Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...

Tài liệu CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

.PDF
55
512
115

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NGÔ THANH VŨ CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số cn: 60380103 Người hướng dẫn khoa học:PGS.TS Nguyễn Thị Hoài Phương Học viên: Ngô Thanh Vũ Lớp: CHL - K3 Khánh Hòa- hệ ứng dụng TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học thật sự của cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS-TS Nguyễn Thị Hoài Phương. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Tác giả Ngô Thanh Vũ DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Từ được viết tắt BLDS 2015 Bộ luật dân sự 2015 BLTTDS 2015 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 TANDTC Tòa án nhân dân tối cao HNGĐ 2014 Hôn nhân gia đình 2014 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. QUYỀN KHỞI KIỆN CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI .. 10 1.1. Quyền khởi kiện của cơ quan lao động, thương binh xã hội................... 10 1.2. Quyền khởi kiện của cha mẹ đẻ yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi .. 14 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 21 CHƯƠNG 2.CĂN CỨ CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI ......................... 22 2.1 Xác định yếu tố tự nguyện làm căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi ...... 22 2.2 Xác định hành vi ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi làm căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi ............................................................................ 28 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 34 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 35 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong quá trình phát triển của xã hội thì việc nuôi con nuôi là nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Trong thực tế, việc nuôi con nuôi rất phổ biến nhưng việc đăng ký con nuôi thì không phải ai cũng biết và thực hiện, mặc dù việc giải quyết cho nhận nuôi con nuôi trong nước đã thực hiện tương đối tốt, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Việc thi hành pháp luật về nuôi con nuôi đã góp phần giúp cho nhiều trẻ em có được mái ấm gia đình thay thế ở trong nước, được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt. Đồng thời, thông qua việc giải quyết nuôi con nuôi, cũng góp phần quan trọng bảo đảm cho nhiều người, đặc biệt phụ nữ đơn thân hoặc các cặp vợ chồng hiếm con, được thực hiện quyền làm cha mẹ. Tuy nhiên, từ thực tiễn thi hành pháp luật về nuôi con nuôi còn cho thấy những tồn tại, bất cập trong lĩnh vực này. Nhiều trường hợp nhận và nuôi dưỡng trẻ em như con nuôi, nhưng không làm thủ tục đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền do trình độ am hiểu pháp luật của người dân còn thấp, chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc đăng ký nuôi con nuôi, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp khi nhận nuôi hoặc chấm dứt việc nuôi con nuôi của trẻ em được nhận nuôi và cha mẹ nuôi. Vẫn còn nhiều trường hợp nuôi con nuôi trên thực tế nhưng không đăng ký theo quy định của pháp luật về cho, nhận nuôi con nuôi mà chỉ có sự thỏa thuận của hai bên (bên cho con nuôi và bên nhận con nuôi); còn tồn tại nhiều hình thức nuôi con nuôi có tính chất “dân gian” trong nhân dân (như việc nuôi con nuôi theo phong tục tập quán, nuôi con nuôi tình nghĩa, con nuôi lập tự...), làm mất đi ý nghĩa, giá trị của việc nuôi con nuôi đích thực, ảnh hưởng đến quyền lợi của con nuôi, bố mẹ nuôi; nhiều trường hợp đến nay con nuôi đã lớn tuổi, không đủ điều kiện để làm thủ tục đăng ký hoặc chấm dứt việc nuôi con nuôi tại cơ quan có thẩm quyền. Qua số liệu giải quyết cho nhận hoặc chấm dứt việc nuôi con nuôi cho thấy, hầu như người dân nhìn nhận vấn đề về con nuôi còn khá sơ sài, đa số còn làm theo cảm tính, chưa thấy hết các quyền , nghĩa vụ của người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi. Một số gia đình nhận nuôi con nuôi cho rằng việc nhận nuôi con nuôi chỉ thể hiện tình cảm, nếu khi nào không muốn cha mẹ nuôi và con nuôi của nhau thì có thể chấm dứt được hoặc có trường hợp về mặt thực tế họ có mối quan hệ là cha mẹ nuôi và con nuôi thực thụ, có công nuôi dưỡng, chăm sóc từ nhỏ đến lớn nhưng về mặt pháp lý họ 2 không có bất cứ giấy tờ nào thể hiện là cha mẹ nuôi và con nuôi của nhau. Khi chấm dứt việc nuôi con nuôi giữa cha mẹ nuôi và con nuôi xảy ra thì nhiều yếu tố pháp lý không chứng minh được mối quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Từ đó, để làm căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi giữa họ gây nhiều khó khăn cho Tòa án thụ lý và giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi. Vì thế, khác với quan hệ cha mẹ đẻ với con đẻ không bao giờ chấm dứt, việc nhận con nuôi phải có sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (đăng ký việc nuôi con nuôi) thì mới có giá trị pháp lý nên việc chấm dứt nuôi con nuôi cũng phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Trên thực tế việc chấm việc nuôi con nuôi được hiểu là việc chấm dứt quan hệ pháp luật cha mẹ và con giữa cha mẹ nuôi và con nuôi thông qua những quyết định mang tính quyền lực Nhà nước do cơ quan có thẩm quyền ban hành, trong trường hợp này là Tòa án. Việc ban hành các quyết định này khi có những căn cứ mà pháp luật quy định theo yêu cầu của những người có quyền yêu cầu quy định tại khoản 5 Điều 29 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi của cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên hay các tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định tại Luật Nuôi con nuôi, Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời, việc chấm dứt nuôi con nuôi phải đảm bảo thống nhất giữa mặt chủ quan và khách quan của các chủ thể khi xét xử việc chấm dứt nuôi con nuôi trong nước và chấm dứt nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Hành vi tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi của cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên phải đảm bảo sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Hay nói cách khác phải đảm bảo sự thống nhất giữa mặt chủ quan và khách quan của các chủ thể. Tùy vào từng trường hợp cụ thể mà Tòa án có tiến hành xem xét thẩm quyền giải quyết hay không. Hiện nay, vai trò của nuôi con nuôi có ý nghĩa quan trọng bởi dù trên thực tế mang tính pháp lý song vẫn được điều chỉnh bằng các quy phạm đạo đức xã hội nên cần ban hành các quy định pháp luật về xác lập, duy trì và đặc biệt là chấm dứt nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam. Nhất là khi chúng ta tham gia và tuân thủ các quy định của Công ước quốc tế về chế định này. Do đó, các quy định về chấm dứt nuôi con nuôi cần được quy định một cách chặt chẽ, đảm bảo sự thống nhất cơ bản về hệ thống pháp luật quy định hiện hành. Trên cơ sở là đề cao tính nhân đạo, đảm bảo việc cho trẻ em làm con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em nói chung, chế 3 định về nuôi con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em nói chung. Việc xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật về vấn đề này có vị trí quan trọng trong tổng thể khung pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em trong xã hội hiện nay. Vấn đề nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi quốc tế nói riêng là vấn đề mang tính nhân đạo cao. Song, nếu xảy ra tình trạng chấm dứt về mặt pháp lý về tình trạng nuôi con nuôi nghĩa là chấm dứt trên phương diện pháp luật về các mối quan hệ về nhân thân và tài sản theo quy định. Có thể nói rằng việc chấm dứt nuôi con nuôi theo quy định pháp luật là một chế định vừa mang tính xã hội vừa mang tính đạo đức. Đây là một chế định mang lại ý nghĩa điều tiết mối quan hệ trong gia đình, cụ thể là quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Điều này cho thấy tầm quan trọng khi thi hành pháp luật liên quan đến trẻ em về quyền và lợi ích để chấm dứt việc nuôi con nuôi. Trong những quy định về nuôi con nuôi thì năm 2012, Việt Nam đã trở thành thành viên Công ước La Hay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế (Công ước La Hay). Công ước được áp dụng trực tiếp nhằm điều chỉnh việc cho, nhận con nuôi quốc tế tại Việt Nam không qua giai đoạn chuyển tiếp. Ngay sau khi Công ước La Hay có hiệu lực thi hành, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án triển khai thực hiện Công ước La Hay giai đoạn 2012-2015 nhằm nâng cao nhận thức về Công ước La Hay và tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về nuôi con nuôi. Có thể nói rằng, Công ước La Hay chính là công cụ pháp lý quốc tế với nhiều thành viên, điều chỉnh một cách toàn diện về nguyên tắc, yêu cầu đối với việc nuôi con nuôi quốc tế để đảm bảo việc nuôi con nuôi quốc tế được thực hiện vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Là một thành viên của Liên Hợp Quốc bên cạnh việc tuân thủ Công ước của La hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế thì Việt Nam đã có những quy định pháp luật riêng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động nuôi con nuôi phù hợp với sự phát triển xã hội ở nước ta trong những năm trở lại đây. Thông qua hoạt động này thì đã điều chỉnh mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi nói chung và chấm dứt hoạt động nuôi con nuôi trong thực tế hạn chế cũng như hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về hôn nhân gia đình ở nước ta đáp ứng yêu cầu trước thềm hội nhập. Theo tinh thần trên, tại khoản 3 điều 6 Luật ký kết gia nhập, thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 của Việt Nam ghi nhận như sau: “ Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế 4 đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó”. Vì vậy, quy định về chấm dứt nuôi con nuôi cần có những quy phạm pháp luật điều chỉnh riêng. Bởi lẽ, các quy định về chấm dứt nuôi con nuôi trong thực tế đã có nhiều thay đổi về tính chất về hoạt động này nên cần có sự điều chỉnh để phù hợp với mối quan hệ được pháp luật điều chỉnh. Những quy định này đã đề ra cơ sở pháp lý để có thể áp dụng một cách hiệu quả ở nước ta trong tình hình hiện nay. Việc Việt Nam tham gia vào các tổ chức mang tính chất khu vực cũng như toàn cầu như Liên Hợp quốc đã mang đến những thuận lợi và khó khăn cho nền kinh tế - xã hội Việt Nam nhằm điều chỉnh mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi nói chung và chấm dứt hoạt động nuôi con nuôi. Qua đó có thể bảo vệ các mối quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực này ở nước ta trong thời kỳ hội nhập. Một vài thập kỉ gần đây, hoạt động nuôi con nuôi trên thế giới đã có nhiều thay đổi và không ngừng củng cố và hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này. Với những tính chất ưu việt và tầm quan trọng nêu trên thì hoạt động chấm dứt nuôi con nuôi trên thực tế là một vấn đề quan trọng không thể thiếu được trong xã hội ở nước ta trong cơ chế mở cửa hội nhập như hiện nay. Thế nhưng, thực tiễn của quá trình áp dụng pháp luật về chấm dứt nuôi con nuôi còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, còn có những khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn, giữa văn bản và thực tế. Vì vậy, nghiên cứu về đề tài “Chấm dứt việc nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ cao học Luật, chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự là một việc làm cần thiết và cấp bách nhằm góp phần phát hiện những hạn chế của pháp luật về nuôi con nuôi trong đó có chấm dứt việc nuôi con nuôi trên thực tế, đồng thời, thông qua những kết quả đạt được thì phát hiện những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó hoàn thiện hệ thống pháp luật về chấm dứt việc nuôi con nuôi nói riêng và hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi nói chung đồng thời nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chấm dứt nuôi con nuôi trong giai đoạn hiện nay. 5 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến nội dung chấm dứt nuôi con nuôi, nhiều đề tài khoa học, bài viết trên tạp chí đã đề cập một cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội dung liên quan: - Nguyễn Thị Lan (2004) “Một số vấn đề về chấm dứt việc nuôi con nuôi” của Khoa luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội, được đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án Nhân dân Tối cao, 2004, Số 6, tr.59-63. Bài viết của tác giả đã phân tích các bất cập khi giải quyết dựa trên các căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi, quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi và hệ quả pháp lý của nó trong quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản theo quy định Luật hôn nhân gia đình năm 2000. - Phạm Tấn (2004) “Chấm dứt nuôi con nuôi: không phải “thôi” là được” tại tạp chí Pháp luật, chuyên đề số 2 tháng 10/2004, tr 14 – 15. Bài viết này đề cập đến vấn đề chấm dứt nuôi con nuôi theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và thực tiễn trong việc áp dụng các quy định trên trong cuộc sống. - Nguyễn Phương Lan (2005) Cần hoàn thiện các qui định về chấm dứt việc nuôi con nuôi và huỷ việc nuôi con nuôi Thạc sỹ Luật học – Khoa Dân sự, Đại học Luật Hà Nội được đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án Nhân dân Tối cao, 2005, Số 24, tr.02-06. Bài viết này tác giả đã phân tích Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 có qui định về việc chấm dứt việc nuôi con nuôi xuất phát từ thực tiễn nuôi con nuôi ở nước ta. Việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi tồn tại về mặt pháp lý nên trong những trường hợp nhất định, việc nuôi con nuôi có thể chấm dứt. - Vũ Thanh Tuấn (2008) Giải quyết việc chấm dứt nuôi con nuôi được đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án Nhân dân Tối cao, 2008, Số 8, tr.33-34; Đặng Hồ Điệp (2008) Không cần điều kiện khi tòa án thụ lý việc dân sự yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi được đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án Nhân dân Tối cao, 2008, Số 15, tr.37-39; Lê Thu Hà (2009) Giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi được đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án Nhân dân Tối cao, 2009, Số 4, tr.28-31, 38. Tất cả các bài viết trên là trao đổi ý kiến, quan điểm của các cá nhân khi Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý và giải quyết chấp nhận yêu cầu việc chấm dứt nuôi con nuôi theo sự việc đã đưa ra. Tuy nhiên, các ý kiến hay quan điểm của các cá nhân khi trao đổi hay căn cứ đều dựa vào Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Bộ 6 luật Tố tụng dân sự 2004 nên việc giải quyết chấm dứt nuôi con nuôi còn nhiều vướng mắc và chưa thỏa đáng khi Tòa xét xử trong thực tế. - Nguyễn Thị Mỹ Nhanh (2011) Nuôi con nuôi thực tế ở Việt Nam theo pháp luật hiện hành1, Luận văn nghiên cứu chỉ nêu khái niệm con nuôi thực tế, bản chất, ý nghĩa của con nuôi thực tế, nội dung pháp lý của con nuôi thực tế trong Luật Nuôi con nuôi và các quy định khác có liên quan, tìm ra những vướng mắc và trên cơ sở đó người viết nêu ra một số giải pháp kiến nghị để hoàn thiện thêm những quy định của pháp luật về nuôi con nuôi thực tế. Luận văn cũng có nêu căn cứ chấm dứt con nuôi thực tế và có kiến nghị hoàn thiện luật nhưng chỉ mang tính khái quát, không có tính chuyên sâu, cụ thể và cũng căn cứ dựa vào Luật Dân sự 2005, Luật Hôn Nhân và Gia đình năm 2000, Luật Nuôi con nuôi 2010 để làm căn cứ cho đề tài Luận văn. - Phan Thùy Dương (2013) Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi qua thực tiễn tại Thừa Thiên Huế2, Luận văn Thạc sỹ Luật học – Khoa Dân sự, Đại học Luật Hà Nội, Luận văn nghiên cứu tình hình thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi tại tỉnh Thừa Thiên Huế, phân tích những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thực hiện pháp luật nuôi con nuôi và kiến nghị giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật nuôi con nuôi hiệu quả. Trong đó, có mục nêu chấm dứt nuôi con nuôi như căn cứ, thủ tục, hệ quả pháp lý của việc chấm dứt nuôi con nuôi và kiến nghị hoàn thiện khi áp dụng thực tiễn các quy định tại Tòa thụ lý và giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, các nội dung kiến nghị là căn cứ dựa vào Luật Dân sự 2005, Luật Hôn Nhân và Gia đình năm 2000, Luật Nuôi con nuôi 2010 để làm căn cứ cho đề tài Luận văn. - Kiều Thị Huyền Trang (2014) Quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi theo pháp luật hiện nay3, Luận văn Thạc sỹ Luật học – Khoa Dân sự, Đại học Luật Hà Nội, Luận văn nghiên cứu về đánh giá việc áp dụng thực hiện các quy định của pháp luật về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi trong thực tiễn để kiến nghị các văn bản pháp luật có liên quan để điều chỉnh về quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi. Trong đó, có nêu chấm dứt quan hệ cha mẹ nuôi – con nuôi và có kiến nghị hoàn thiện luật nhưng chỉ mang tính khái quát, không có tính chuyên sâu, cụ thể và cũng căn cứ dựa vào Luật 1 http://doc.edu.vn/tai-lieu/luan-van-nuoi-con-nuoi-thuc-te-o-viet-nam-theo-phap-luat-hien-hanh-23356/ truy cập ngày 4/8/2017. 2 http://repository.law.vnu.edu.vn/jspui/bitstream/123456789/782/1/LDS-.pdf truy cập ngày 4/7/2017. 3 https://sachviet.edu.vn/threads/quan-he-cha-me-nuoi-con-nuoi-theo-phap-luat-viet-nam-hien-nay.39396 truy cập ngày 10/8/2017. 7 Dân sự 2005, Luật Hôn Nhân và Gia đình năm 2000, Luật Nuôi con nuôi 2010 để làm căn cứ cho đề tài Luận văn. Hiện nay, mặc dù đã ban hành các Luật mới như: Bộ Luật Dân sự năm 2015, Bộ Luật TTDS 2015, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nhưng vẫn có những vấn đề pháp lý áp dụng trong đời sống thực tiễn hàng ngày cần kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong việc chấm dứt việc nuôi con nuôi. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có mục đích xác định các vướng mắc của thực tiễn về vấn đề chấm dứt nuôi con nuôi để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật. Để đạt mục đích nghiên cứu, tác giả có nhiệm vụ sau: - Đối chiếu và so sánh các đối tượng được quyền khởi kiện tại tòa án qua Luật nuôi con nuôi (2010) và các quy định pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam qua Bộ luật Tố tụng dân sự (2015) và các căn cứ hợp lý để tòa án thụ lý và giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi khi áp dụng thực tế. - Phân tích, đánh giá thực trạng khi áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về việc chấm dứt việc nuôi con nuôi trong thực tiễn. - Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về việc chấm dứt việc nuôi con nuôi. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Tác giả nghiên cứu chú trọng về pháp luật hiện hành của Việt Nam đối với vấn đề chấm dứt việc nuôi con nuôi, việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện những quy định về việc chấm dứt việc nuôi con nuôi. * Phạm vi nghiên cứu Tác giả nghiên cứu ở phạm vi giới hạn như: - Một số căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật hiện hành được ghi nhận tại Bộ luật TTDS năm 2015 và Luật Nuôi con nuôi theo quy định hiện hành. Trong đó, với nội dung pháp luật về chấm dứt nuôi con nuôi, người viết chủ yếu nghiên cứu về các quy định tại các Điều luật từ Điều 13, 25, 26, 27 của Luật Nuôi con nuôi (2010) quy định về vấn đề này. Đối với BLTTDS, người viết 8 chủ yếu tập trung nghiên cứu quy định tại Khoản 5 Điều 29, khoản 1 Điều 187 về vấn đề này, ngoài ra có sự so sánh các quy định đối tượng cụ thể của các văn bản pháp luật về hoạt động này trên thực tế. Ngoài ra, khi áp dụng thực tiễn thực hiện các quy định có đối chiếu các quy định của Luật Nuôi con nuôi, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. - Một số kiến nghị hoàn thiện khi áp dụng các quy định vào thực tiễn sau khi chấm dứt nuôi được ghi nhận tại Luật nuôi con nuôi 2010 và thực tế việc áp dụng các quy định của pháp luật trong thực tiễn hiện hành. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện tốt luận văn, tác giả sử dụng ở mục 1.1, 1.2, 2.1, 2.2 để phân tích các nội dung của các quy định pháp luật hiện hành về quyền khởi kiện của chấm dứt việc nuôi con nuôi, đồng thời tác giả còn sử dụng phương pháp này trong việc phân tích những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi về xác định yếu tố tự nguyện hoặc hành vi ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi, con nuôi để từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật. - Phương pháp so sánh được sử dụng ở mục 1.1, 1.2, 2.1, 2.2 dùng để so sánh đối chiếu với các quy định liên quan nhằm làm rõ thêm những về những căn cứ và hệ quả của việc chấm dứt việc nuôi con nuôi. - Phương pháp thống kê được tác giả sử dụng để thống kê các số liệu thu thập được trong quá trình xử lý chấm dứt việc nuôi con nuôi. - Sau cùng là phương pháp tổng hợp, đánh giá được tác giả sử dụng để hoàn thành luận văn trên cơ sở tập hợp các tài liệu và các số liệu đã thu thập được, tác giả đưa ra nhận xét và đánh giá những vấn đề có liên quan. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng Ý nghĩa khoa học của Luận văn: Luận văn đã nêu những vướng mắc và kiến nghị các giải pháp những quy định về việc chấm dứt việc nuôi con nuôi trong việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Đánh giá khách quan tổng thể các quy định của pháp luật và tác động đến các đối tượng khi áp dụng các quy định pháp luật về việc chấm dứt việc nuôi con nuôi. Nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật còn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng việc chấm dứt việc nuôi con nuôi. 9 Giá trị đề tài ứng dụng: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, học tập, trao đổi về vấn đề chấm dứt việc nuôi con nuôi; Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo tại cơ quan, đơn vị có liên quan đến việc chấm dứt việc nuôi con nuôi ở địa phương là tỉnh Khánh Hòa nói riêng và cả nước nói chung trong việc hoàn thiện pháp luật về chấm dứt việc nuôi con nuôi trên phương diện lý luận và thực tiễn. 7. Bố cục và nội dung cơ bản của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn bao gồm có 2 chương, cụ thể như sau: - Chương 1: Quyền khởi kiện chấm dứt việc nuôi con nuôi. - Chương 2: Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi. 10 CHƯƠNG 1 QUYỀN KHỞI KIỆN CHẤM DỨT VIỆC NUÔI CON NUÔI Chế định nuôi con nuôi là một trong các chế định quan trọng mà pháp luật hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận và điều chỉnh. Mục đích việc nuôi con nuôi chủ yếu nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho trẻ em. Tuy nhiên, bên cạnh việc quy định đầy đủ các khía cạnh pháp lý để quan hệ nuôi con nuôi được thiết lập thì pháp luật các nước cũng quy định khía cạnh pháp lý cho việc chấm dứt nuôi con nuôi. Như vậy, quan hệ cha mẹ nuôi - con nuôi là quan hệ ràng buộc một người vào một hoặc hai người khác, những người có liên quan không có quan hệ huyết thống với nhau cha mẹ - con ruột, nhưng người nuôi xem như cha mẹ của ngưới được nuôi, dù không sinh ra người được nuôi; người được nuôi về phần mình, coi người nuôi như cha mẹ ruột. Đó là quan hệ cha mẹ con không được xác lập bằng con đường sinh sản mà theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng của các đương sự, đặc biệt là của người nuôi.4 Việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi đúng theo quy định pháp luật làm căn cứ để Tòa thụ lý và giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã có các quy định về căn cứ, thủ tục, thẩm quyền… về chấm dứt việc nuôi con nuôi. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng còn cho thấy một số vướng mắc về chấm dứt việc nuôi con nuôi, chủ yếu ở vấn đề về quyền quyền khởi kiện chấm dứt việc nuôi con nuôi làm căn cứ để Tòa án xem xét, giải quyết cho chấm dứt việc nuôi con nuôi. 1.1. Quyền khởi kiện của cơ quan lao động, thương binh xã hội Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi 2010, chủ thể được quyền khởi kiện yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi tại tòa án là cơ quan Lao động, thương binh và xã hội5. Quyền khởi kiện của cơ quan lao động, thương binh và xã hội trong trường hợp này là vì lợi ích và bảo vệ Trẻ em theo Luật nuôi con nuôi được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 26 Luật Nuôi con nuôi 2010 - Tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi, cụ thể: 4 Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình, Tập 1, Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. 5 Điểm a, Khoản 4 Điều 26 Luật Nuôi con nuôi 2010. 11 4. Cơ quan, tổ chức sau đây có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi khi có một trong các căn cứ quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 25 của Luật này: a) Cơ quan lao động, thương binh và xã hội; Đây là quy định phù hợp, bởi vì cơ quan lao động, thương binh và xã hội là cơ quan được giao trách nhiệm là bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em. Trách nhiệm này cũng đã quy định tại Luật Trẻ em 2016, cụ thể: Cơ quan lao động - thương binh và xã hội, cơ quan công an các cấp và Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác; phối hợp xác minh, đánh giá, Điều tra về hành vi xâm hại, tình trạng mất an toàn hoặc gây tổn hại, mức độ nguy cơ gây tổn hại đối với trẻ em.6Như vậy, dựa vào chức năng nhiệm vụ và quyền hạn được Nhà nước giao, cơ quan lao động, thương binh và xã hội có quyền khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu Tòa án thụ lý và giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi giữa cha mẹ nuôi và con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.7 Đối với thủ tục khởi kiện là cơ quan lao động, thương binh và xã hội tại tòa án được hướng dẫn theo thủ tục quy định tại khoản 3, 4, 5 Điều 189 Hình thức, nội dung đơn khởi kiện của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 như sau: 3. Cơ quan, tổ chức là người khởi kiện thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ, tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp tổ chức khởi kiện là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu theo quy định của Luật doanh nghiệp. 4. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây: a) Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện; b) Tên Tòa án nhận đơn khởi kiện; c) Tên, nơi cư trú, làm việc của người khởi kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người khởi kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có). 6 7 Khoản 2, Điều 51 Luật Trẻ em năm 2016. Điều 10 Luật Nuôi con nuôi 2010. 12 Trường hợp các bên thỏa thuận địa chỉ để Tòa án liên hệ thì ghi rõ địa chỉ đó; d) Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là cá nhân hoặc trụ sở của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có); đ) Tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có). Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện; e) Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân hoặc trụ sở của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có). Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; g) Quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm; những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; h) Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có); i) Danh mục tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện. 5. Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Người khởi kiện bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, đối chiếu với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì cho thấy có sự không thống nhất về chủ thể được quyền khởi kiện. Theo đó, chủ thể được quyền khởi kiện là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước được quy định tại khoản 1, Điều 187 Bộ luật tố tụng Dân sự quy định bao gồm: Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, 13 quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình8. Như vậy, Bộ Luật TTDS 2015 không thừa nhận quyền khởi kiện của cơ quan lao động, thương binh và xã hội là đối tượng được quyền khởi kiện theo quy định của Luật Nuôi con nuôi 2010. Việc quy định chủ thể được quyền khởi kiện Tòa án giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định Luật hôn nhân và gia đình Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình. Các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình theo sự phân côn của Chính phủ. Ủy ban nhân dân các cấp và cơ quan khác thực hiện quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình theo quy định pháp luật 9. Do đó, việc quy định không cụ thể là cơ quan lao động, thương binh và xã hội là chủ thể có trách nhiệm, quyền hạn khởi kiện Tòa án yêu cầu giải quyết việc nuôi con nuôi nên trên thực tế cho thấy chỉ có Hội liên hiệp phụ nữ các cấp thường là tổ chức đứng ra khởi kiện yêu cầu Tòa án thụ lý và giải quyết chấm dứt việc nuôi con nuôi. Đối chiếu chủ thể được quyền khởi kiện tại Luật Nuôi con nuôi 2010 và BLTTDS 2015, tác giả nhận thấy mặc dù BLTTDS 2015 ra đời sau mà vẫn không bổ sung cụ thể cơ quan lao động, thương binh và xã hội là chủ thể được quyền khởi kiện theo quy định Luật nuôi con nuôi 2010. Theo đó, thì cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em trong phạm vi nhiệm vụ của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014. Dưới góc nhìn của tác giả thì đây là một trong những quy định mang tính chất quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi tham gia vào quan hệ được pháp luật hôn nhân gia đình điều chỉnh. Đối với vấn đề chấm dứt nuôi con nuôi thì đây chính là căn cứ pháp lý cụ thể để tạo cơ sở cho việc tham gia của cơ quan lao động, thương binh xã hội là chủ thể tham gia khởi kiện khi yêu cầu chấm dứt nuôi con nuôi trong thực tế nói chung. Từ sự không thống nhất trong quy định của pháp luật trong thực tiễn, quan điểm tác giả cho rằng BLTTDS 2015 chỉ quy định là các cơ quan trên có quyền tham gia khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, vấn đề chấm dứt việc nuôi con nuôi lại được điều chỉnh bằng Luật Nuôi con nuôi 2010. Nếu dựa theo quy định này thì cơ quan lao động, 8 9 Khoản 1 Điều 187 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015. Khoản 2 Điều 4 Luật hôn nhân và gia đình 2014. 14 thương binh xã hội không có thẩm quyền khởi kiện Tòa án thụ lý và giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi đối với cha mẹ nuôi và con nuôi. Như vậy, là có sự không thống nhất giữa các quy định của pháp luật nói chung. Kiến nghị: Đối với quy định tại khoản 1 điều 187 của BLTTDS 2015 cần có sự thống nhất về chủ thể được quyền khởi kiện mà cụ thể ở đây là cơ quan lao động, thương binh và xã hội để có sự phù hợp Luật nuôi con nuôi 2010, đảm bảo tính hợp lý, tính phối hợp giữa các Luật với nhau trong lĩnh vực nuôi con nuôi. Dựa vào phân tích ở trên và sự không thống nhất giữa các Luật Nuôi con nuôi 2010 và BLTTDS 2015, tác giả kiến nghị thay đổi quy định tại khoản 1 điều 187 của BLTTDS 2015: Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình thay đổi cụm từ theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình bằng cụm từ theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Từ đó sẽ mở rộng cửa cho sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền là đối tượng khởi kiện trong việc yêu cầu Tòa án thụ lý và giải quyết liên quan công tác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên trong quan hệ dân sự nói chung. Đồng thời, tác giả có kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) có văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể theo quy định khoản 1 điều 187 BLTTDS 2015 cho các chủ thể có quyền tham gia khởi kiện mà chủ thể ở đây là cơ quan lao động, thương binh và xã hội là chủ thể khởi kiện được quy định theo Luật Nuôi con nuôi 2010. 1.2. Quyền khởi kiện của cha mẹ đẻ yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi Việc cha mẹ đẻ cho con mình làm con nuôi người khác thường là việc làm bất đắc dĩ trong điều kiện, hoàn cảnh khó khăn nhất định. Do đó, cha mẹ đẻ trước khi cho con mình làm con nuôi cho người khác nhận nuôi luôn cân nhắc, suy nghĩ kĩ trước khi quyết định với mong muốn con mình sẽ có môi trường, điều kiện sống tốt hơn, khi bản thân họ không có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc cho trẻ10. Khi cha mẹ đẻ giao con mình cho người nhận nuôi thì quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đẻ có chấm dứt với con đã cho làm con nuôi hay không hay vẫn tồn tại một số quyền và nghĩa vụ nhất định sẽ làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trên cơ sở đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em được nhận nuôi trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ 10 Khoản 1 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi 2010. 15 và cha mẹ nuôi có thỏa thuận11. Bởi vậy, khi Tòa án thụ lý và giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi thì Luật Nuôi con nuôi có quy định về hệ quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi như sau trường hợp con nuôi là ngưới chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì Tòa án quyết định giao cho cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi ích tốt nhất của người đó12. Chính vì vậy, theo quy định tại điều 26 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định thì chủ thể khởi kiện Tòa án giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi là cha mẹ đẻ như sau: Điều 26. Tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi 1. Cha mẹ nuôi. 2. Con nuôi đã thành niên. 3. Cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của con nuôi.13... Quy định này chính là căn cứ pháp lý để cha mẹ đẻ khởi kiện yêu cầu chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Việc này hết sức cần thiết bởi việc đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của đứa trẻ được nhận nuôi. Việc cho con làm con nuôi thường xuất phát từ sự tự nguyện, phù hợp với mong muốn và tình cảm của cha mẹ đẻ, phù hợp với lợi ích của người con nuôi. Mọi sự tác động, dụ dỗ, lừa dối, cưỡng ép… để có được sự đồng ý của cha mẹ đẻ trong việc cho con mình làm con nuôi cũng đều không hợp pháp và về nguyên tắc không có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, sau khi cho con làm con nuôi của cha mẹ nhận nuôi thì trên thực tế lại có phát sinh về những vướng mắc trong môi trường chăm sóc nuôi con nuôi hoặc xảy ra sự phân biệt đối xử của cha mẹ nuôi đối với con đẻ và con nuôi. Chính vì vậy, khi thấy con của mình bị hành hạ, ngược đãi, phân biệt đối xử trong gia đình nhận làm con nuôi thì cha mẹ đẻ là chủ thể có quyền khởi kiện tại Tòa án yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi. Việc để cha mẹ đẻ có đủ căn cứ pháp lý hoặc chứng minh đã đủ điều kiện để khởi kiện yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định Luật Nuôi con nuôi thì vẫn còn những trường hợp bất cập, vướng mắc khi Tòa nhận thụ lý và giải quyết việc dân sự này. Đó là những trường hợp như: 11 Khoản 4 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi 2010. Khoản 2 Điều 27 Luật Nuôi con nuôi 2010. 13 Khoản 3 Điều 26 Luật nuôi con nuôi 2010. 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan