơ sở nuôi dưỡng. 2.2 bản chất pháp luật về hang thừa kế theo pháp luật hiện hành Hàng thừa kế theo pháp luât: được quy định cụ thể tại điều 676 BLDS Như chúng ta đã biết, di sản của người chết phải được dịch chuyển cho những người thân thích của ngưởi đó.Tuy nhiên, trong số những người thân thích đó có mức độ gần gũi, thân thích của mỗi người đối với người chết là khác nhau. Theo trình tự hưởng di sản thừa kế thì người nào có mức độ gần gũi nhất với người chêt sẽ di sản mà người đó để lại, nhiều người có cùng một mức độ gần gũi với người chết sẽ cùng được hưởng phần di sản của người đó. Khi không có người gần gũi nhất thì những người có mức độ gần gũi tiếp theo sẽ được hưởng di sản của người chết để lại.Như vậy, khồn phải tất cả những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật hưởng di sản theo trình tự trước, sau căn cứ vào mức độ gần gũi giữa họ với người chết,pháp luật về thừa kế đã xếp những người đó theo nhóm khác nhau. Mỗi nhóm đó được gọi là hàng thừa kế theo pháp luật Như vậy hàng thừa kế theo pháp luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và theo đó hị cùng được hưởng ngang nhau đối với di sản thừa kế mà người chết để lại Hàng thừa kế thứ nhất: quy định tại điểm a , khoản 1 điều 676 BLDS năm 2005 quy định về hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng,cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi , mẹ nuôi ,con đẻ, con nuôi của người chết: Cơ sở xác định những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất dựa trên cả ba mối quan hệ: huyết thống, quan hệ hôn nhân , quan hệ nuôi dưỡng 10 - Quan hệ thừa kế giữa vợ với chồng và ngược lại Vợ sẽ được thừa kế ở hàng thứ nhất của vợ chồng và ngược lại. Tuy nhiên, chỉ coi là vợ chồng nếu hai bên nam nữ kết hôn hợp pháp (quan hệ hôn nhân) Khác với pháp luật thực định,pháp luật thời phong kiến quy định hàng thừa kế thứ nhất chỉ có con cái .Vợ hoặc chồng không được quy định trong một hàng thừa kế cố định nào và vị trí của người vợ bao giờ cũng bị xem nhẹ. Bởi theo truyền thống của người Việt Nam lúc bấy giờ “ nhập gia tùy tục, xuất giá tồng phu, phu tử tòng tử” nên quyền lực gia đình tập trung vào người chồng. Khi một người phụ nữ kết hôn thì người chồng đương nhiên trở thành chủ sở hữu của tất cả tài sản trong gia đình , thậm chí là chủ sở hữu luôn cả tài sản của người vợ đem về nhà chồng khi hết hôn .Nếu là vợ chồng thì kể cả trong các trường hợp đặc biệt sau cũng được thừa kế của nhau : + Trong trường hợp vợ,chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản + Trong trường hợp vợ ,chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được tòa án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản. + Người đang là vợ hoặc là chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản (*) Đối với trường hợp một người có nhiều vợ, nhiều chồng được pháp luật thừa nhận : Đó là các trường hợp có nhiều vợ nhiều chồng trước ngày 13/1/1960 ở miền Bắc, trước ngày 25/3/1977 ở miền Nam, cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc( trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến năm 1975) lấy vợ, lấy chồng khác và cuộc hôn nhân sau không bị tòa án hủy bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật . Trong trường hợp này, người chồng(vợ) được hưởng thừa kế thứ nhất của tất cả những người vợ( chồng) và ngược lại - Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ đẻ với con đẻ và ngược lại: được hưởng thừa kế của nhau dựa trên quan hệ huyết thống.Cha mẹ sinh các con và có nghĩa vụ nuôi dưỡng các con trưởng thành.Ngược lại, các con phải kính trọng,yêu thương, chăm sóc và phụng dưỡng cha mẹ. Do vậy họ phải thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau. Cha đẻ, mẹ đẻ,con đẻ được thừa kế theo pháp luật của nhau không chỉ là quy định của pháp luật thừa kế Việt Nam mà là của hầu hết các nước trên thế giới. Con đẻ được hưởng thừa kế của cha mẹ đẻ không kể là con trong giá thú hay con ngoài giá thú và ngược lại . 11 - Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ nuôi với con nuôi và ngược lại. Trước đây, đã có giai đoạn pháp luật chỉ cho phép con nuôi được thừa kế của bố mẹ nuôi chứ không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của bố mẹ đẻ và anh chị em ruột ,ngược lại cha đẻ, mẹ đẻ của người đang làm con nuôi cũng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người con đẻ đó. Tuy nhiên, theo quy định của BLDS năm 1999 ,BLDS năm 2005 thì cha mẹ nuôi và con nuôi được thừa kế di sản của nhau và nếu một người đi làm con nuôi của người khác thi vừa có thể được thừa kế theo pháp luật của cha mẹ đẻ và cha đẻ của người đi làm con nuôi người khác cũng được hưởng thừa kế của người con nuôi đó. Để có thể được hưởng thừa kế thì quan hệ nhận nuôi con nuôi phải hợp pháp theo quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và luật nuôi con nuôi sửa đổi năm 2010 Ngoài ra, giữa con đẻ và con nuôi không có sự phân biệt, theo đó, quyền thừa kế theo pháp luật của con đẻ và con nuôi la ngang nhau khi hưởng di sản thừa kế của cha mẹ .Điều này còn phù hợp với mục đích nhận và nuôi con nuôi nhằm thể hiện lòng nhân đạo, yêu thương của mọi người sao cho trẻ em được nuôi dưỡng trong điều kiện tốt hơn và bù đắp cả vật chất lẫn tinh thần khi làm con nuôi. Những người ở hàng thừa kế thứ nhất có mối quan hệ gần gũi hơn cả đối với người để lại di sản được xét trên quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng Ví dụ: A và B là kết hôn năm 1970 và có con chung với nhau là C ,D và có một người con nuôi là E do cả hai vợ chồng cùng nhận nuôi lúc E còn nhỏ(13 tuổi ) . Năm 2009 B có đơn yêu cầu tòa án chia tài sản chung của hai vợ chồng, vì mục đích kinh làm ăn kinh doanh riêng. Việc làm ăn kinh doanh của B rất phát triển,nhưng không may ngày 29/10/2010 vì bị tai biến mạch máu não ,B chết đột ngột. Sau khi mai táng cho B xong các con của B xảy ra tranh chấp số tài sản cha để lại nhưng lại không có di chúc gì cả. Ngày 1/1/2011 bà A làm đơn yêu cầu tòa án chia di sản thừa kế của ông B. Tòa án đã xác định ông B chết để lại di sản là 56 tỷ đồng Áp dụng quy định của điều 667 người thừa kế theo pháp luật, Tòa án xác định A,C,D,E đều thuộc diện thừa kế của B và đều cùng nằm trong hàng thừa kế thứ nhất của B “Hàng thừa kế thứ nhất gồm : vợ, chồng,cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi , mẹ nuôi ,con đẻ, con nuôi của người chết.” Do đó số di sản ông B để lại sẽ được chia đều cho bốn người: 12 A=C=D=E= 56 tỷ đồng : 4 = 14 tỷ đồng Hàng thừa kế thứ hai : điểm b khoản 1 điều 676 BLDS năm 2005 quy định những người thừa kế ở hàng thứ ba bao gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội , ông ngoại, bà ngoại; - Quan hệ thừa kế giữa ông nội, bà nội với cháu nội, giữa ông ngoại,bà ngoại với cháu ngoại và ngược lại Ông bà nội là người sinh ra cha của cháu,ông bà ngoại là người đã sinh ra mẹ của cháu. Nếu cháu(ruột) chết thì ông bà nội, ông bà ngoại sẽ ở hàng thừa kế thứ hai của cháu và ngược lại. Trước đậy,BLDS 1995 chỉ quy định ông, bà( nội ,ngoại ) ở hàng thừa kể thứ hai của cháu ruột chứ không quy định cháu ruột ở hành thừa kế thứ hai của ông bà. Sở dĩ BLDS năm 1995 quy định như vậy vì cho rằng nếu cha mẹ của cháu còn sống khi ông bà chết thì cha mẹ cháu sẽ được hưởng thừa kế. Tuy nhiên,theo BLDS 1995 thì trên thực tế có trường hợp ông bà chết nhưng cha mẹ của cháu không được hưởng thừa kế mặc rù vẫn còn sống( bị truất quyền,không có quyền hưởng di sản), trong trường hợp này cháu ruột của ông bà cũng không được hưởng di sản vì không thuộc hàng thừa kế của ông bà. Xuất phát từ lý do này, để đảm bảo quyền lợi cho những người cháu ruột pháp luật đã quy định cháu ruột là người thuộc hàng thừa kế thứ hai của ông bà( nội, ngoại) nếu ông và chết. - Quan hệ thừa kế giữa anh chị ruột với em ruột và ngược lại: Mặc dù pháp luật không quy định cụ thể nhưng có thể hiểu anh chị em ruột là anh chị em ,cùng cha hoặc cùng mẹ sinh ra nên giữa họ có mối quan hệ thuyết thống. Trong gia đình, nếu không còn bố mẹ thì các anh, chị, em phải yêu thương chăm sóc nuôi dưỡng nhau. Trước đây , theo thông tư 594 và thông tư 81 quy định anh,chị ,em nuôi được thừa kế của nhau, Nhưng trên thực tế, khái niệm anh chị ,em nuôi chưa bao giờ tồn tại nên pháp luật đã loại trừ và bãi bỏ quy định này. Do vậy, nếu anh chị ruột chết trước em ruột thì em ruột được hưởng thừa kế của anh ,chị ruột và ngược lại. Nhìn chung , những người thuộc hàng thừa kế thứ hai có mối quan hệ khá gần với người chêt nhưng không thể ưu tiên xếp cùng thứ tự ở hàng thứ nhất bởi vì mức độ gần gũi của họ không thể nào bằng hàng thừa kế thứ nhất được. Do vậy, họ ưu tiên được hưởng di sản ở hàng thừa kế thứ hai Hàng thừa kế thứ ba: điểm c khoản 1 điều 676 BLDS năm 2005 quy định người thừa kế ở hàng thứ ba bao gồm ;cụ nội ,cụ ngoại của người chết;bác ruột,chú ruột,cậu 13 ruột,cô ruột, dì ruột của người chết;cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột,chú ruột ,cậu ruột,cô ruột,chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại : - Quan hệ thừa kế giữa cụ nội với chắt nội, cụ ngoại với chắt ngoại và ngược lại Tương tự như qua hệ thừa kế giữa ông ,bà (nội, ngoại) với cháu ruột, cụ nội ngoại sẽ thuộc hàng thừa kế thứ ba của chắt ruột và ngược lại. Đây là quy định đã được bổ sung thêm, quy định này thay thế cho sự bất hợp lý về quyền lợi của chắt khi không thuộc diện thừa kế của cụ nội, ngoại tại điều 679 BLDS năm 1995 - Quan hệ thừa kế giữa bác ruột, chú ruột, cô ruột,cậu ruột với cháu ruột và ngược lại Bác ruột , chú ruột ,cô ruột là anh , chị, em (ruột) của bố đẻ của cháu; bác ruột,cậu ruột, dì ruột và anh,chị , em (ruột) mẹ đẻ của cháu. Bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột thuộc hành thừa kế thứ hai của cháu ruột chết và ngược lại. Trình tự ưu tiên hưởng di sản phải theo quy luật săp xếp thứ tự các hàng. Trước hết, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất sẽ được ưu tiên hàng đầu bởi giữa họ có mối quan hệ thân thuộc, thiêng liêng và gần gũi nhất. Hàng thừa kế thứ nhất được xác định trên cả ba mối quan hệ: quan hệ huyêt thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng. Tuy nhiên , những người này sẽ không được hưởng di sản nếu vi phạm Khoản 1 điều 643 BLDS năm 2005 hoặc bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ trối nhận di sản. Và lúc này ngoài những người trên, không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất thì những người ở hàng thừa kế thứ hai sẽ ưu tiên hưởng di sản. Hàng thừa kế thứ ba cũng vậy, sẽ nhận di sản nếu không còn ai ở hàng thừa kế thứ hai.Quy định như trên của pháp luật nhằm giải quyết việc hưởng di sản theo trình tự hàng, mà không cơ sự xen kẽ với bậc như pháp luật thừa kế của một số nước như: Thái Lan, Nhật Bản Quyền của người thừa kế ở cùng một hàng được bảo đảm trong việc hưởng di sản. Không có người thừa kế ở hàng hai hàng khác nhau cùng được hưởng di sản theo pháp luật. Chỉ khi nào hàng trước không còn ai thừa kế, người ở hàng thừa kế sau mới được hưởng 3 một số vướng mắc bất cập và phương hướng giải quyết về diện và hàng thừa kế theo pháp luật 14 3.1 một số vướng mắc và bất cập về diện và hàng thừa kế theo pháp luật hiện hành Trong những năm qua, do tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường các tranh chấp dân sự ngày càng có chiều hướng gia tăng. Trong số đó, các tranh chấp về thừa kế chiếm một tỷ lệ đáng kể và chủ yếu xoay quanh việc chia di sản thừa kế.Đây là những tranh chấp chủ yếu đòi hỏi công bằng về quyền lợi nên cần phải xác định một cách thấu tình đạt lý, vì thế, đòi hỏi các cấp Tòa án có thẩm quyền phải xác định đúng những người được quyền hưởng thừa kế và theo thứ tự ưu tiên nhất định, tránh trường hợp nhầm lẫn để đảm bảo quyền lợi của đương sự Một vấn đề luôn được đặt lên hàng đầu khi giải quyết tranh chấp thừa kế là việc xác định diện và hàng thừa kế. Nếu xác định sai về những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật không giải quyết dứt điểm vụ án mà còn dây dưa kéo dài. Ngoài việc xác định đúng người thừa kế theo pháp luật, Tòa án nhân dân còn phải kết hợp hài hòa giữa thực tiễn và lý luận để có sựu linh hoạt mềm dẻo nhằm ổn định đời sống, trật tự xã hội. Những năm gần đây, hiệu quả xét xử của tòa án nhân dân các cấp ngày càng nâng cao. Thực tế xét xử của tòa án nhân dân các cấp đã có gắng trong việc nâng cao trình độ, bám sát các quy định của Bộ Luật Dân sự và các văn bản pháp luật của các nghành có liên quan để xác định đúng hướng đắn trong việc giải quyết các tranh chấp thừa kế đạt hiểu quả tốt .Tuy nhiên, còn nhiểu quy định trong Bộ Luật Dân sự chưa phù hợp với thực tế và chưa rõ ràng khiến các Toà án gặp nhiều khó khăn khi áp dụng. Đôi khi do cách hiểu của những người áp dụng các nhau trong cùng một vụ án. Song , với cách hiểu nào cũng phải dựa trên tinh thần của điều luật và xác định bản chất điều luật quy định như thế nào để tránh bị sai sót,nhầm lẫn Ví dụ là: 3.1.1- Trường hợp con dâu , con rể đối với thừa kế di sản của bố mẹ vợ,chồng Trong pháp luật thừa kế nước ta từ trước đến nay chưa có bao giờ quy định việc con dâu, con rể được thừa kế di sản của bố mẹ chồng, bố mẹ vợ. Thế nhưng, trên thực tế nhiều vụ án lại có nguyên đơn là con dâu, con rể kiện việc chia thừa kế di sản của bố mẹ chồng, bố mẹ vợ,với lý do người chồng ,người vợ của người đi kiện đã chết nên họ là người thừa kế đương nhiên của người chồng, người vợ đó. Với cách hiểu như vậy là không đúng, bởi lẽ,ở đây cần phân biệt tranh chấp thừa kế di sản của người cha mẹ 15 người chồng ,người vợ đã chết đó chứ không phải xác định người chồng, người vợ đó được hưởng thừa kế của vợ hoặc chồng mình đã chết Do vậy phải hiểu rõ trong trường hợp bố mẹ chồng hoặc bố mẹ vợ để lại di sản, nếu người chồng hoặc người vợ đó chết thì những người con của họ mới được hưởng quyền thừa kế thế vị của ông bà nội, ông bà ngoại để lại. Do hiểu không đúng,nhiều tòa án không đề cập đến người con của người chết hoặc nếu có đề cập nhưng lại xếp những người con đó vào tư cách là những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, trong khi đó lại đưa người còn sống là vợ (hoặc chồng) của người chết là nguyên đơn kiện chia thừa kế di sản của người bố mẹ đẻ của người chết. Có tòa án trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án thừa kế đã ghi lời khai của những người thừa kế, trong đó có sự từ chối hoặc nhường quyền thừa kế của mình cho một người khác. Lẽ ra phải đưa những người thừa kế đó tham ra tố tụng để tòa án xem xét chấp nhận hay không chấp nhận sự tự nguyện đó. Nhưng khi thấy họ từ chối quyền lợi thừa kế thì loại bỏ họ ra ngoài vụ án luôn, không xếp họ tham gia tố tụng với tư cách nào cả. Điều này dẫn đến trường hợp tại tòa án sơ thẩm, những người thừa kế có ý kiến khước từ thừa kế, nhường kỷ phần cho người khác nhưng sau đó lại đổi ý kiên. Vì không được tham gia tố tụng nên họ cũng không được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm mà khiếu nại Tòa án nhân dân Tối cao Vì vậy , bài học rút ra từ thực tiễn là tòa án cấp sơ thẩm cần lưu ý đến việc điều tra kỹ lưỡng để xác định đúng đắn hàng thừa kế ngay từ ban đầu để đưa họ tham gia tố tụng, cho dù trước khi xem xét các nội dung liên quan đến việc tranh chấp về thừa kế mới có thể giải quyết vụ án đúng pháp luật 3.1.2 - Vấn đề thừa kế theo pháp luật giữa con riêng và cha mẹ kế. Giữa con riêng và cha kế,mẹ kế không có quan hệ huyết thống nhưng theo quy định tại điều 38 luật hôn nhân và gia đình ,họ lại có nghĩa vụ chăm sóc,nuôi dưỡng nhau. Như vậy, giữa con riêng với cha kế,mẹ kế dù muốn hay không muốn họ phải thể hiện các nghĩa vụ theo pháp luật. Nếu họ cùng chung sống với nhau thì nghĩa vụ của họ đối với nhau theo quy định trên cũng chẳng có gi khác so với nghĩa vụ giữa con đẻ với cha đẻ,mẹ đẻ. Ngược lại nếu họ chung sống với nhau mà không thể hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau thì họ bị coi là vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng không? Nếu xác định họ vi phạm nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau thì quyền thừa kế của một trong hai người sẽ bị tước bỏ theo quy định của pháp luật,khi một bên chết trước. Ngược lại, trong trường hợp họ không cùng chung sống với nhau nhưng họ vẫn thể 16 hiện được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì họ có được thừa kế theo pháp luật của nhau khi một bên chết trước không? Để làm rõ vấn đề này thì em nghĩ điều 679 cần phải kết hợp với các điều từ điều 34 đến điều 38 luật hôn nhân và gia đình để xây dựng điều luật có nội dung thống nhất. Phương án cho việc xây dựng quy định này có thể là con riêng với cha kế, mẹ kế được thừa kế theo pháp luật cảu nhau, thì độ tuổi con của người con riêng cần phải được quy định ở mức nào đó . Theo đó thời hạn chăm sóc , nuôi dưỡng nhau, mức độ năng lực hành vi dân sự của họ và họ đã thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng như thê nào mà không nhất thiết họ phải sống cùng nhau. Nếu còn giữ nguyên điều 679 BLDS như hiện nay, thì việc xác định quyền thừa kế theo pháp luật của nhau giữa con riêng với cha kế, mẹ kế là một vấn đề phức tạp sẽ có nhiều quan điểm khác nhau trong việc áp dụng quy phạm để giải quyết tranh chấp thực tế phát sinh. Như vậy sẽ gây nên pháp luật về thừa kế không những thiếu chặt chẽ mà còn khó có thể áp dụng được thống nhất ở các cấp tòa án. Như vậy thì pháp luật nên quy định về việc xác định nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau giữa con riêng với cha kế, mẹ kế không phụ thuộc và nơi cư trú củ họ, ,mà căn cứ vào việc giữa họ có thực sự thể hiện được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con,mẹ con hay không Về nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau giữa con riêng và cha kế, mẹ kế pháp luật không nhất thiết phải quy định điều kiện họ cùng sống chung với nhau bởi vì sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng nhau giữa họ về điều kiện không gian không ảnh hưởng nhiều tới việc nuôi dưỡng. Trên thực tế đã cho thấy con riêng và cha kế, mẹ kế đã không cùng chung sống với nhau do điều kiện công việc ,nhiệm vụ của từng người mà họ không thể chung sống cung nhau, nhưng họ vẫn dành chio nhau những khoản tiền hoặc lương vật chất khác để đảm bảo cuộc sống của nhau với một tình cảm chân thực. Nếu xét về mặt đạo đức thì hành vi nuôi dưỡng nhau giữa những người con riêng với cha kế,mẹ kế được xem xét như bổn phận tự nguyện. Những khoản tiền và lương vật chất khác của một trong hai bên được chuyển cho nhau để bảo đảm cuộc sống ổn định và thậm chí trong điều kiện nào đó,mức độ vật chất mà họ dành cho nhau đảm bảo cho chất lượng cuộc sống còn cao hơn mức cao hơn mức sống của những người bình thường khác trong cùng một khu vực. Theo quan điểm của em pháp luật nên có những quy định về vấn đề này theo giải pháp sau đây: - Nếu giữa con riêng và cha kế,mẹ kế đã thể hiện được trên thực tế nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và quý mến,kính trọng nhau giữa cha con, mẹ con thì khi một bên chết 17 trước ,họ được thừa kế theo pháp luật của nhau như cha con, mẹ con. Theo đó, con của người con riêng được thừa kế thế vị như các cháu ruột khác của người là cha kế, mẹ kế trong trường hợp người con riêng đó chết trước hoặc chết cùng vào một thời điểm với cha kế, mẹ kế. Có quy định cụ thể như vậy, không những thuận tiện cho việc áp dụng quy phạm để giải quyết những tranh chấp về quyền thừa kế trong trường hợp cụ thể,mà nó còn phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội và truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam trong quan hệ mẫu kế, kế phụ Từ những phân tích trên điều 679 BLDS cần sửa như sau : Con riêng và bố dượng(cha kế),mẹ kế không phụ thuộc vào nơi họ cư trú nếu có quan hệ chăm sóc ,nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con từ một phía hoặc từ cả hai phía, thì được thừa kế của nhau theo quy định tại điều 676 và con và cháu con hoặc cháu của người con riêng đó còn được thừa kế tài sản theo quy định tại điều 667. Và vì trên thực tế có trường hợp khi người để lại di sản chết vì không muốn cho con riêng hưởng di sản mà những người thừa kế khác không thừa nhận quan hệ nuôi dưỡng đó.Trong trường hợp này thì quyền lợi của người là cha kế, mẹ kế,con riêng sẽ được đảm bảo bằng biện pháp nào? Pháp luật đã không quy định cụ thể và thiết nghĩ đây là điều cần bổ sung để tránh gây ra tình trạng điều luật được hiều không nhất quán và để đảm bảo quyền lợi cho người được hưởng di sản thừa kế. 3.1.3- Những người thừa kế được sịnh theo phương pháp khoa học: Đây cũng là một vấn đề nóng bỏng nữa khiến những nhà áp dụng pháp luật lúng túng,xác định cha cho những đứa bé sinh ra theo phương pháp khoa học thụ tinh nhân tạo. Trong một số trường hợp đưa trẻ sinh ra theo phương pháp tiến bộ khoa học nhưng không được sự thuận tình của cả hai vợ chồng trong khi hôn nhân còn tồn tại khiến những người xét xử không biết phải phân định như thế nào khi xẩy ra tranh chấp Ví dụ như là: trên thực tế.có trường hợp hai vợ chồng sống với nhau trong một thời gian dài nhưng không có con do người chông không có khả năng có con. Không bàn bạc với chồng, người vợ đã tự ý đi thụ tinh nhân tạo và sinh ra một đứa bé. Lúc vợ chồng còn sống hòa thuận với nhau thì không có chuyện gì xẩy ra. Đến khi ông bà nội chết đi mới biết trước khi chết ông bà nội để lại di chúc cho đứa cháu đích tôn do ông ,bà nội cư nhầm tưởng rằng đó là giọt máu của con trai ông bà. Lúc này vợ chồng xẩy ra xích mích và dẫn đến ly hôn. Trong trường hợp này, đứa bế sẽ được xác định như thế nào? Đứa bé có phải là con chung của hai vợ chồng trong khi hôn nhân còn tồn tại 18 hay không? Nếu xét về lý thì đứa bé dó hoàn toàn không phải là máu mủ của người chông mà là do người vợ đi thụ tinh nhân tạo.Việc xác định tư cách của đứa bé rất quan trọng bởi lẽ, nếu xem đứa trẻ là con chung thì việc hưởng di sản của ông, bà nội sẽ được giải quyết một cách dễ dàng. Nhưng xét về mặt truyền thốn thì không thể xem đứa bé là con của chồng được bởi người vợ không hề bàn bạc với chồng về việc đi thụ tinh nhân tạo Trong trường hợp cụ thể này thì, một số người cho rằng đứa trẻ đó không được xem là con của người chồng.Bởi lẽ,trong trường hợp thụ tinh nhân tạo nhưng tinh trùng được lấy từ người chồng để thụ tinh thì đó mới là con đẻ của người chồng. Cũng có những đứa bé được thụ tinh nhân tạo không phải từ tinh trùng của người chồng nhưng được sự đông ý, thỏa thuận giữa hai vợ chồng thì đứa trẻ vẫn được xem là con chung của hai vợ chồng. Tuy nhiên, trong trường hợp này người này người vợ tự ý đi thụ tinh nhân tạo nên đứa bé sẽ được xem là con riêng của người vợ. Do vậy, dù di chúc của ông,bà nội đã nhầm lẫn do không biết đứa bé sinh ra theo phương pháp thụ tinh nhân tạo và không có một chút máu mủ huyết thống dòng tộc mình. Ý chí của ông ,bà nội cho đứa cháu hưởng di sản dựa trên suy nghĩ duy trì huyết thống dòng tộc. Vì thế, dù di chúc hợp pháp về hình thức nhưng nội dung có sự nhầm lẫn nên đứa bé sẽ không được hưởng toàn bộ di sản do ông bà để lại Tất cả nhưng suy luận cũng không thể nào đưa ra một ý kiến thống nhất va thuyết phục được. Do vậy, em thiết nghĩ trong thời gian tới các nhà làm luật nên quy định cụ thể vấn đề này. Xã hội ngày càng phát triển thì hiện nay vấn đề áp dụng các phương pháp khoa học tiến bộ để hỗ trợ trong việc sinh đẻ xẩy ra rất phổ biến.Do vậy,vấn đề công nhận cha cho những đưa trẻ sinh ra theo phương pháp khoa học hết sức quan trọng. Điều đó không những có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền lợi cho những đứa trẻ mà còn mang lại tình thương yêu,tạo ra những suy nghĩ tốt đẹp trong việc hình thành nhân cách tre thơ.Ngược lại,nếu xảy ra tranh chấp xuất phát từ vấn đề này sẽ hình thành những suy nghĩ không tốt và gây vết thương lòng cho những đứa trẻ vô tội tâm hồn trong như pha lê. Mà pháp luật thừa kế hiện hành của nước ta chưa có quy định cụ thể về vấn để này.Nếu pháp luật không quy định rõ ràng thì sẽ rất khó giải quyết khi xẩy ra tranh chấp trên thực tế. Vì vậy cần phải bổ sung những quy định về trường hợp sinh đẻ theo phương pháp thụ tinh nhân tạo m thụ tinh trong ống nghiệm một cách cụ thể, rõ ràng để đảm bảo quyền lợi cho những người liên quan và những đưa bé được sinh ra theo phương pháp khoa học này.Có như vậy khi có tranh chấp về 19 thừa kế liên quan đến những người này thì những người nha áp dụng pháp luật mới có cơ sở để giải quyết một cách thấu tình đạt lý,nâng cao công tác xét xử và tạo niềm tin vào pháp luật trong lòngy người dân. 3.1.4 - Vấn đề thừa kế của con nuôi với các thành viên trong gia đình của cha mẹ nuôi khi Luật nuôi con nuôi 2010 ra đời và có hiệu lực Theo tinh thần của Bộ luật dân sự và phần phân tích quan hệ thừa kế giữa anh chị em ruột với nhau, thì ta có thể thấy mối mâu thuẫn sau đây Thứ nhất: Quan hệ giữa anh, chị với em nuôi (con đẻ và con nuôi của một người). Anh chị với em nuôi không phải là anh chị em ruột với nhau, không có quan hệ huyết thống, không có quan hệ nuôi dưỡng nên không là người thừa kế của nhau. Ví dụ: Vợ chồng T và K có hai người con là J và H (đã thành niên) trong đó J là con nuôi và H là con đẻ; giả sử do không may bị tay cảm H chết .Thì trong trường hợp này mặc dù là anh, chị, em sống với nhau trong cùng một gia đình nhưng J, H không phải là “anh chị em ruột” của nhau nên không được hưởng di sản của nhau. Mà theo, Điều 24 Luật nuôi con nuôi 2010 quy định: “Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan” Như vậy quy định này đồng nghĩa rằng khi được nhận làm con nuôi thì quyền và nghĩa vụ của con nuôi sẽ phát sinh như quyền và nghĩa vụ của người con đẻ với các thành viên của gia đình. Theo quan điểm của BLDS thì con nuôi không phải là người được hưởng di sản của anh, chị, em nuôi (vì không phải là anh, chị, em ruột với nhau), không là người được hưởng di sản ở hàng thừa kế thứ hai của ông bà nuôi, hàng thứ ba của cụ (vì không phải là chắt ruột của cụ). Xuất phát từ thực tế tình hình nhận nuôi con nuôi của nước ta, các trường hợp được nhận làm con nuôi thường là trẻ em mồ côi trong các trại trẻ mồ côi không xác định được gia đình gốc, trẻ em bị bỏ rơi. Gia đình cha mẹ nuôi là gia đình duy nhất, là tất cả cuộc sống của các em. Việc hạn chế nhận di sản trong gia đình cha mẹ nuôi đã vô hình gây ra sự không bình đẳng, sự phân biệt đối xử giữa con nuôi và con đẻ, gây ra sự kỳ thị làm cho con nuôi mặc cảm với số phận của mình. Luật nuôi con nuôi đã giải quyết vấn đề đó, đã tạo cho con nuôi có một hoàn cảnh mới hoàn toàn bình đẳng. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan